Đối chiếu bản Hán ngữ và bản Anh ngữ Phẩm PHÁP SƯ
Để cho quí bạn & các em thấy tại sao chúng tôi nói chúng ta không cần phải đọc bản dịch chữ Anh của Hendrik Kern [tên khai sinh: Johan Hendrik Casper Kern (1833-1917), người Hòa-Lan] Phẩm PHÁP SƯ trong Kinh Pháp Hoa, mà chỉ cần đọc bản chữ Hán của Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva 344-413) là đủ, vừa có âm điệu vừa chính xác, mặc dù cả hai bản dịch đều từ Phạn ngữ (Sanskrit).
Sau đây mời quí bạn đọc bản chữ Anh (dịch năm 1884) nhé:
Any Bodhisattva Mahâsattva, Bhaishagyarâga, who after the complete extinction of the Tathâgata, in the last times, the last period shall set forth this Dharmaparyâya to the four classes of hearers, should do so, Bhaishagyariga, after having entered the abode of the Tathâgata, after having put on the robe of the Tathâgata, and occupied the pulpit of the Tathâgata. And what is the abode of the Tathâgata, Bhaishagyarâga? It is the abiding in charity (or kindness) to all beings; that is the abode of the Tathâgata, Bhaishagyarâga, which the young man of good family has to enter. And what is the robe of the Tathâgata, Bhaishagyarâga? It is the apparel of sublime forbearance; that is the robe of the Tathâgata, Bhaishagyarâga, which the young man of good family has to put on. What is the pulpit of the Tathâgata, Bhaishagyarâga? It is the entering into the voidness (or complete abstraction) of all laws (or things) ; that is the pulpit, Bhaishagyarâga, on which the young man of good family has to sit in order to set forth this Dharmaparyâya to the four classes of hearers.”
(Nguồn: Amazone)
Chúng ta thấy gì?
1) Tất cả các từ-ngữ có dấu (^) thật ra là dấu ngang - ở trên đầu các nguyên âm; như: Mahâsattva phải viết là Mahāsattva (Đại Bồ-tát) ; Bhaishagyarâga phải viết là Bhaishagyarāga (Dược Vương) ; Tathâgata phải viết là Tathāgata (Như-Lai) Dharmaparyâya phải viết là Dharmaparyāya (Pháp môn) ; nhưng chẳng sao cả,, vì vào thời điểm 1844 chưa có FONT Sanskrit bằng chữ La-tinh!
2) Nếu quí bạn nào biết tiếng Anh khi đọc bản dịch trên chắc chắn sẽ thấy không bằng bản Hán âm Việt-Nam. Hãy đối chiếu Hán âm Việt và ngữ nghĩa khi dịch sang Việt ngữ là thấy rõ.
3) Mấy câu như các “tổ-từ” (phrase): Nhập Như Lai thất; Trước Như-Lai y; Tọa Như-Lai [/i]tòa của âm Hán-Việt chắc là phải hay và rõ nghĩa hơn chữ Anh nhiều.
4) Những câu như: It is the abiding in charity (or kindness) to all beings; không thể nào hay bằng: Nhất thiết chúng sinh trung đại từ-bi tâm thị.
v.v.. và v.v..
5) Đọc lại nhé và cũng rất dễ thuộc lòng:
Dược Vương, nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân,
Như Lai diệt hậu,
Dục vị tứ chúng,
thuyết thị Pháp Hoa kinh giả.
Vân hà ưng thuyết?
Thị thiện nam tử, thiện nữ nhân!
Nhập Như Lai thất
Trước Như Lai y
Tọa Như Lai tòa.
Nhĩ cập tứ chúng thuyết quảng tư kinh.
Như Lai thất giả, nhất thiết chúng sanh trung đại từ-bi tâm thị;
Như Lai y giả, nhu hòa nhẫn nhục tâm thị;
Như Lai tòa giả, nhất thiết pháp không thị.
An trú thị trung,
Nhiên hậu dĩ bất
giải đãi tâm vị
chư Bồ-tát cập
tứ chúng quảng thuyết
thị Pháp-Hoa Kinh.
Quí bạn & các em sau khi đối chiếu với bản âm Hán-Việt thì sẽ thấy tại sao người Nhật, người Hàn và người Việt chúng ta dễ dàng thấy Đạo Phật – nhất là Phật giáo Đại thừa (Mahayana Buddhism) – gần với chúng ta nhất vừa TÍN NGƯỠNG lại vừa HÀNH TRÌ là thế. Có người bảo Ngài (...) một tu sĩ Việt Nam đã khuất thuộc hết quyển Kinh Pháp Hoa; tốt thôi; nhưng chúng tôi (Mr Phụng) cho rằng đó chỉ là tán thán quá cao ; vị đó có thể thuộc hết một hay hai hay ba phẩm trong 28 phẩm mà ngài ưa thích để tụng niệm & hành trì suốt đời, nhưng cả một quyển Kinh thì e hơi khó trong thời buổi này.
Sau cùng, cầu chúc quí bạn & các em Phật tử nào Kính Mến & Tin Yêu PHÁP HOA KINH như các Tổ Sư TRÍ KHẢI (571-597; chuyên về Triết lý) và Tổ Sư NHẬT LIÊN (1222-1888; chuyên về Niệm Pháp) sẽ nhận được ÂN SỦNG của Chư Phật và Bồ-Tát từ Thập phương và các cõi tam thiên đại thiên thế giới chuyển về.
Tây đô, May 17th 2021
Chiều dịu mát (14:30)
CHỮ ÍT TÌNH NHIỀU
भक्तिवेदन्तविद्यारत्न