Nhân mới đây lục lại những bài thơ của PHẠM CÔNG THIỆN (1941-2011) để chuyển về cho quí bạn bè và các em đồng hương & đồng môn DUY TÂN qua E-mail, người viết (gọi tắt sau này là mình cho dễ nhé) thấy mình còn thiếu nhiều (vì do chép lại từ một bản cũng chép tay lâu lắm) và thắc mắc không biết bản chánh ra sao.
Thì quá may mắn, DUẬN tức NGUYỄN VĂN DUẬN, người em quí mến đồng chung quan điểm (tuy nhỏ hơn mình ba tuổi, bằng tuổi Huỳnh Khôi, sinh năm 1950) ở ngoài quê, tối hôm qua chuyển ngay liền cho mình toàn bộ 12 bài thơ từ tập Ngày Sanh Của Rắn. GS NGUYỄN VĂN DUẬN, dạy ở trường trung học công lập Duy Tân, Phan Rang từ năm 1973 sau khi tốt nghiệp cử nhân giáo khoa triết (thay thế GS Đào Trường Khánh, dạy từ 1964, chuyển về Saigon). Tuy nhiên, điều mình muốn nói là DUẬN rất giỏi chữ Hán với những bài khảo cứu văn học đăng trên tạp chí danh tiếng KIẾN THỨC NGÀY NAY và luôn luôn được xếp đăng ở các trang đầu khi số ra có bài của Duận. DUẬN vẫn còn đang sinh sống ở Phan Rang từ sau 1975 đến giờ.
May quá. Quí lắm thay.
Vì thế, nói theo cụ Phan Bội Châu (1867-1940) khi ĐỀ TỪ cho bộ HÁN VIỆT TỪ ĐIỂN GIẢN YẾU (tập thượng & tập hạ) của Đào Duy Anh (1904-1988), xuất bản lần đầu tiên - mà cụ lấy bút danh HÃN MẠN TỬ -: "Bỉ nhân thấy cỗ ăn ngon, quá mừng sinh dạn, xin viết mấy chữ ở đầu sách, anh em bốn bể hẳn cũng nhiều người đồng ý bới bỉ nhân. " (Huế, ngày 01 thánh 3 năm 1931).
Mình dùng cả câu trên để tỏ tấm lòng quí trọng & mến yêu người em đồng chí hướng và gửi đến các bạn bè cùng những ai yêu mến PCT. Hẳn quí bạn và các em cũng đồng ý vậy.
Một lần nữa, chân thân thành cảm ơn DUẬN, đã giải tỏa được thắc mắc của mình về tác phẩm nhỏ bé nhất của PCT.
Sau đây là nguyên văn của DUẬN:
Gởi anh bài thơ NGÀY SANH CỦA RẮN gồm đủ 12 khổ thơ
Ngày sanh của rắn (1966)
I
tôi đi đông chìm
trời âm u thung lũng khô
nhiều mây chim bay không nổi
tôi đi
dưới kia sụp đổ
núi cấm nổ tôi ra
cửu long ca từ tây tạng
tôi về
tôi hiện
đèn tắt trời gió tắt trăng
chim lạ
kêu tiếng người
hố thẳm ra đời
tôi bay trên biển
II
tôi nằm cho rã chiếu cạp điều
nước chảy lên vùng phố tịch liêu
tôi nhớ một lần cây quế mọc
tôi đứng gọi hương trọn buổi chiều
III
mưa chiều thứ bảy tôi về muộn
cây khế đồi cao trổ hết bong
IV
trời mưa nữu ước cây mọc
nhớ hương trời mưa ngày tháng
nhớ hương đường hoang mái vắng
nữu ước chỉ còn hương trong giấc ngủ
tim anh tràn máu
con chim đã bay về rừng đạn
anh không còn làm tu sĩ
anh chỉ còn hương trong giấc ngủ
anh chỉ còn máu để đổ vào tim hương
đổ vào tám tách cà phê đen anh uống mỗi đêm
tại greenwich village
tại làng thi sĩ
tại đường khói bay
tại hương trong giấc ngủ
tại chiều ba mươi tết ở việt nam
bây giờ anh xa hương đến mấy đại dương xanh
mấy phương trời cỏ mọc
mấy phương trời hương khóc
hương còn ca hát
hương còn phơi áo giữa phố buồn
hương còn cười
mười năm rồi cây quế vẫn mọc trên đời anh
trên mắt anh
môi anh
trên bước chân buồn phố mẹ ngày xưa
trên bước chân chiều phố lạ hôm nay
mưa làm tóc anh thơm
mùi cây quế
giữa hồ
mọc giữa hồ quế hương
tóc anh mọc dài
che chở hương
lúc mưa rơi
lúc đông lạnh
lúc chim chiều đi mất
mưa trên phố đêm
trên quán cà phê ý đại lợi
trên chiến tranh
của quê hương
của quế hương
còn anh
V
rạng đông tôi xin thề thức dậy ba giờ sáng
đợi kinh đào chảy ngược
cửa nhỏ đóng kín
những chiếc cầu tuổi dại
mười sáu năm tôi thức trong đời
mười sáu con kinh đào không bao giờ chảy ngược
đứng ngang cầu pont-neuf
nhìn sông seine tôi thấy cửu long
paris đuổi mất mây mộng hoang đường
đập vỡ cơn điên trên triền đá sương
tôi trốn giặc đời
tắm trong hồn hương
trái đu đủ
trong khu vườn xưa
con rắn nhỏ
VI
tôi chấp chới
đắng giọng
giữa tháng ngày mơ mộng
nốt ruồi của hương
hay nốt ruồi của rigvéda
tôi mửa máu đen
trên nửa đêm paris
tôi giao cấu mặt trời sinh ra mặt trăng
tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài người
cho quế hương nằm ở nhà thương điên của trí nhớ
mặt trời có thai!
mặt trời có thai!
sinh cho tôi một đứa con trai mù mắt
VII
tôi nuốt nọc đen giữa đường guillaume apollinaire
từ xóm saint-germain-des-prés
mọc lên giáo đường hang động
cà phê biến hồn đầu thai
hoá thành một triệu con ma đen
nhảy múa trên núi lửa đầu tôi
tôi mặc đồ xanh
và mang đồng hồ da đen
tôi chứa chấp sáu ngọn lửa điên
trong sáu diêm quẹt còn rớt lại
tôi gọi hương và tôi chết giấc
tôi chạy lên trời làm rắn thâu đêm
máu đổ mưa đen
ồ cây mồng tơi
của thời trẻ dại
tôi gọi thầm
rắn cuộn tròn
tương lai
VIII
mười năm qua gió thổi đồi tây
tôi long đong theo bóng chim gầy
một sớm em về ru giấc ngủ
bông trời bay trắng cả rừng cây
gió thổi đồi tây hay đồi đông
hiu hắt quê hương bến cỏ hồng
trong mơ em vẫn còn bên cửa
tôi đứng trên đồi mây trổ bông
gió thổi đồi thu qua đồi thông
mưa hạ ly hương nước ngược dòng
tôi đau trong tiếng gà xơ xác
một sớm bông hồng nở cửa đông
IX
rắn trườn vỡ trứng chim rừng
tôi nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm
khuya buồn tủi nhục môi em
mưa bay nhỏ nhẹ qua thềm bơ vơ
tiếng ru chín đỏ điện thờ
hoang vu tôi đứng đợi chờ chim kêu
tay còn ôm giữ tình yêu
tôi về phố động những chiều hư vô
đời đi trên những nấm mồ
đau tim em hát cơ hồ khăn tang
phố chiều tôi bước lang thang
nuôi con sông nhỏ mơ màng biển xanh
nửa đêm khói đốt đời anh
yêu em câm lặng khô cành thu đông
lời ca ru cạn dòng sông
trọn đời chạy trốn mống vồng cầu điên
bỏ mình nước chảy đồi tiên
theo con chim dại lạc miền thiên hương
về đâu thương những con đường
lê thê phố cũ nghe buồn hè xưa
X
mùa xuân bay thành khói
tôi ca hát một mình
suốt đời không biết nói
nước chảy tràn con kinh
quá khứ bay lên trời
biến thành cánh chim non
tôi quì hôn lá mới
đau khổ trắng linh hồn
hư không đổ ra khơi
kỷ niệm trôi qua cầu
bãi chiều chưa người tới
tình nhỏ quên từ lâu
xuân bay trắng núi đồi
tôi nằm ngủ mơ chim
bỗng hét lên trong tối
ngồi thức dậy bảy đêm
trời cuối năm gác trọ
đèn tắt suốt đêm dài
con chim mười năm nhỏ
bay về đậu nơi đây
hơi thở giết thời gian
bướm nằm chết thang lầu
tiếng chim ru ngày tháng
máu chảy về sông sâu
suốt đời không biết nói
tôi ngồi thức một mình
đốt thuốc lên nhìn khói
đêm rạng điềm hư linh
XI
tôi lái ô tô buýt giữa thành phố new york
mỗi ngày tôi lái ô tô buýt đi trên những con đường không người những con đường chim chết
những con đường của mỗi ngày
từ riverside drive đến broadway đến đại lộ thứ năm rồi đến washington square
công trường nghệ sĩ tóc bay hương hát
từ greenwich village tôi đi về chinatown
mười lăm xu mỗi chuyến
xa hay gần hay mau hay chậm
tôi vẫn lái cuộc đời tôi trên những con đường quen thuộc không mây
mùa lá hay mùa kèn nửa đêm
dong buồm thổi đến honolulu lặng gió
xa việt nam đà lạt và cà phê tùng cuối năm
tôi cúi đầu trong hầm cà phê figaro nữu ước
chuyến ô tô buýt của đời tôi vẫn chạy hoài
trên những con đường mỹ châu trống rỗng
chuyến xe không về harlem đói lửa
vì mỹ châu trống rỗng trên chuyến ô tô buýt chiều nay tóc bay hương khóc
tôi vẫn lái chuyến xe này đi về đêm tối
đêm tối nữu ước là đêm tối nhà xác
tôi đốt đèn cầy để nhìn xác tôi giữa nhà mồ mỹ châu lạnh lẽo mưa đen
đêm qua tôi thấy máu đổ trong hầm xe điện irt
giữa con đường 42nd hay times square
tôi thấy việt nam ngang tàng cho mặt trời vẫn mọc trên rắn lửa
trên mái ô tô buýt chiều thu
XII
buổi chiều mưa đụng tim
mưa đụng máu
đèn đường đổ xuống nước xanh
xin hét lên rừng u minh đầu đông
tử hình trong ngục
nhốt vào trong ngục
suốt đời trong ngục
khói vóc lửa núi
nhóm nước đầu thu
xin đừng nói
lá chuối
lá me non
xanh nhà thương
ngồi trong thành phố
hoa trắng không còn
con chó đứng nhìn xe lửa mỗi ngày
chùm hoa trắng rụng một hai bông rất nhỏ
bông trắng quá nhỏ
buổi chiều ích kỷ
con đường quá dài
những cây trắc bá chùi đầu lên nghĩa địa
một người hoạ sĩ thất tình
nhân loại đều thất tình
nói đi thật nhiều
khoai tây
lang thang ngược vòng những vũ trụ
anh nói gì
tôi không nghe
xuống phố và lên phố
chạy hun hút qua hai nghĩa địa
cây trắc bá
chôn vùi con chó nhà ga
Khi chiều tới gió reo trên lá rừng phong
***
Có điều mình để ý là:
1) Bài thơ thứ VIII trong loạt 12 bài trên, mình đã thấy và đã đọc trong Tập san Văn nghệ do nhà LÁ BỐI xuất bản; số ra đầu tiên, số 1 Tháng Bảy năm 1965; sau này được in lại năm 2015 (in chung thành 2 tập gồm tất cả 12 số với số cuối cùng ra ngày 12-6-1966).
2) Bài thơ thứ VIII nguyên là bài thơ đã được đăng trên số 1 tạp chí LÁ BỐI với tựa BẤT NHỊ, như thế này:
BẤT NHỊ
Mười năm qua gió thổi đồi tây
Tôi long đong theo bóng chim gầy
Một sớm em về ru giấc ngủ
Bông trời bay trắng cả rừng cây
Gió thổi đồi tây hay đồi đông
Hiu hắt quê hương bến cỏ hồng
Trong mơ em vẫn còn bên cửa
Tôi đứng trên đồi mây trổ bông
Gió thổi đồi thu qua đồi thông
Mưa hạ ly hương nước ngược dòng
Tôi đau trong tiếng gà xơ xác
Một sớm bông hồng nở cửa đông
1. 5. 65
3) Bài thơ trên được đăng ở trang 4 của tạp chí này do TT Nhất Hạnh chủ trương khi còn ở VNCH. Điều đặc biệt là ba trang đầu của số đầu tiên này dành cho:
- Mục lục (trang 1)
- Bài thơ CHỖ ĐỨNG (của Nhất Hạnh): 4 câu (trang 2)
- Bài thơ VỀ VỚI EM BÉ THƠ NGÂY (của Nhất Hạnh): 16 câu (trang 3).
Như vậy ta thấy lúc đó TT Nhất Hạnh (sinh năm 1923) rất quí mến Phạm Công Thiện.
Mình đã có mấy bài viết trên trang Duy Tân hồi năm rồi về Nhất Hạnh và Phạm Công Thiện. Quí bạn và các em có thể đọc lại đâu đó ở mục HÌNH ẢNH VIỆT NAM.
Tây đô, Chủ nhật, March 17th 2019
CHỮ ÍT TÌNH NHIỀU
भक्तिवेदन्तविद्यारत्न |