TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG :: Xem chủ đề - Trang Phú Lan "Sưu Tầm"
TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG
Nơi gặp gỡ của các Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Phan Rang - Ninh Thuận
 
 Trang BìaTrang Bìa   Photo Albums   Trợ giúpTrợ giúp   Tìm kiếmTìm kiếm   Thành viênThành viên   NhómNhóm   Ghi danhGhi danh 
Kỷ Yếu  Mục Lục  Lý lịchLý lịch   Login để check tin nhắnLogin để check tin nhắn   Đăng NhậpĐăng Nhập 

Trang Phú Lan "Sưu Tầm"

 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Truyện Ngắn, Bút Ký, Tạp Ghi...
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Người Post Đầu Thông điệp
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7764

Bài gửiGửi: Tue Aug 02, 2016 2:28 pm    Tiêu đề: Trang Phú Lan "Sưu Tầm"


CẢM TẠ MIỀN NAM

Tác giả Phan Huy

CẢM TẠ MIỀN NAM

Phan Huy

(Phú Lan sưu tầm)


CẢM TẠ MIỀN NAM.
Để biết đâu mới là Thiên Đường


Phan Huy, một thi nhân nổi tiếng ở miền Bắc: Phan Huy đã viết môt bài thơ có tựa đề là

“Cảm Tạ miền Nam” rất cảm động. Ngay trong phần mở đầu ông viết:

“Đã từ lâu, tôi có điều muốn nói

Với miền Nam, miền đất mới thân quen

Một lời cảm ơn tha thiết chân tình

Của miền Bắc, xứ ngàn năm văn vật.”

Sau cái gọi giải phóng và thống nhất, ông Huy đã có dịp vào miền Nam và ông đã nhận ra

miền Nam không tồi tệ như bác và đảng đã tuyên truyền và nhồi nhét vào đầu ông và khi đã nhận ra một sự thật phũ phàng, ông Huy đã bật khóc:



Trước mắt tôi, một miền Nam sinh động

“Tôi đã vào một xứ sở thần tiên

Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền

Cơm áo no lành, con người hạnh phúc.

Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục

Mở mắt to nhìn nửa nước anh em

Mà đảng bảo là bị lũ nguỵ quyền

Áp bức, đoạ đày, đói ăn, khát uống.

Trước mắt tôi, một miền Nam sinh động

Đất nước con người dân chủ, tự do

Tôi đã khóc ròng đứng giữa thủ đô

Giận đảng, giận đoàn bao năm phỉnh gạt.”

Phan Huy cũng không quên mô tả cuộc sống ở miền Bắc cs, nơi ông đã sinh ra và lớn lên,

vô cùng tồi tệ. Đời sống của nhân dân miền Bắc nghèo khó đến nỗi phải kéo cầy thay trâu

và nhân phẩm của nhân dân miền Bắc bị xô đẩy xuống tới mức ngang hàng với bèo dâu:



Xã hội sơ khai, tẩy não, một chiều

“Sinh ra lớn lên sau bức màn sắt

Tôi chẳng biết gì ngoài bác, đảng "kính yêu"

Xã hội sơ khai, tẩy não, một chiều

Con người nói năng như là chim vẹt.

Mở miệng ra là: "Nhờ ơn bác đảng

Chế độ ta ưu việt nhất hành tinh

Đuốc soi đường chủ nghĩa Mac Lenin

Tiến nhanh, tiến mạnh lên thiên đường vô sản.

Hai mươi mốt năm trên đường cách mạng

Xã hội thụt lùi người kéo thay trâu

Cuộc sống xuống thang tính bằng tem phiếu

Nhân phẩm con người chẳng khác bèo dâu.”

Trong phần cuối bài thơ, ông Huy kết luận rằng, ngày 30-04-1975 thật sự không phải là ngày cộng sản miền Bắc “giải phóng” miền Nam thoát khỏi sự kìm kẹp của Mỹ Ngụy, mà ngược lại là ngày miền Nam đã phá màn u tối, đã khai đường chỉ lối, đã khai sáng cho nhân dân miền Bắc thấy được bộ mặt gian trá và độc ác của bè lũ cộng sản, thật sự chúng chỉ là một bầy ác quỷ và ông đã không tiếc lời cảm tạ nhân dân miền Nam:



Giải phóng tháng tư đen

“Cảm tạ miền Nam phá màn u tối

Để tôi được nhìn ánh sáng văn minh

Biết được nhân quyền, tự do dân chủ

Mà đảng từ lâu bưng bít dân mình.

Cảm tạ miền Nam khai đường chỉ lối

Đưa tôi trở về tổ quốc thiêng liêng

Của Hùng Vương, quốc tổ giống Rồng Tiên

Chớ không là Cac Mac và Le nin ngoại tộc.

Cảm tạ miền nam mở lòng khai sáng

Đưa tôi hội nhập cùng thế giới năm châu

Mà trước đây tôi có biết gì đâu

Ngoài Trung cộng và Liên sô đại vĩ

Cảm tạ miền Nam đã một thời làm chiến sĩ

Chống lại cộng nô cuồng vọng xâm lăng

Hầu giúp cả nước thoát bầy ác quỷ

Dù không thành công cũng đã thành danh.”

Trong một bài thơ khác có nhan đề là “Tâm sự một đảng viên” ông Phan Huy đắng cay

bộc lộ rằng, sở dĩ ông theo đảng cộng sản là vì ông quá tin nghe theo lời hồ già dạy bảo:



“Rằng đảng ta ưu việt nhất hành tinh

“Rằng đảng ta ưu việt nhất hành tinh

Đường ta đi, chủ nghĩa Mac Lê nin

Là nhân phẩm, là lương tri thời đại.”

Và sở dĩ ông đã xung phong đi cứu miền Nam ruột thịt là vì ông tin vào lời tuyên truyền của hồ già và đảng cs:



Khắp nơi nơi cảnh đói rách cơ hàn

“Rằng tại miền Nam, ngụy quyền bách hại

Dìm nhân dân dưới áp bức bạo tàn

Khắp nơi nơi cảnh đói rách cơ hàn

Đang rên siết kêu than cần giải phóng”

Khi dự tính vào miền Nam thăm viếng một người bà con họ hàng, vì tin vào lời tuyên truyền của bác và đảng là người dân miền Nam đói khổ, nên ông đã chẳng quản đường xa diệu vợi mang theo một mớ gạo mà ông đã phải, dành dụm trong nhiều ngày mới có được, để biếu người bà con đói khổ:

“Chẳng quên mang theo ký gạo để dành

Biếu người bà con trong nầy túng thiếu”

“Đến Sài Gòn, tưởng say men chiến thắng

Nào ngờ đâu sụp đổ cả niềm tin

Khi điêu ngoa, dối trá hiện nguyên hình

Trước thành phố tự do và nhân bản.”

Khi đến và đứng trước nhà người bà con, ông Phan Huy mới nhận ra rằng, mớ gạo mà ông nâng niu mang từ miền Bắc thiên đường cộng sản, với hảo ý để biếu người bà con miền Nam bị Mỹ Ngụy kìm kẹp đói khó là một điều điều “lăng mạ” người bà con này:


Mộng miền Nam

“Tôi tìm đến người bà con trong xóm

Nhà xinh xinh, đời sung túc tiện nghi

Ký gạo đem theo nay đã mốc xì

Tôi vội vã dấu vào trong túi xách.

Anh bà con tôi- một người công chức ngụy

Nét u buồn nhưng cũng cố làm vui

Đem tặng cho tôi một cái đồng hồ

Không người lái, Sei-ko, hai cửa sổ.

Rồi anh nói: "Ngày mai đi cải tạo

Cái đồng hồ tôi cũng chẳng cần chi

Xin tặng anh, mong nhận lấy đem về

Một chút tình người bà con Nam bộ."

Sau khi đã nhận ra đời sống thật sự của toàn dân miền Nam và sự gian trá, phỉnh gạt

của hồ già và đảng cs, ông Huy cảm thấy hổ thẹn với lương tâm nên đã than khóc:

“Trên đường về, đất trời như sụp đổ

Tôi thấy mình tội lỗi với miền Nam

Tôi thấy mình hổ thẹn với lương tâm

Tôi đã khóc, cho mình và đất nước”

Phan Huy


Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7764

Bài gửiGửi: Wed Aug 03, 2016 11:02 am    Tiêu đề: Nghe Chuyện Hà Nội Xã Hội Chủ Nghĩa



Nghe Chuyện Hà Nội Xã Hội Chủ Nghĩa


      Nguyễn Hữu Thời
      (Phú Lan sưu tầm)

      Lời nguời viết:

      Tôi sinh truởng và lớn lên ở miền Trung, và có vợ nguời miền Bắc (Hà Nội). Nỗi uớc mơ của tôi là có dịp về thăm quê vợ ở Hà nội; nhưng tiếc thay đã 38 năm kết hôn với nàng, tôi vẫn chưa đạt đuợc ý nguyện. Nhân có anh bạn thân mới về thăm Hà Nội trở lại Hoa kỳ. Anh có đến thăm tôi, và kể chuyện về thăm Hà Nội. Tôi náo nức nghe anh kể, và trung thực thuật lại không thêm bớt, để hầu bạn đọc.
      - Anh biết không. Tôi ăn mặc cốt sạch sẽ, thoải mái chứ không phải cho sang trọng, ăn diện bên ngoài khi đi ra phố. Tới Hà nội, tôi về ngụ tại nhà ông anh ruột tôi, chị dâu tôi nguời Hà nội. Anh chị tôi có chương trình cho tôi đi thăm viếng Hà nội ngày hôm sau. Nhưng tôi tranh thủ thời gian, muốn đi loanh quanh gần nhà truớc đã. Tắm rửa thay quần áo xong, tôi muợn chiếc xe đạp của đứa cháu đạp lẫn quẫn quanh khu phố gần nhà cho giãn gân cốt, và quan sát quanh đó xem có gì lạ không.
      Đi mấy quãng đuờng, tôi thấy có cái tiệm ăn bên ngoài để nhiều chậu hoa, cây kiểng trông hấp dẫn quá. Tò mò, tôi cẩn thận khóa xe, và buớc vào tính kiếm cái gì ăn lót dạ. Một cô có lẽ là nhân viên nhà hàng, mặc áo dài xanh có hoa thêu nơi ngực, đứng cạnh một cậu con trai, mặc đồng phục nhà hàng. Cả hai nhìn tôi chăm chú từ đầu đến chân, cô gái buớc lại gần, mặt cứ vênh lên, cất tiếng hỏi: - Bác vào đây tìm ai? - Xin lỗi, chứ đây không phải là nhà hàng ăn sao cô? - Ờ! Nhà hàng ăn đấy, nhưng bác đi lộn chỗ rồi. - Sao lạ vậy? - Chúng tôi nghĩ Bác không đủ "tiêu chuẩn để phục vụ".
      Trong lòng tôi thấy lạ lắm nhưng cung cố hỏi để nghe thử cô bé nói gì nữa. Trong bụng tôi nghĩ, không lẽ ở Việt nam hiện nay còn kỳ thị hơn thời nội chiến Nam Bắc ở Mỹ cách đây hơn 200 năm truớc sao? Tôi nhỏ nhẹ hỏi:
      -Xin cô vui lòng giải thích: Tại sao tôi lại không đủ tiêu chuẩn để phục vụ? Cô nhà hàng chưa kịp trả lời thì bên phải cửa phòng xịch mở, một nguời đàn ông buớc ra, tay cầm xấp giấy, mặc bộ vest đen, áo sơ-mi trắng, cổ thắt nơ, để râu mép, chân mang giày da bóng láng; tiến lại chỗ tôi và hất hàm bảo: - Nhà hàng nầy chỉ bán cho Việt kiều, khách Ngoại, và cán bộ nhà nuớc có đặt bàn truớc. - À! Ra là thế. Không lẽ, tôi nói tôi là Việt kiều đây. Khi không lại xưng danh tánh ra làm gì...
      Nguời Việt trong nuớc hay nguời Việt ở nuớc ngoài cũng là cùng một dân tộc, một màu da, một tiếng nói mà. Sao có sự phân biệt lạ lùng như vậy. Hình như một số nguời ở Hà nội bây giờ họ quan niệm Việt kiều là phải mập mạp, phương phi, trắng trẻo, bụng to, nhiều đô la, ăn mặc sang trọng, tiêu tiền như quăng qua cửa sổ. Họ đâu có biết rằng ở Mỹ dù làm bất cứ một việc gì đi nữa, một giờ đáng một giờ, và phải làm việc hết sức mình mới mong đạt đuợc kết quả. Dù là nguời chủ cũng vất vả không thua gì công nhân. Các nguời trong tiệm nhìn thấy tôi gầy ốm, nuớc da lại đen, những ngón tay sần sùi, thô kệch, lại ăn mặc quá đơn giản, nếu không muốn nói là lôi thôi, áo bỏ ra ngoài, lè phè, chân mang dép Nhật cho mát, họ không muốn tiếp tôi chăng?
      Tôi thấy cũng không thiết ăn uống nữa, nên chào họ rồi lặng lẽ quay lưng ra cửa, tay trái vừa giơ lên vừa kéo cánh cửa để buớc ra đuờng. Tôi loáng thoáng nghe sau lưng tiếng nói trống không; giọng đàn ông còn rất trẻ, có lẽ của cậu đứng gần cô gái lúc nãy: -Nhìn cái "thằng " đó tiền bạc đâu mà đòi vào đây ăn. Ăn rồi nó "lỉnh" ngay đấy. Mình lại phải bận gọi công an. Tụi đó chỉ có ăn khoai thì có! Rõ "phén" cho rồi! Tôi xem như không nghe biết gì, và cứ buớc ra chỗ để chiếc xe đạp lúc nãy mà trong lòng nghĩ ngợi lung lắm.
      Tôi cứ ngỡ là tôi đã đi lạc vào một xứ lạ không phải là quê hương Việt Nam! Tôi là nguời Việt nam mà! Dù tôi ở Mỹ đã gần ba mươi năm rồi, nhung những cử chỉ, những suy nghĩ, những thức ăn uống, những tập tục, tập quán hàng ngày đâu có gì thay đổi mấy trong tôi đâu! Cậu làm việc trong nhà hàng nói câu vừa rồi, gọi tôi bằng "thằng" tuổi tác chắc cũng nhỏ hơn cháu Út nhà tôi (31 tuổi).
      Tôi chán ngán buớc lại chỗ để chiếc xe đạp lúc nãy tính đạp xe về nhà, không đi nữa, nhưng tôi không thấy chiếc xe đạp đâu, nó không có cánh mà đã bay đi rồi! Tôi nghĩ hay là tôi lầm chỗ, chắc hồi nãy mình để chỗ đằng kia. Tôi vội buớc qua chỗ tôi vừa nghĩ thì gặp ngay cô bán gánh trái cây, tuổi chừng 25, 27 đang ngồi trên cái đòn gánh để duới đất, hai chân xoạt ra, chàng hảng, thoải mái, nếu cô ấy mặc váy thì thấy rõ cái quần lót, may mà cô mặc quần dài; đang móc tiền ra lẩm nhẩm đếm. Tôi buớc lại gần, ôn tồn và lễ phép hỏi: - Xin lỗi cô. Hồi nãy truớc khi vào nhà hàng tôi vừa nói, vừa lấy tay chỉ vô nhà hàng, tôi dựng chiếc xe đạp gần đây. Cô có thấy ai tới lấy không nhỉ? Cô ngưng đếm, mặt cuống lên, ngẩng nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên như nhìn nguời từ hành tinh lạ, mắt láy nháy, miệng phát ra câu trả lời nhát gừng, giọng bực tức, đặc sệt, nặng thật khó nghe. - Rõ hỏi vớ vẩn! Ai ăn không ngồi rồi ra đây ngồi gác xe cho bác phỏng! Xéo đi cho khuất mắt bà.
      Tôi ngạc nhiên và nghĩ rằng vì mình thật thà hỏi thẳng, có thể cô ấy hiểu lầm tôi nghi ngờ gì chăng nên cô nổi nóng chóng như vậy. Tôi nói lời xin lỗi và tính quay đi. Cô không đáp lại, và chăm chú tiếp tục đếm bạc, xem như không có tôi còn đứng đấy, mồm nói đay nghiến: "Tiên sư nhà chúng bay! Bà đẻ ra con mà con tính "chum" với bà hả. Tờ nầy hai ngàn mà con cứ cãi với bà là đã trả tờ năm ngàn. Đồ thối. Quỉ có tha thì Ma cũng bắt. Ngày mai sẽ biết tay bà. "
      Tôi quả thật không hiểu cô đang rủa ai, và nói với ai. Tiếng "chum" nghia là gì! Tôi chán chuờng lặng lẽ bỏ đi, chậm rãi thả bộ về nhà. Tôi đi lạc vào khu có nhiều cửa hàng bán đồ kỷ niệm cho khách du lịch, và chú ý đến một cửa hàng bên ngoài trang hoàng rất là kiểu cọ, hấp dẫn. Tôi buớc vào. Cô bán hàng ăn mặc rất thời trang không thua gì các cô bán hàng son phấn trong các cửa tiệm Macy's, Broadways ở Mỹ. Nét mặt thật đẹp giống như nguời mẫu hay tài tử xi-nê, tuổi cỡ muời chín, hai mươi. Thấy tôi, cô vội buớc lại, tươi cuời, vồn vã hỏi, giọng nói nhẹ nhàng, êm ả, ru ngủ, dịu dàng, ngọt ngào như mía đuờng Quảng ngãi.
      Cô ta nhỏ nhẹ, thỏ thẻ: "-Chào anh! Anh cần mua gì để em chọn hộ. " Tôi nghĩ có lẽ mình đa đến tuổi ngễnh ngãng nên nghe lầm chăng hay cô đang hỏi cậu thanh niên nào đang đứng gần đây. Tôi nhìn quanh quất thấy không có ai, biết là cô ta nói với mình nên vờ như không nghe. Tôi cảm thấy vừa ngượng, vừa buồn cuời, tuổi mình chỉ còn hai năm nữa là tới tuổi hưu (65). Sao cô ấy gọi mình bằng anh nhỉ? Bộ mình còn trẻ lắm sao! Tôi đâu có nhuộm tóc, tôi vẫn để đầu tóc hoa râm kia mà. Tôi với lấy cái xấc tay đàn bà mân mê, săm soi, tính mua về làm quà cho bà xã Nghiệp. Cô bán hàng thấy vậy buớc lại gần hơn, mùi son phấn thơm tho dễ chịu: - "Kìa anh! nào để em chọn hộ cho. " Cô lăng xăng giới thiệu cái nầy, món kia và cứ bảo tôi mua đi. Cô tính giá hời cho. Cuối cùng cô chọn cho tôi được một cái xắc tay khá đẹp và dẫn tôi đến quầy trả tiền. Cô thu ngân nơi quầy hàng nở nụ cuời thật tươi, hỏi han, chào đón như người thân từ thuở nào, lâu năm không gặp. Đột nhiên cô hỏi: -Anh trả tiền đô hay tiền nội. Tôi ngỡ ngàng đáp: - Tiền đô! Tôi chưa có thời giờ đổi ra tiền Việt nam.
      - Đuợc! Tốt lắm! Lần sau anh nhớ ghé lại cửa hàng em nhé! Tôi móc ví trả tiền, và lẩm cẩm thầm nghĩ rằng sao hai cô nầy biết mình là Việt kiều nên mới hỏi mình trả tiền đô hay tiền nội, nhưng sao những nguời ở nhà hàng ăn lúc nãy không nhận ra mình là Việt kiều nhỉ? Trả tiền xong, tôi chào hai cô, tay cầm cái xắc tay dợm buóc ra ngòai. Cô bán hàng tiễn tôi và nói cho tôi vừa đủ nghe: - Cạnh đây có chỗ "Tươi Mát", xin mời anh vào thưởng thức. Chủ là bạn em. - Cảm ơn cô. Tôi vừa mới uống nuớc giải khát xong. "
      Tôi tiếp tục buớc ra ngoài đường liền nghe tiếng cười khúc khích lẫn tiếng nói của cô tính tiền: "Cái lão già ấy "Liễn" rồi. Lão ta còn không biết "Tươi Mát" là gì! Mầy tốn công mời mọc cũng vô ích thôi". Tôi thật không hiểu nổi, mới vài phút truớc đây các cô rất thân mật gọi tôi bằng anh làm tôi ngượng quá, và tỏ ra vui vẻ, săn đón, chỉ có mấy phút sau thôi, họ gọi tôi là lão già, và dùng tiếng lóng làm tôi không hiểu gì cả. Tôi lững thững, lếch thếch hỏi đuờng thả bộ về nhà, vừa buớc tới cửa đã thấy anh chị tôi đứng chờ nơi đó trông vẻ nóng ruột lắm. Chị dâu tôi lo lắng: -Tôi biết chú đi lạc rồi. Sao không điện thoại về nhà? Tôi kể lại hết chuyện đi vào nhà hàng, chuyện mất xe đạp, gặp cô bán trái cây, cô bán hàng và cô thu ngân ở tiệm bán đồ kỷ niệm v.. v...
      Cả nhà đều cuời bò lăn ra, và tôi cũng thắc mắc hỏi anh chị tôi những chữ mà tôi vừa mới nghe đuợc như: "Lỉnh, Phén, Chum, Tươi Mát, Liễn v v... Anh tôi giải thích: - Bây giờ dân ở đây họ chế ra nhiều tiếng lóng mới lắm. Chú ở ngọai quốc lâu năm nên không rõ đó thôi.
      - Lỉnh là bỏ đi, lén lút đi, lẩn đi (ý muốn nói là ăn giựt không trả tiền bỏ đi) - Phén là cút đi, đuổi đi,
      - Chum là lừa gạt hay nói dối.
      - Tươi Mát là chơi gái.
      - Còn Liễn là bất lực, là liệt dương. Còn thái độ họ đối với chú thì cũng tùy theo đối tuợng thôi. Chú tiêu xài đô-la cho thật nhiều, diện đồ cho thật kẻng thì truớc mặt họ, chú là Vua đấy. Thôi! Chúng ta vào ăn cơm nói chuyện.
      Trong bữa ăn tôi hỏi anh tôi: - Hồi còn đi học, em đọc trong sách báo thấy nói, và trong thực tế cũng đã gặp, cũng đã quen những nguời Hà nội trước năm 75 ở Sài gòn, và bây giờ ở Mỹ, họ thanh lịch lắm, ăn nói dịu dàng, ngọt ngào, cư xử rất là khả ái, cảm tình. Bạn thân em có vợ nguời Hà nội, chị ấy hiền lành, nhu mì, khuôn phép, nói năng dễ nghe lắm khác hẵn những nguời Hà nội mà em đã gặp hôm nay ở ngoài phố. Anh đang vui vẻ, bỗng nét mặt chùng hẵn xuống, đặt đôi đũa xuống bàn, ngẩng mặt nhìn vào khoảng không, đôi mắt xa xăm, giọng buồn buồn anh trả lời: - Ấy là những người Hà nội truớc năm 1954 đó chú. Sau hiệp định Geneve tháng 7 năm 1954, một số lớn họ đã di cư vào Nam, một số quá vãng hoặc vì sinh kế hay vì lý do gì đó họ đã đi ra khỏi Hà nội từ lâu rồi. Hà nội bây giờ chỉ còn lại một số ít người như xưa thôi. Đa số những người Hà nội giờ đây là từ các tỉnh, các vùng quê về lập nghiệp đó chú ạ. Số còn lại là cán bộ các cấp từ các nơi đổi về.
      Anh tôi không nói gì nữa, đứng dậy nói lời xin lỗi mọi người, là đã dùng bữa xong và buớc vào nhà trong. Anh tôi đi rồi, chị dâu tôi lên tiếng nói: - Biết bao giờ mình có lại đuợc những người Hà nội năm xưa... chú nhỉ!
      Nguyễn Hữu Thời



Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7764

Bài gửiGửi: Thu Oct 13, 2016 5:06 pm    Tiêu đề: Văn hóa đó đây....


Văn hóa đó đây....

Bấm vào để xem hình lớn hơn

Văn hóa đó đây...

(Phú Lan sưu tầm)

Tokyo-Nhật Bản

Tại phi trường Yokota đông nườm nượp, một anh chàng Nhật chẳng may chạm vào làm toạc chiếc váy ngắn của một cô gái Nhật. Anh ta chưa kịp nói lời xin lỗi thì cô gái đã cúi rạp người nhỏ nhẹ nói: "Xin lỗi đã làm phiền anh, chỉ vì chất lượng chiếc váy này tồi quá ''.

New York - Mỹ

Tại trung tâm Times Square, NY tấp nập người đi lại, 1 anh chàng Mỹ vô tình động vào làm rách chiếc váy của một cô gái Mỹ, Anh chàng này chưa kịp mở miệng thanh minh thì cô gái đã rút ngay 1 tấm danh thiếp và nói: "Đây là số phone của luật sư của tôi, ông ta sẽ tìm anh để bàn về việc quấy rối tình dục này, anh cứ chuẩn bị đi, chúng ta sẽ gặp nhau tại toà án...". Nói xong ghi lại số phone của anh chàng kia rồi ngẩng cao đầu bước đi.

Paris - Pháp

Dưới chân tháp Effel nổi tiếng thế giới, một chàng lãng tử Pháp không may làm toạc váy của một cô nàng Pháp. Chàng chưa kịp nói gì thì cô nàng đã cười hic hic, sau đó ghé vào tai chàng trai nói: "Nếu anh không ngại, thì tặng em một bông hồng để xin lỗi đi...". Sau khi mua một bông hồng tặng nàng xong, chàng bèn mời nàng đến 1 khách sạn nhỏ để cùng nghiên cứu vấn đề ẩn sau làn váy ngắn.

London - Anh quốc

Tại Quảng trường Church bên dòng sông Thames êm đềm, một chú Ăng-lê vô tình xé toạc chiếc mini skirt của một cô gái Anh. Anh chàng này chưa kịp thanh minh thanh nga thì cô gái đã vội vàng dùng tờ báo đang cầm che đi chỗ rách, mặt đỏ giừ nói: "Thưa ông, ông có thể đưa tôi về nhà được không? Nhà tôi ở phía trước, gần thôi..." Anh chàng này bèn cởi áo quấn lại cho cô gái rồi vẫy 1 xe taxi, đưa cô gái về nhà an toàn để thay một chiếc váy mới.

Trùng Khánh - Trung cộng

Trước Tượng đài Giải phóng quân tại Trùng Khánh, một anh Tầu chẳng may làm rách toạc chiếc váy ngắn của một cô gái Trùng Khánh. Anh này chưa kịp mở miệng xin lỗi thì đã nghe tát bốp một cái bên tai. Cô gái tay thì túm chặt lấy cổ anh chàng, mồm thì rít lên: "Mày to gan nhỉ, dám chọc tới bà mày à? Đi gặp 110 (công an) cùng tao ngay..."

Phù Kết, Thái Lan

Trên bãi biển Phù Kết, Thái Lan, 1 anh chàng Thái vô tình cào rách chiếc váy ngắn của một cô gái. Chàng trai chưa kịp nói gì thì cô gái đã vén môi lên cười tồ tồ và nói: "Chưa kịp ngã giá mà đã đòi xem hàng rồi hả anh giai?"

Hà Lội - Việt Nam

Tại Chợ Đồng Xuân Việt Nam (Thời XHCN không phải Hà Nội xưa)

Một chàng thư sinh Nam kỳ chẳng may động vào làm toạc chiếc váy ngắn của một em gái bắc kỳ nho nhỏ. Chàng này chưa kịp đưa tay xin lỗi thì nàng đã hét ầm ĩ lên:

"Éo Mẹ Tiên Sư Bố cả lò nhà mày, mắt mũi mày để đâu hả thắng nỡm kia? Bà sẽ tát cho mày một cái, mặt mày lật ra sau lưng, đít gập vào cổ, mặt bổ làm đôi, răng môi mày lẫn lộn đấy nhé! " Và sau đó chàng đã thấy áo quần của mình bị rách tơi tả rồi cái lỗ mũi ăn trầu cái đầu ăn lục tào xá.

NguyenNguyen


Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7764

Bài gửiGửi: Fri Dec 23, 2016 7:45 pm    Tiêu đề: Đêm Thánh Vô Cùng (Phần 1)


Đêm Thánh Vô Cùng


Đêm Thánh Vô Cùng

(Phú Lan sưu tầm)

12 giờ trưa, "Cọp đen" Nguyễn văn Trọng, trung úy đại đội trưởng đại đội 45 trinh sát đứng trên ngọn đồi 1034, đảo cặp mắt "diều hâu" nhìn một vòng chung quanh đồi rồi nói với người đại đội phó:

- Mình đặt bộ chỉ huy đại đội trên ngọn đồi này. Ông cho chúng nó đào hầm hố bố trí chung quanh đồi...

Thiếu úy Hoàng gật đầu, sửa lại sợi dây ba chạc, xoay người vừa rảo bước đi thì Trọng gọi hắn lại, chỉ vào một ngọn đồi đối diện, thấp hơn một chút xíu:

- Khoan, hay là thế này. Ông để thằng 1 và thằng 2 (trung đội 1 và 2) nằm ở lưng chừng đồi bên này với tôi, ông dắt thằng 3 và 4 qua ngọn đồi bên kia mà bố trí...

Đưa tay chỉ vào con đường đất nhỏ xa xa phía dưới, Trọng tiếp:

- Cho chúng nó đặt cây M-60 vào ngày cái chỗ trống trãi gần con đường mòn này cho tôi. Rải thêm chốt hình chữ "V" từ hai trên đồi xuống tới đó. Tôi thấy đó là chỗ duy nhất mà chúng nó có thể mò ra được.

Thấy người đại đội phó hoang mang, Trọng tiếp tục:

- Nếu có chuyện gì cũng đỡ, mình cẩn thận vẫn hơn...

"Cẩn thận vẫn hơn...", ông như thế là quá cẩn thận rồi chứ còn gì nữa mà vẫn hơn, Hoàng nghĩ thầm trong bụng nhưng không dám càu nhàu. Chỗ ngày là vòng đai thành phố Kon Tum, Việt Cộng nào mò đến đây được mà phải cẩn thận đến như vậy?

Nhìn khuôn mặt của đại đội phó, Trọng biết hắn nghĩ gì trong đầu. Thật ra, những gì Hoàng nghĩ có lẽ đúng nhưng với cương vị của một cấp chỉ huy nắm sinh mạng của hơn trăm người trong tay, Trọng không thể nào làm khác hơn được. Đánh nhau trên chiến trường, chỉ một tiếng bùm là xong hết. Người chết không biết chuyện gì đã xảy ra cho mình. Nhưng về hậu cứ sau những trận đánh ác liệt những người chỉ huy như Trọng phải trực diện với một thực tế thương tâm kinh khủng. Vợ lính con lính kéo về chật cả sân đại đội. Đuổi đi không nở, năn nỉ không được. "Chồng tôi đâu rồi, ông giết chồng tôi chớ đâu phải giặc nào giết..." Hay là: "Bố cháu đâu chú, chú trả lại bố cháu cho cháu..."

Trọng đã trải qua những cảnh thương tâm như thế này. Nhiều khi, Trọng nghĩ, cái đám vợ con lính mới là những người đáng thương nhất, tội nghiệp nhất. Lính, dù sao, như chàng nghĩ, chỉ một tiếng bùm là xong hết mọi chuyện...

Vì thế, ở chiến trường, dù đánh giặc tới đến độ vang danh là Cọp Đen, là đại đội trưởng đại đội trinh sát tinh nhuệ nhất của sư đoàn với những chiến công táo bạo lừng lẫy tưởng chỉ có thể có trong phim xi nê, ít người biết Trọng coi trọng mạng sống của lính tráng hơn cả của chính mình. Điều này, chỉ có cấp chỉ huy của Trọng biết và lính của Trọng biết. Vậy là đủ rồi...

Thật ra, đối với Trọng, muốn trở nên một người chỉ huy giỏi không khó lắm. Điều thứ nhất, Trọng hiểu biết quy luật bất di bất dịch ngàn đời của tạo hóa: Hễ mình thương lính thì lính thương mình. Thương đúng nghĩa của chữ thương: Sống chết với lính mình. Đi nhảy toán, thường thường, Trọng là một trong những người dẫn đầu đại đội, đặt chân xuống đất đầu tiên. Lúc trực thăng đến bốc, Trọng là một trong những người cuối cùng leo lên tàu bay... Trọng còn nhớ như ngày hôm qua trận Tân Cảnh. Hồi đó, trung đoàn còn do một ông đại tá già vốn xuất thân từ dân lính khố xanh khố đỏ chỉ huy. Hốt hoảng vì bị cấp trên xỉ vả sau khi một tiểu đoàn của ta bị 2 trung đoàn địch vây hãm trong nhiều ngày, ông ta quyết định cho thằng 45 trinh sát của Trọng nhảy vào giữa khu tập trung quân của địch để... gây tiếng vang.

"Đánh giặc ngu như c... mà cũng mang lon đại tá." Trọng lẩm bẩm chửi thề trong bụng. Tuy chưa bao giờ chỉ huy đến cấp tiểu đoàn nhưng Trọng biết tiểu đoàn này tuy bị vây hãm nhưng vẫn có thể cầm cự được lâu ngày nhờ hầm hố kiên cố và tiếp liệu đầy đủ. Trọng biết chắc một điều là nếu đại đội nhảy vào đó thì sẽ bị tiêu diệt trong vòng 15 phút đầu tiên sau khi trực thăng hạ càng xuống. Trọng không lạ gì cái màn này. Trong những trường hợp tuyệt vọng, Trọng sẵn sàng chấp nhận cùng lính nhảy vào chỗ chết để tìm cái sống nhưng trong tình hình không có gì bi đát, không thể thí quân một cách ngu dốt chỉ vì bị một vài tiếng xài xể của cấp trên như vậy được.

Trọng nghiêm nghị hỏi vị chỉ huy:

- Thưa Đại Tá, xin đại tá lập lại nhiệm vụ đại đội tôi nhảy vào đó để làm gì?

Phòng họp hôm đó còn nhiều sĩ quan cấp tá khác nữa, ai nghe cũng muốn nhảy dựng ngừơi lên vì câu hỏi xấc láo của người trung úy trẻ. Trong quân đội, nhất là một đơn vị bộ binh, chưa bao giờ có một đại đội trưởng lại chất vấn trung đoàn trưởng như thế này.

Ông đại tá già khựng người một lát như không ngờ được câu hỏi bất ngờ. Bình thường thì ông ta đã có thể nổi máu du côn lên dùng gậy đập túi bụi vào người sĩ quan trẻ vô lễ này rồi nhưng nhìn thấy ánh mắt toé lửa của Trọng, ông ta không dám. Nó đã dám hỏi như vậy thì nó đâu có sợ mình. Rồi ông trả lời yếu ớt:

- Thì tôi đã nói, để... gây một tiếng vang, cho báo chí biết là chúng ta không có thua.

- Thưa đại tá, là lính, chết chúng tôi không sợ nhưng đại tá nghĩ coi tôi và hơn một trăm người nữa trong đại đội tôi có đáng chết vì một "tiếng vang" vớ vẫn như vậy của báo chí không?

Mọi người trong phòng nghe tới đâu là thấy rúng động tới đó. Cọp mở miệng có khác.

Ông đại tá chưa kịp trả lời thì Trọng ôn tồn đem lời lẻ phải trái ra trình bày cho ông ta nghe. Đây là cố gắng cuối cùng của Trọng, người chỉ huy biết thương yêu lính. Trọng không hiểu mình sẽ phản ứng như thế nào nếu ông già này cứ một hai bắt Trọng nhảy xuống đó. Ý nghĩ kinh hoàng quá đến độ chàng không dám nghĩ đến. Nhưng, tất cả mọi hình phạt từ việc ra tòa án quân sự, nằm quân lao v.v... đều không bằng cái sinh mạng của mấy trăm chiến sĩ can trường. Người ta đi lính để chết cho tổ quốc chứ không để chết cho một thằng ngu nào hết...

Cuối cùng, tạ ơn trời đất, ông ta nghe lới Trọng, hủy bỏ quyết định điên rồ ấy đi.

Chuyện này đồn ra khắp nơi, tiếng tăm của Cọp Đen Nguyễn văn Trọng từ đó vang lừng. Vang lừng nhưng ai cũng hiểu vì sao Cọp Đen không bao giờ móc được cặp lon đại úy trên cổ áo...

Điều thứ hai, muốn chỉ huy có hiệu quả, người chỉ huy phải áp dụng một kỷ luật thật khắc khe nhưng nghiêm minh và công bằng. Dân trinh sát đa số là dân trời đánh không chết, tình nguyện về cũng có mà trị không được bị đẩy về từ các đơn vị khác cũng có. Nhiều thằng lính của Trọng đã từng ở tù quân lao, từng giết người chỉ vì một chai bia. Duy trì kỷ luật với một thành phần hổn tạp như vậy không phải là chuyện dễ. Nhiều khi, rất là nguy hiểm. Trọng học được một điều rất quan trọng của đời binh nghiệp là muốn cho lính nghe lời mình, trước hết nó phải phục mình đã. Nếu lính đã phục mình rồi thì không có chuyện gì mình bảo mà chúng nó từ chối. Điểm then chốt là phải làm sao cho chúng nó phục. Quân đội có thể ban chức tước cùng lon lá cho anh nhưng không thể ban sự kính phục của thuộc cấp cho anh. Đây là tài năng riêng của mỗi người.

Riêng với Cọp Đen Nguyễn Văn Trọng, lính chưa về đại đội đã nghe tiếng chàng rồi. Về dưới quyền chỉ huy của Trọng, chúng nó càng phục thêm.

Trọng hiểu lính và lính hiểu Trọng...

Khi Trung Tá Sang, một sĩ quan trẻ tốt nghiệp trường Võ Bị về nắm trung đoàn thì Cọp Đen Nguyễn Văn Trọng như hổ được trở về rừng. Ngày nhậm chức đơn vị trưởng, ông ta gọi Trọng lên hỏi han tình hình rồi kết luận:

- Anh muốn xin gì tôi không?

Trọng trả lời thẳng thắn:

- Thưa có hai chuyện!

- Chuyện thứ nhất?

- Xin trung tá cho vài xe tôn và ván để tôi tu bổ khu gia binh của gia đình binh sĩ lại. Thấy vợ con họ và họ lui cui trong mấy cái ổ chuột sau những ngày hành quân tôi không nở...

Trung Tá Sang mau mắn gật đầu, quay sang dặn dò người sĩ quan phòng tư rồi hỏi tiếp:

- Chuyện thứ hai?

- Xin trung tá cho bổ sung quân số của đại đội tôi được đầy đủ, cho tôi có nhiều thì giờ một chút để huấn luyện lính tráng cho thuần. Chúng nó thuần rồi thì nếu trung tá có thả tôi ra... Hà Nội, tôi cũng bắt sống được thằng Võ nguyên Giáp đem về đây trình diện Trung tá...

Trung Tá Sang cười hề hề:

- Chẳng hổ danh Cọp Đen. Khẩu khí dân Trinh Sát có khác.

Khi chia tay, ông vỗ vai Trọng cười:

- Tôi rất ngạc nhiên và chịu hai lời yêu cầu của anh, tôi sẽ cố gắng.

Rồi ông bắt tay Trọng, cười cười hỏi:

- Tại sao người ta gọi anh là Cọp Đen?

- Thưa, nước da tôi hơi đen nên chọn danh hiệu truyền tin là Cọp Đen cho nó ngầu. Chẳng ngờ anh em gọi mãi rồi tôi thành Cọp luôn...

Trung Tá Sang giữ đúng lời hứa với Trọng. Mọi chuyện Trọng xin đều được thỏa mãn. Nhờ đó, đại đội 45 trinh sát trở nên một đơn vị thiện chiến nhất của sư đoàn. Nhờ ông trung đoàn trưởng biết xử dụng đúng khả năng bất ngờ và cơ động hầu như chỉ bị giới hạn bởi tầm bay trực thăng nên Trinh Sát của Cọp nhảy xuống đâu là giặc tan ra tới đó. Đã có lần, một trung đoàn xe tăng của địch vừa tới vùng Tam Biên, không kịp để chúng nó có thì giờ co cụm, Trung Tá Sang cho Trọng nhảy ngay vào giữa bộ chỉ huy. Chỉ trong vài tiếng đồng hồ, lính của Trọng bắt sống được 3 chiếc xe tăng của địch ở Võ Định. Trung Tá Sang hớn hở vô cùng, tính gởi một chiếc về Sài Gòn tặng tổng thống Thiệu nhưng cuối cùng đành phải đốt bỏ vì không có phương tiên chuyên chở kịp thời...

Hôm nay, đại đội chàng được điều động về đây sau gần một năm trời hành quân khắp các nơi của vùng II chiến thuật vì một lý do đặc biệt. Đặc biệt đến nổi Trung Tá Sang cho trực thăng ra đại đội bốc chàng về để gặp ông.

Trọng nhớ mãi lời nói thống thiết của ông trung đoàn trưởng bộ binh chiều hôm qua ở bộ chỉ huy trung đoàn. Làm việc với nhau hơn một năm, ông rất quí mến Trọng, coi như em. Trung tá Sang đã cầm hai vai Trọng, giọng rất thành thật: "Tôi biết là tôi đã hứa với anh một tuần lễ "ăn chơi chết bỏ" ở hậu phương. Anh xứng đáng, lính của anh xứng đáng nhận được phần thưởng đó sau một năm trời hành quân cực khổ, nhưng anh biết, chiến trường ở nước ta bây giờ, người ta không còn phần thưởng hay ân huệ để ban tặng cho nhau nữa. Nếu anh biết được những gì tôi biết, anh sẽ thông cảm tôi nhiều hơn. Áp lực của giặc cộng đầy dẫy khắp nơi, trong khi mình hết lính rồi. Anh cố gắng đi. Tôi đã khéo xoay sở lắm mới bốc được anh về nằm làm an ninh vòng đai cho tiểu khu Kon Tum. Khu vực này trước kia do một tiểu đoàn địa phương quân chịu trách nhiệm nhưng tôi đã đề nghị với tiểu khu trưởng Kon Tum rút họ đi chỗ khác vì thấy họ làm việc không có kết quả. Anh dẫn đại đội về nằm đây... chám trổ cho tụi nó, vừa nằm dưỡng quân vừa giữ an ninh và vừa canh giùm mấy cái họng pháo của chúng nó luôn..."

Sao mà lắm "vừa" thế này, Trọng thầm nghĩ. Phép đã không được đi bây giờ còn phải dẫn lính vào rừng nằm vừa làm an ninh, vừa canh pháo vừa trám chỗ v.v... Mẹ kiếp cái cuộc đời của thằng lính bộ binh, thật đen hơn cả mỏm chó. Nhưng câu nói thống thiết "Chiến trường ở nước ta bây giờ, người ta không còn phần thưởng hay ân huệ để ban tặng cho nhau nữa..." của vị chỉ huy trưởng trung đoàn làm Trọng không dám từ chối. Trọng biết trung tá Sang nói thật.

Ông bảo sĩ quan phòng 2 đưa cho Trọng coi một tập hồ sơ về lai lịch của cái làng Thượng. Đọc hết bản tóm tắt, Trọng được biết cái làng Thượng này vốn được một ông linh mục người Pháp già rất khó tánh coi sóc. Theo tin tức tình báo, ông cha Tây này không ưa người quốc gia, thiên cộng nặng. Dĩ nhiên, sống ở một nơi hẻo lánh mà dám thiên cộng và không ai dám làm gì thì phải có vũ khí bí mật. Cái vũ khí đó của ông là sự liên lạc chặt chẻ với các nhóm chính trị thiên tả ngoại quốc và báo chí khắp nơi trên thế giới.

Pháo binh chỉ rớt nổ gần làng một chút là vài ngày sau tòa thánh La Mã, Dinh Độc Lập, toà Đại Sứ Mỹ đều nhận được kháng thơ của ông. Báo chí thế giới, vốn từ lâu đã chẳng ưa gì mình, liền hùa theo làm rầm rộ, tuyên án chính phủ gắt gao...

Dĩ nhiên, bị áp lực nặng nề như vậy, lệnh từ bộ tổng tham mưu ban xuống: "Từ này về sau, đừng động đến chúng nó nữa."

Việt Cộng biết rõ chuyện này hơn ai hết cho nên chúng cứ kéo pháo về gần làng bắn vào thành phố rồi bỏ chạy. Phi pháo ta đành chịu. Để tạm thời giải quyết vấn đề, tiểu khu cho một tiểu đoàn địa phương quân đến đóng ở gần đó để canh chừng. Nhưng quân số càng ngày càng thiếu hụt, tiểu đoàn này đã được rút đi để trám cho những chỗ khác quan trọng hơn. Khu vực trách nhiệm được giao cho trung đoàn 45 bộ binh. Trong lúc hết quân, chẳng biết lấy quân ở đâu để trám vào chỗ này, Trung Tá Sang nghĩ đến Cọp Đen Nguyễn Văn Trọng.

Đây là một vấn đề rất tế nhị, cần một người vừa có khả năng quân sự vừa ngoại giao, vừa chính trị để giải quyết vấn đề. Trong các thuộc cấp của ông, Trọng là người được ông đánh giá cao nhất. Trọng không phải là một "simple" đại đội trưởng. Trong đơn vị, Trọng gây được sự tin tưởng tuyệt đối của thuộc cấp. Nơi chiến trường, địch quân nghe đến tên Cọp Đen là tán đởm kinh hồn. Trong những lần đóng quân gần thôn xóm làng mạc, Trọng lấy được tình thương của dân chúng.

Trọng gấp tập hồ sơ hỏi trung tá Sang:

- Việc tréo cẳng ngỗng như vậy, Trung tá muốn tôi đem lính tới đó làm gì?

- Đọc hồ sơ chắc anh biết rồi. Tôi muốn anh đem lính tới đó đóng quân xa xa, cách làng chừng vài cây số để chúng nó sợ thôi. Coi như đi nghĩ mát vậy mà.

"Coi như đi nghĩ mát vậy mà", Trọng nghĩ đến lời pha trò vô duyên của cấp chỉ huy mình. Nụ cười của Trọng méo mó:

- Nếu tôi phát hiện được súng của chúng nó đặt ở trong đó, tôi kêu pháo binh tới dập được không?

Trung tá Sang dẫy nẩy như người dẫm phải lửa:

- Không, không, dập con khỉ. Anh đọc hồ sơ rồi chắc biết. Cái lệnh này đến từ bộ tổng tham mưu, đừng có cương bậy bạ mà đi tù hết cả lũ.

- Vậy tôi phải làm gì?

- Ngay cả tôi cũng không có quyền quyết định. Anh cứ án binh bất động, nếu phát hiện pháo, anh gọi về cho tôi, tôi sẽ xin chỉ thị sư đoàn. Sư đoàn sẽ xin chỉ thị Quân Đoàn rồi cho anh biết quyết định.

Trọng ngán ngẩm lắc đầu. Chờ lấy được cái quyết định của quân đoàn thì chúng nó đã thu dọn hết súng ống về nhà tắm rửa ăn cơm và nhảy được vài bản "Sol Đố Mì" rồi...

- Tóm tắt, nhiệm vụ của anh là dẫn lính tới đó... cắm trại và nghĩ ngơi. Đừng có lạng quạng mà thân bại danh liệt. Anh ráng nhớ cho kỹ!

Trước khi từ giã để chàng leo lên trực thăng về đơn vị, ông nói lời cuối:

- Anh ráng nghĩ ngơi nhiều chừng nào tốt chừng đó. Không biết tôi sẽ cần đến "thằng trinh sát" của anh lúc nào. Thôi nhé, ráng nghĩ ngơi...


Thế là sau gần một năm trời sống mái với giặc trong khắp "hang cùng ngõ hẻm" của rừng cao nguyên, đại đội trinh sát lừng danh của Trọng lại lóc cóc leo lên xe GMC để được chở tới một điểm hẹn nằm trên quốc lộ 14. Từ đây, người Thường Sơn Triệu Tử Long tân thời của sư đoàn 23 bộ binh lầm lũi dẫn quân mình vào gần buôn Thra, đóng trên một ngọn đồi để "trấn nhậm" khu vực trách nhiệm...

Chân bước đều nhưng đầu óc quyền biến của con cọp chuyển động rất nhanh. Ngoài chuyện phải đi trấn nhậm một vùng đất mà mình không được làm gì cả, chàng còn phải lo tới một vấn đề khác là tinh thần của lính đang xuống rất thấp. Mà thấp là phải. Đánh nhau cả năm trời để rồi cuối cùng được "ăn Noel" bằng cách khăn gói quả mướp vô làm an ninh và canh pháo vớ vẫn nơi một cái buôn Thượng ở chốn rừng sâu núi thẳm như thế này thì ai mà ăn cho nổi. Dù quyết định không phải ở nơi chàng, nhưng Trọng thấy phần nào mình cũng có trách nhiệm. Chính mình hứa với chúng nó là Noel này sẽ về hậu phương "ăn chơi chết bỏ" chứ đâu phải Trung tá Sang.

Bây giờ, nhìn thấy khuôn mặt không được vui tươi cho lắm của đại đội phó, Trọng thông cảm liền. Người mà, ai chả vậy.

Đang còn phân vân thì Hoàng hỏi:

- Còn gì không Trung úy?

Trọng sực nhớ ra một chuyện, bèn nói:

- Bố trí xong, ông kiếm cho tôi một tiểu đội trang bị súng nhẹ để đi theo tôi. Tôi muốn xuống dưới làng Thượng "thăm dân tình" một chút.

Tuy chỉ thị của Trung Đoàn Trưởng rõ ràng như vậy nhưng Cọp Đen Nguyễn Văn Trọng là một cấp chỉ huy quyền biến và táo bạo, đã tìm ra cho mình một quyết định riêng. Cọp đen này chẳng chơi gác ai cả nhưng ai chơi gác Cọp Đen thì không được. Người ta cấm lính không được vào làng nhưng chẳng ai có thể cấm một con chiên bước vào nhà thờ. Nhà Chúa luôn luôn mở rộng cho tất cả mọi người dù người đó là người Tây, người Thượng hay là người Việt Nam. Là người công giáo, chàng quyết định đi thăm ông cha Tây một lần cho biết mặt một người đã từng làm rúng động "cơ quan" quyền lực cao nhất của miền Nam Việt Nam là Dinh Độc Lập.

Hoàng lại xoay người bỏ đi. Trọng nhìn theo cho đến khi bóng Hoàng chìm xuống dưới đồi, suy nghĩ vu vơ...

Trời hôm nay đẹp quá, chỉ lác đác vào cụm mây mỏng trên cao, khí trời lành lạnh của tháng 12 và ánh nắng vàng yếu ớt của vùng trời cao nguyên làm tâm hồn người lính trẻ xa nhà cảm thấy ngất ngây. Đời đẹp như thế này, giang sơn cẩm tú như thế này mà sao nước mình cứ mãi điêu linh nhỉ? Trọng bất giác chợt nhớ đến thân phận mình, thân phận của những người chiến binh như chàng...

Đi một vòng kiểm soát hầm hố của lính tráng và lấy mấy điểm "hoả tập tiên liệu" để báo về trung đoàn xong, Trọng trở về lều chỉ huy ngồi xuống trên một khúc cây, đốt điếu thuốc, nhìn xuống khu thung lũng trước mặt. Xa xa dưới chân chàng là hình ảnh mờ mờ của mấy chục cái chòi thượng từ lâu vang danh là "bất khả xâm phạm". Vài cụm khói nhẹ nhàng vươn lên, hiền hoà, bình lặng. Khung cảnh đẹp và trầm hùng như một bức tranh.

Trọng ngồi im, say sưa nhìn ngắm cái làng với nhiều chuyện bí mật như một con cọp ngồi nhìn một đối thủ để tìm thế tấn công...

Người hạ sĩ mang máy truyền tin của Trọng cũng ngồi xuống bên cạnh ông thầy, cũng mồi một điếu thuốc, cũng nhìn về cùng một hướng với Trọng. Rồi tự nhiên, hắn thở dài:

- Hôm nay là sắp tới "Nô Ên" rồi đó trung úy.

Dù trong thâm tâm đã biết là sắp đến Noel, Trọng cũng thấy nhói trong tim khi nghe người lính nói vậy. Bố khỉ, vậy là thêm một cái Noel nữa trong rừng thẳm. Trọng không còn nhớ đây là cái Noel thứ mấy mình không được đi lễ nửa đêm, không được diện đồ đẹp để đi chơi với đào, không được ăn Réveillon, không được đủ thứ...

Trọng chợt nhớ đến mùa Noel năm xưa, lúc chàng từ giã phố phường, Phượng và tuổi học trò yêu dấu để lên đường đi lính.

Nghĩ đến Phượng, chàng nhăn mặt lại như vừa bị ai đấm vào bụng một quả thôi sơn. Trọng thò tay vào túi áo, tìm gói thuốc...

Bàn tay thọc sâu trong túi áo jacket để tìm cái hộp quẹt, Trọng chợt rờ thấy cái nanh heo rừng của Phượng tặng ngày nào...

Hai người quen nhau lúc còn đi học. Tuy chưa bao giờ giờ cầm tay nhau để thổ lộ tâm tình nhưng cả hai đều biết trời sinh hai đứa để... cho nhau. Đã có một thời Trọng ngây ngô nghĩ rằng mình sẽ... chết nếu thiếu Phượng. Ngược lại, Phượng cũng đã nhiều lần nói với Trọng như vậy. Dĩ nhiên, hồi đó hai người còn trẻ...

Rồi Trọng thi rớt tú tài II. Phượng khóc đến sưng mắt. Trọng miệt mài mấy tháng học lại bài để thi lần hai nhưng vẫn rớt như thường. Phượng linh cảm được chuyện gì không hay, ốm nặng.

Trọng bắt đầu biết uống rượu vào buổi tối hôm đi coi bảng. Chàng lờ mờ nghĩ ra rằng cuộc đời mình kể từ hôm nay sắp bước vào một khúc rẻ quan trọng. Như nhiều người... bình thường khác, chẳng ai muốn bỏ cảnh hậu phương ấm êm để lăn mình vào lửa đạn và sương gió làm gì. Nhưng Trọng nghĩ, nếu mình không được hoãn dịch thì đã làm trai sinh nhằm thời loạn, cũng nên mặc áo nhà binh một lần để làm tròn bổn phận. Chưa chắc đi lính đã là đường cùng...

Vì vậy, sau một tuần lễ nằm dài ở nhà dấu kín cái bản mặt "thi rớt" cho thiên hạ khỏi thấy, Trọng đã làm quen được và chấp nhận số phận của mình. Xuất hiện trở lại, chàng đến nhà thăm Phượng trước tiên.

Người làm Trọng ngạc nhiên đầu tiên là bố Phượng. Ông nhìn Trọng bằng một cặp mắt khác xa lúc Trọng chưa thi rớt. Không thể đoán được nhưng Trọng lờ mờ linh cảm rằng ông ta đã đặt rất nhiều hy vọng nơi Trọng ở trường học. Ông ta mơ tưởng gì nơi mình Trọng không biết nhưng chắc chắn hình ảnh đó phải lớn hơn hình ảnh một thằng lính bộ binh nghèo đói, sống nay chết mai.

Cái giá của sự thi rớt quả thật là kinh khủng...

Phượng khuyên Trọng nên chạy giấy tờ giả để học thêm. Trọng lắc đầu vì chàng biết có muốn chạy cũng chẳng có tiền. Phượng lại đề nghị Trọng đi lính nghĩa quân hay lính... cảnh sát. Trọng chỉ lắc đầu cười cười. Phượng lại khóc đến sưng cả mắt...

Ngày chia tay, Phượng bố trí để gặp Trọng một mình nơi nhà con nhỏ bạn. Nàng muốn tặng Trọng cái quý nhất của đời nàng là thân xác nàng nhưng không hiểu vì sao Trọng đã từ chối món quà vô giá đó.

Trọng nhất định không phải là thánh nhưng từ thuở nhỏ, bản tính của chàng luôn luôn như vậy. Quan niệm sống của chàng là sống trọn vẹn, vui trọn vẹn. Sung sướng gì khi được vui vầy một cách... chụp giựt trong chốc lát để rồi có thể ngày mai có thể sẽ hối hận...

Hai người nằm im bên nhau, Phượng cứ lập lại câu nói: "Ngày mai anh đi rồi, đi thật rồi..." Mắt nàng lúc nào cũng rướm lệ...

Trọng để một tay cho Phượng dùng làm gối, tay kia đốt hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác. Mắt chàng ngây dại nhìn lên khoảng trống trên trần nhà.

"Ngày mai anh đi rồi, đi thật rồi! " Sao tiếng Việt lại có những câu đơn giản và buồn đến nát người như thế nhỉ, Trọng suy nghĩ...

Rồi Phượng hỏi:

- Sao anh không muốn... Phượng? Phượng dâng hiến cho anh mà!

Trọng xoay người, nhìn thẳng vào mắt Phượng, lời nói như muốn tắt nghẹn:

- Anh cám ơn Phượng nhưng anh không muốn lợi dụng Phượng!

- Nhưng Phượng yêu anh, Phượng muốn cho anh! Mai anh đi rồi.

Trọng lắc đầu, khép đôi mắt lại, lòng chùng hẳn xuống làm như sắp khóc:

- Ừ mai anh đi, nhưng làm vậy có ích gì đâu Phượng? Lỡ có chuyện gì cả ba đứa mình đều khổ.

Nghe Trọng dùng chữ "Ba đứa mình", Phượng không hiểu được nhân vật thứ ba là ai. Nhân vật ấy chưa hề có, chưa bao giờ xuất hiện hay là ai Phượng không biết nhưng cũng chẳng thèm hỏi.

Trọng dụi điếu thuốc, kéo Phượng sát vào người mình. Chàng vừa vuốt tóc Phượng vừa nói nhỏ:

- Đừng nói chuyện "đi" nữa Phượng, chuyện "đi" nghe buồn quá. Mình nói chuyện "về" đi.

- Ừ! Vậy chừng nào anh về?

Trọng nghẹn họng. Khoá sĩ quan Thủ Đức cộng thêm khoảng thời gian ở Quang Trung và các trung tâm chờ đợi sớm gì cũng mất hết một năm. Một năm tức 12 tháng tức 365 ngày vắng bóng Phượng, chỉ nghĩ đến đó thôi Trọng đã thấy tái tê người. Mình mà còn thấy tái tê thì Phượng chịu gì nổi? Trọng đành phịa:

- Vài tháng.

- Vài tháng là mấy tháng hở Trọng?

- Nhiều nhất là 6 tháng.

Phượng ụp mặt vào ngực Trọng, giọng nàng lạc đi:

- Trời hỡi trời, tôi làm gì cho hết sáu tháng trời không có Trọng đây hở trời?

Trọng mím chặt môi. Một cảm giác vừa sung sướng vừa buồn phiền dâng lên trong lòng chàng. Sung sướng vì câu nói ấy chứng tỏ nàng yêu mình hơn chàng nghĩ. Buồn phiền bởi Trọng biết 6 tháng sau chàng cũng chưa thể trở về được.

Rồi Trọng nghe được được tiếng khóc nho nhỏ của nàng...

Không có can đảm nằm nghe Phượng khóc, Trọng vỗ vào vai Phượng mấy cái rồi rút tay ra...

Như một cái máy biết cử động, chàng từ từ đứng dậy mở cửa sổ nhìn ra ngoài. Thành phố Nha Trang vừa lên đèn. Tiếng xe cộ ồn ào ngoài đường vọng vào phủ kín tâm hồn Trọng. Nghĩ ra một điều gì, chàng nhăn mặt lại. Lạ thật, bao nhiêu năm qua sinh ra và lớn lên ở thành phố này, Trọng có bao giờ thèm để ý đến những thứ tiếng động ồn ào này. Chiều hôm nay, tiếng động vô tri mà sao nghe thấy nó dễ thương chi lạ. Dễ thương và đầm ấm lạ lùng.

Trọng suy nghĩ rồi bỗng gật gù cái đầu. Thì ra là hễ cái gì mình sắp mất cũng đều trở nên quý giá cả. Từ cảnh vật cho đến con người...

Trọng bắt chiếc ghế kê gần cửa rồi ngồi im nhìn ra ngoài đốt thuốc lá. Suốt từ sáng đến giờ chàng đã đốt hết năm gói rồi mà sao vẫn hút được mới là kỳ.

Phượng cũng đã thôi khóc, đứng im sau lưng Trọng không biết từ lúc nào. Nàng nắm chặt lấy tay Trọng như cố truyền vào đó tất cả những nhớ thương của mình trước giây phút chia tay. Trọng quay lại, cố điểm một nụ cười, nhìn thật gần vào đôi mắt long lanh của Phượng:

- Đừng buồn quá Phượng, em phải nhìn vấn đề một cách lạc quan. Biết đâu chừng trong lúc khám sức khoẻ, người ta sẽ tìm thấy một cái bệnh gì đó trong người anh rồi đuổi cổ anh về, không cho đi lính nữa.

Phượng hớn hở:

- Anh mà bệnh gì? Nghĩ ra một chuyện, Trọng bật cười lên:

- Anh nghĩ chắc anh bị bệnh... bất lực.

Phượng có cảm giác là Trọng chỉ đùa với mình, nhưng vẫn nuôi một hy vọng nhỏ trong lòng, hỏi dồn dập:

- Anh bị bất lực thật không, hay anh chỉ đùa?

- Thì em nghĩ xem, nằm gần bên em hấp dẫn và ngon lành như thế kia suốt cả một buổi chiều mà anh không thèm sơ múi gì hết, cái này không gọi là bất lực thì gọi là gì, hì... hì...

Đang buồn nẫu người mà Phượng cũng phải phì cười, đưa tay đấm vào vai Trọng:

- Gọi là... ngu. Anh này hay thật, chết đến nơi mà vẫn còn đùa được...

Có lẽ Phượng yêu Trọng cũng ở cái tính lạc quan yêu đời và hay tếu này.

Trọng tiếp:

- Đùa thôi! Nhưng biết đâu chừng, ra trường rồi anh sẽ được đổi về lại Nha Trang. Hai đứa mình lại xum họp mấy hồi...

Phượng lại cười. Cái nhìn lạc quan thứ hai này coi có thể dễ chấp nhận hơn cái bệnh bất lực vớ vẫn. Ừ, Phượng nghĩ, tại sao mình không nhìn vấn đề một cách lạc hơn nhỉ? Nước mình bây giờ mỗi ngày có hàng trăm ngàn người ra đi, đâu phải ai cũng chết hết.

- Từ lúc nhỏ, anh học được một cách sống rất hay. Đó là trong bất cứ một hoàn cảnh nào, mình cũng phải tìm cách nuôi cho mình một hy vọng. Ngày nào con người còn nuôi hy vọng, ngày đó cuộc đời còn đáng sống, đáng phấn đấu...

Hai người ngồi nói chuyện mãi rồi cũng đến lúc chia tay. Phượng cầm hai tay Trọng, run run nhét vào đó một vật nhỏ bọc khăn mu soa. Trọng dở ra xem, thì ra cái nanh heo rừng. Không biết cái nanh đã cũ bao nhiêu năm nhưng đã lên nước rất bóng loáng.

- Em đào đâu ra được thứ này vậy?

- Nanh heo rừng đó, linh lắm, của bố. Người ta nói ai đeo nanh heo rừng thì đạn sẽ bắn không trúng. Ngày xưa bố đi lính, nhờ nó mà đánh bao nhiêu trận không bị hề hấn gì.

Trọng cười, chàng chẳng bao giờ tin những cái vớ vẫn như vậy nhưng cũng hít hà ra vẻ mừng rỡ để Phượng vui lòng.

- Bố cho anh à?

Phượng lắc đầu, cười:

- Không, Phượng... lấy trộm. Cái này để trên bàn thờ, qúy lắm, sức mấy mà bố cho. Phượng lấy đại để cho anh, mong anh được bình an như bố...

Rồi Phượng khóc. Mới đầu chỉ ấm ức nhưng rồi nàng khóc oà lên. Suốt đời Trọng, chàng chưa bao giờ nghe nhiều tiếng khóc bằng buổi tối hôm đó...

Bây giờ, ngón tay chạm chiếc nanh heo rừng, hình ảnh Phượng ngày nào lại trở về trong trí chàng...

(Còn tiếp)




Được sửa bởi MAI THO ngày Fri Dec 23, 2016 8:25 pm; sửa lần 1.
Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7764

Bài gửiGửi: Fri Dec 23, 2016 8:11 pm    Tiêu đề: Đêm Thánh Vô Cùng (Phần 2)


Đêm Thánh Vô Cùng


Đêm Thánh Vô Cùng (Phần 2)

(Phú Lan sưu tầm)

Dặn dò những điều cần thiết với Hoàng xong, Trọng dẫn lính xuống ngọn đồi, tiến về phía làng Thượng. Chàng ngạc nhiên khi nhận thấy lác đác đó đây trên con đường đất đỏ có những đống đá xanh mới tinh vun cao. Tại sao lại có những đống đá xanh mới tinh chất bên đường như thế này, Trọng nhíu mày suy nghĩ.

Tới gần hơn chút nữa, Trọng nhận ra một ngôi thánh đường vươn hẳn lên giữa những dãy nhà sàn lụp xụp. Tuy nhà thờ được cất bằng gỗ và gạch sơ sài nhưng nhìn rất đẹp mắt. Nhất là cây thánh giá trên nóc giáo đường. Nó to lớn vĩ đại như muốn ôm ấp hết cả cảnh núi rừng thanh tịnh ở chung quanh vào lòng mình.

Đang còn suy nghĩ thì Trọng nghe được tiếng đàn hát nho nhỏ vọng ra từ trong làng. Tới gần hơn nữa, Trọng nhận ra tiếng hát đó là của một ban hát hợp ca, và hình như phát ra từ một căn nhà lợp mái tranh ở bên cạnh ngôi giáo đường, gần phía ngoài làng.

Tiếng hát vang lên khi trầm lúc bỗng, khi nhẹ nhàng, lúc dồn dập giữa một nơi đồng không mông quạnh làm mọi người đều thấy thích thú. Thật là một bất ngờ thú vị. Ai lại ngờ có thể nghe được những tiếng hát, mà lại là tiếng Việt Nam phát ra từ trong một buôn Thượng. Bài hát này Trọng nghe thấy quen quen nhưng nghĩ mãi không ra. Rõ ràng điệu nhạc là một điệu giật gân, hình như "cha cha cha" thì phải nhưng lời hát lại là một bài hát đạo. Trọng nghe câu được câu mất nên càng để ý lắng tai nghe...

Cách cổng làng chừng vài trăm thước, Trọng cho lính dừng bước, đứng yên quan sát một vòng. Và những điều Trọng nhìn thấy và ghi nhận từ sáng đến giờ chứng tỏ tình báo của sư đoàn nói đúng. Việt cộng rất có thể kiểm soát ngầm được khu làng này. Trong khi đó, quân ta bị bó tay.

Giờ này làng có vẻ vắng, hình như người lớn đi làm rẩy chưa về. Một đám con nít trần truồng đang nô đùa, nhìn thấy người lạ mặt liền ùa tới nhưng không dám ra khỏi làng, chỉ đứng xa xa ngó. Đó đây, một vài con trâu con bò nằm im lặng một cách nhàn nhã.

Trọng vẫy tay chào bọn con nít rồi quay sang bảo người tiểu đội trưởng đi theo mình:

- Như tôi đã nói hồi sáng với anh em, cái làng Thượng này không giống bất cứ cái làng nào mà mình đã hành quân qua. Các anh mà làm bể một viên gạch thì ngày mai nó kiện tới... Dinh Độc Lập. Bây giờ mấy anh ở ngoài này... chơi, để một mình tôi vào làng thăm cha xứ.

Người tiểu đội trưởng nhìn Trọng ái ngại ái ngại:

- Trung úy nên dắt theo vài người, lỡ có chuyện gì...

Trọng cười, ráng pha trò một câu cho không khí bớt căng thẳng:

- Ông có nghe được tiếng hát lúc nãy không? Chẳng có gì đâu. Việt Cộng đâu có hát hay như vậy được...

Nói xong Trọng cởi giây đeo súng Colt của mình đưa cho người hạ sĩ quan mang máy:

- Ông trực máy ngoài này, có gì chạy vào kêu tôi. Mấy ông cứ tản mát ra đi ngắm trời ngắm đất cho vui, nhưng phải luôn luôn đề cao cảnh giác và nhớ kỹ lời tôi nói, không được động đến một ngọn cỏ của cái làng này.

- Trung úy lặn cây Colt theo cho chắc ăn trung úy.

- Không! Khách lạ đến thăm một nơi mình chưa quen biết mà trang bị súng ống đến tận răng thì khó mà gây được cảm tình. Hơn nữa, nếu có Việt Cộng trong làng thì một cây Colt cũng không bắn lại chúng nó... Rồi bây giờ anh em tản mác ra đi, nhớ đừng có gây sự với ai cả...

Trọng xoay người, ước lượng khoảng cách từ chỗ chàng đứng đến căn nhà tranh có tiếng hát phát ra rồi chầm chậm bước tới. Chàng ráng làm ra vẻ nhàn nhã tĩnh táo như một người du khách đi dạo nhưng tim vẫn đập lên từng hồi, mồ hôi ở trán và ở cổ rịn ra. Trọng ráng không nghĩ đến cảnh ở một căn nhà sàn nào đó, tự nhiên mọc ra một... họng súng A.K., nhắm vào người chàng nổ ròn rã. Chết mà không cầm được cây súng trong tay để bắn lại kẻ thù gọi là chết ngu. Hình ảnh đó làm Trọng giựt mình. Mình ngu thật, hết chuyện làm rồi tại sao lại quyết định khơi khơi vào đây một thân một mình như vậy? Tại sao mình lại có thể ngu dại như thế nhỉ?

Hay bây giờ rút lui cũng còn kịp. Bước chân Trọng trở nên chậm lại với ý nghĩ này. Nhưng đã mang danh là Cọp Đen, ai lại bỏ cuộc nửa chừng như vậy. Lính tráng sẽ đồn rầm lên là "Ông thầy lạnh cẳng, đi nửa chừng đổi ý, không dám vô làng..." Trọng hiểu chuyện mua danh ba vạn bán danh ba đồng xảy ra rất thường. Nhưng làm người, ai lại chẳng sợ chết...

Chàng bị dằn vặt giữa hai quyết định không chọn được nhưng cặp chân vẫn từ từ cất bước. Những bước chân nặng chĩu đúng nghĩa..

Ngay lúc ấy, từ căn nhà mà chàng đang lấy hướng đi tới vẳng ra tiếng hát, âm thanh huyền bí quyến rũ và an hòa như một điệu nhạc đến từ cõi trời cao thăm thẳm: "...Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm..."

Tự nhiên, Trọng thấy lòng mình trở nên nhẹ nhỏm. Một niềm hạnh phúc lâng lâng không cắt nghĩa được từ đâu phủ kín trái tim chàng. Trọng thấy ngất ngây trong tiếng nhạc, chân cất bước mạnh dạn, chẳng còn thấy e dè sợ hãi gì cả...

Càng tới gần, tiếng hát càng trở nên rõ ràng, thanh thoát...

Và Trọng chợt khám phá ra vì sao tiếng hát đã làm cho chàng lấy được sự tự tin, sự bình an trong lòng. Đây là bài hát "Kinh Hoà Bình" của thánh Phan xi Cô mà thuở nhỏ chàng rất thích. Mỗi lần đi lễ nghe người ta hát bài này, lòng Trọng luôn luôn như muốn chảy ra...

Rồi Trọng nghĩ tiếp, quái lạ, bài này là một bài hát chậm, rất chậm, không hiểu ai lại biến chế để hát nhanh như vậy. Hay cả nước bây giờ đang hát mau như vậy cũng nên, Trọng suy nghĩ. Có lẽ Lâu quá mình không đi nhà thờ nên không biết đến những thay đổi...

Trọng đã đứng trước căn nhà phát ra tiếng hát mà không ai hay biết. Từ ngoài nhìn vào, chàng nhìn thấy một người mặc áo chùng đen xây lưng cầm cây đờn đứng giữa một đám thanh thiếu nhiên đứng ngồi ngổn ngang. Trọng lặng thinh theo dõi...

- Nào bây giờ chúng mình vô lại nhé, nhớ nghĩ một temp ở chỗ đó chỗ đó... Một hai ba bốn năm... một... Lạy chúa từ nhân xin cho con biết mến yêu và phụng sự chúa trong mọi người... Chát chát... chình chình chình...

Trọng cười. Chàng đã đoán không sai. "Chát chát chình chình chình" là điệu cha cha cha. Tiếng hát tiếp tục vang lên dồn dập:

"...để con đem tin kính vào nơi nguy nan đem trông cậy vào nơi thất vọng..."

Trọng đứng ngây người giữa trời. Gió cao nguyên của buổi trưa mùa đông thổi vi vu nhẹ nhàng như quyện với tiếng hát để phủ kín lấy người chàng, thấm sâu vào trong từng thớ thịt, từng khúc xương, từng tế bào. Một bài hát chậm hát mau mà không ngờ hay như vậy làm lòng chàng như bay vút lên cao...

Tự nhiên, Trọng thấy mình không còn là một Cọp Đen lừng danh đánh giặc tới nhất của sư đoàn 23 bộ binh nữa mà là một cậu học trò Nguyễn Văn Trọng bé bỏng ngày nào của thuở học trò, của những ngày xanh vô tội, của những ngày quê hương còn thanh bình yên ấm.

Tiếng hát lại vọng ra nhịp nhàng, ấm cúng:

"...để con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm, đem ủi an đến chốn u sầu..."

Bị lôi cuốn bởi tiếng hát, Trọng từ từ tiến tới đứng sát bên cửa lúc nào mà không hay. Chàng ngạc nhiên khi nhìn thấy người mặc áo chùng đen là một linh mục người Việt Nam rất trẻ, chắc chỉ hơn chàng chừng 5 tuổi là cùng...

Vậy còn ông cố đạo Tây khó tánh đã làm điên đảo Dinh Độc Lập như lời ông trung đoàn trưởng mô tả đâu rồi nhỉ? Trọng thấy mừng vì mình đã quyết định một thân một mình vào đây. Ít nhất, cho đến giờ phút này, chàng thấy làng này cũng bình thường như đa số làng khác...

Nghĩ đến người linh mục trẻ tuổi ở một xứ đạo người Thượng hẻo lánh, Trọng tự nhiên thấy thương ông ta. Trẻ tuổi... hát hay như vậy mà phải chôn đời mình ở một nơi như thế này thì chắc là buồn lắm. Trọng nhớ đến cũng hình ảnh này của các ông cha khác nơi những Vương cung thánh Đường nguy nga đồ sộ, với những ca đoàn viên ăn mặc sang trọng và đẹp như tiên nữ. Những tiên nữ đi tập hát có tài xế chở đi bằng xe Mercedes, xe Hoa Kỳ mới tinh bóng lộn...

Hết bản nhạc, biết có khách đứng ở ngoài, người linh mục nói vài điều với các em ca đoàn rồi bước ra tiếp Trọng. Nụ cười chân thật tươi tắn của vị linh mục nở dưới gọng kiếng trắng dày cộm làm Trọng có cảm tình ngay từ giây phút đầu tiên:

- Chào ông, ơ xin lỗi, chào Trung úy! Tôi là cha Thanh.

Còn biết gọi mình là trung úy thì chắc chưa đến nỗi nào. Trọng đứng nghiêm, chào rồi đưa hai tay bắt tay Cha Thanh:

- Kính chào cha, con tên là Trọng, cha cứ gọi là Trọng. Ca đoàn của cha hát hay quá.

Cha Thanh cũng đưa hai tay ra bắt lấy tay Trọng:

- Anh quá khen, tôi ráng tập cho kịp để chúng nó hát lễ Noel đấy mà.

Trọng dùng bài hát làm đề tài để bắt chuyện:

- Thưa cha lúc nhỏ con đi nhà thờ, cũng nghe hát bài này hoài nhưng người ta hát... khác.

Cha Thanh bước ra khỏi nhà, cười hềnh hệch sảng khoái, rất tự nhiên:

- Anh cũng có đạo à? Thế thì tốt quá. Anh nói đúng, bài "Kinh hòa bình" đúng ra phải hát chậm nhưng các em đề nghị "phan ta di" ra như vậy. Tôi hát thử thấy hay nên tập cho các em hát luôn.

Cha Thanh cởi mở và hồn nhiên thật. Mới nói chuyện mà chàng thấy như hai người đã quen nhau lâu lắm rồi. Trọng cười, hỏi tiếp:

- Cha làm vậy không sợ mất vẻ nghiêm trang à?

Cha Thanh lắc đầu:

- Thiên Chúa quyền uy cao cả, ngài không chấp nhất những chuyện nhỏ mọn.

- Cha hút thuốc?

Cha Thanh tỉnh bơ đưa tay rút một điếu thuốc do Trọng mời, khum người mồi lửa:

- Cám ơn anh. Sáng giờ cũng đang thèm thuốc.

- Cha "đóng" ở đây lâu chưa?

Cha Thanh cười:

- Đúng ra xứ đạo này do một ông cha người Pháp trông coi. Ông ta về Pháp nghĩ lễ hai tháng nên tôi được cử về đây tạm thời thay thế. Nhà xứ tôi cũng ở đây không xa, trong thị xã Kon-Tum.

Mặt Trọng trở nên hớn hở. Thì ra vậy. Một thắc mắc trong đầu Trọng đã được giải quyết thỏa đáng. Cha Tây khó tính vắng nhà, cha Việt Nam... dễ thương thay thế tạm. Vậy thì mình phải khai thác mới được.

Như đọc được những ý nghĩ trong đầu Trọng, cha Thanh cười hỏi:

- Anh đến đây chơi hay có việc gì không?

Trọng không biết trả lời sao. Khó nói quá. Chẳng lẻ lại nói huỵch toẹt là cha biết chúng nó giấu súng ở đâu không, hay làng này có chứa thằng Việt Cộng nào không?

Cha Thanh biết Trọng đang bối rối, bèn hỏi:

- Anh uống cà phê? Nếu rảnh mời anh lên nhà ngủ, tôi mời anh một ly cà phê, mình nói chuyện chơi...

Còn gì bằng, Trọng hân hoan nhận lời.

Đám thanh thiếu niên đoàn hát bây giờ đã ùa ra ngoài. Chúng nó khoảng 10 đứa. Một nửa là Việt Nam, một nửa là Thượng. Trọng để ý thấy đám thiếu niên người Thượng ăn mặc bảnh bao hơn đám Việt Nam nhiều. Đứa nào cũng quần jean áo nhập cảng từ ngoại quốc, còn Việt Nam chỉ mặc quần đen nội hóa với những chiếc áo trắng đã ngã màu.

Cha Thanh bảo chúng bằng tiếng Việt trước rồi phụ đề tiếng Thượng sau:

- Cha có khách tới bất ngờ phải tiếp. Chúng con chuẩn bị xe... bò để chờ cha. Lát nữa cha xuống chúng mình đi.

Cha xứ Tây ở một căn nhà gạch rất tiện nghi với phòng ăn, phòng ngủ và cầu tiêu đầy đủ.

Trọng ngồi nơi bàn ăn chờ cha Thanh pha cà phê. Nhìn đồ đạc bày biện trong phòng, Trọng cảm thấy làm người... Tây phương sướng thật. Không, đúng hơn phải nói làm dân của một nước văn minh sướng thật.

Hai người ngồi trong phòng ăn uống cà phê nhìn ra ngoài. Trọng làm một hớp cà phê:

- Ở trong rừng mà có được một ly cà phê ngon như thế này thì thật là hạnh phúc.

- Cà phê Ban Mê Thuột nổi tiếng thế giới. Tôi ghiền cà phê này đến độ hồi còn học ở bên Pháp, mẹ tôi cứ vài tháng phải gởi sang cho tôi chừng năm ký...

Lại thêm một yếu tố mới làm Trọng ngạc nhiên, chàng bám ngay đề tài:

- Cha đã du học ở Pháp?

- Gia đình tôi gởi tôi đi du học rồi tôi được ơn kêu gọi bên đó. Chịu chức xong tôi xin về nước để phục vụ...

Nói đến đó, cặp mắt của cha Thanh như thoáng lên một chút buồn phiền. Trọng không hiểu vì sao nhưng trong lòng thấy hơi bối rối. Chàng chẳng lạ gì tinh thần thiên cộng của cái đám sinh viên quốc gia được bố mẹ gởi đi du học ở ngoại quốc. Sinh ra và lớn lên trong nhung lụa, lại ra đi quá sớm, họ dễ bị đạo binh tuyên truyền của Cộng Sản đầu độc. Cha Thanh có phải là một trong cái đám này không, Trọng tự hỏi? Tại sao lại "tình nguyện xin về nước phục vụ?", rồi lại phục vụ đúng ngay trong một cái làng Thượng nổi tiếng là "Việt Cộng" này. Tuy có cảm tình với cha Thanh nhưng chàng cũng thấy hơi ngờ ngợ trong người. Giọng của Trọng có vẻ hơi bớt thân mật đi chút ít:

- Bên Pháp vui không cha?

- Nếu như đi du lịch chừng vài tuần thì nơi nào cũng vui cả. Nhưng ở lâu rồi thì anh mới thấy là không chỗ nào bằng quê mình được, không người nào bằng người mình được, không có tình thương nào bằng tình thương Việt Nam được...

- Ý con muốn nói, thưa cha, là ít nhất, bên đó họ thanh bình, không có chiến tranh. Sống trong một nước hoà bình chắc sướng lắm...

- Tôi nghĩ là hòa bình hay chiến tranh bắt đầu từ ở con người. Con người gây ra được chiến tranh thì con người cũng làm được hòa bình. Một con người hoà bình sống giữa chiến tranh vẫn thấy mình an bình. Ngược lại, một con người háo chiến sống giữa một miền đất hòa bình vẫn không có hòa bình.

Bây giờ thì Trọng thấy khó chịu thật. Giọng điệu này đúng là giọng điệu tuyên truyền ru ngủ mà bọn Cộng Sản thường dùng. Ông cha thiên Cộng này muốn chửi bọn chúng mình là háo thắng đây chăng? Sao ông ta không biết là nếu Việt Cộng rút quân về Bắc, đừng xâm lăng nữa thì đất nước sẽ thanh bình liền...

Nghĩ vậy nhưng Trọng biết chuyện làm của mình. Mình không đến đây để cãi lý hay làm mất lòng một ông nhà tu thiên Cộng trẻ tuổi từ Pháp mới về. Mục đích của chàng là tìm hiểu về cái làng này càng nhiều càng tốt.

Nhìn mặt Trọng, cha Thanh chợt hiểu chàng có điều gì bất mãn nhưng chưa tiện hỏi.

- Hòa Bình, ý con muốn nói là người ta không bị chết bất tử, không bị cháy nhà bất tử, không bị pháo kích bất tử như cái thành phố Kon Tum lâu lâu chẳng biết chúng nó đặt súng ở đâu mà cứ pháo vào thành phố hoài, chúng con kiếm mãi không ra...

Cha Thanh nhìn đăm đăm vào Trọng một lúc rồi gật gù, cười:

- Tôi đã đoán là anh đến đây vì có một mục đích, nhưng không sao, khi nào có dịp tôi sẽ cắt nghĩa cho anh hiểu...

Cha Thanh rót thêm cà phê cho Trọng:

- Anh uống thêm cà phê! Tôi ở đây ít khi gặp người Việt Nam cùng tuổi để tâm sự. Người Việt chỉ có mấy đứa con nít trong hội hát, người lớn toàn là Thượng. Họ nói tiếng Việt rất ít, chỉ nói tiếng Thượng và tiếng Pháp...

Thì ra đã làm người, ai cũng có tâm sự, ai cũng biết vui biết buồn. Cha Thanh cũng không tránh khỏi định luật này. Nói chuyện thêm một lúc, thấy cha Thanh có vẻ thành thật cởi mở, Trọng hỏi:

- Thưa cha, chẳng dám dấu cha, đúng như ý cha đoán lúc nãy, con muốn hỏi thăm cha một điều...

Hình như đã chờ câu hỏi này từ lâu, cha Thanh cười:

- Anh nói đi, xem thử có đúng như những gì tôi nghĩ không?

- Thưa cha, cha ở xa về không biết, cái làng này xưa nay nổi tiếng là một làng "bất khả xâm phạm."...

Cha Thanh cười:

- Bất khả với ai chứ với anh thì chịu. Nếu bất khả thật thì làm sao giờ này anh vào đây để nói chuyện với tôi được?

- Thưa cha, con không biết phải giải thích thế nào nhưng cái làng này có một ông cha Tây khó chịu lắm... Con không muốn đem vấn đề quân sự ra nói chuyện với cha nhưng cha nghĩ xem, Việt Cộng cứ lâu lâu kéo súng về đặt gần làng để bắn đi mà mình không làm gì được. Cha nghĩ xem, họ đã ở trên đất nước mình, chẳng giúp gì được cho mình lại còn đi che chở cho giặc... Cha là người Việt Nam, con nghĩ cha có thể thông cảm được với con...

Trọng nhìn cha Thanh hồi hộp chờ câu trả lời. Giọng cha Thanh nghiêm trang:

- Vậy theo ý anh, chúng tôi phải làm gì?

Hai chữ "chúng tôi" xác định một sự "đoàn kết khắng khít" với nhau mà Trọng rất sợ. Chưa kịp trả lời thì cha Thanh tiếp luôn:

- Trước hết, anh Trọng à, tôi xin xác nhận với anh là làng này không chứa Việt Cộng. Tôi biết cha cố Pierre, ngài cũng không chứa Việt Cộng...

Trọng thấy nhẹ nhỏm trong người. Chàng biết cha nói thật.

- Ngược lại, nói anh đừng buồn, chúng tôi cũng không thể làm tay sai cho chính quyền. Chúng tôi biết Việt cộng thường đem pháo về gần làng để bắn vào thành phố nhưng chúng tôi không thể báo cáo việc này cho ai biết hết. Chuyện không phải của chúng tôi, chúng tôi không để ý đến. Anh nên hiểu cho rằng, vấn đề ý thức hệ, vấn đề quốc gia hay cộng sản không có trong đầu óc những người miền núi dốt nát này. Đối với họ chỉ có vấn đề sống hoặc chết. Anh nghĩ xem, những người dân một cổ hai tròng ở những vùng hẻo lánh như thế này không thể dứt khoát theo một bên nào được. Theo quốc gia thì chết với Việt Cộng, mà theo Việt Cộng thì cũng chết với các anh...

Cha Thanh nói đúng. Người dân ở những vùng xôi đậu luôn luôn chịu một cổ hai tròng. Theo bên này thì chết với bên kia. Nếu mình không bảo đản được an ninh cho họ 100 phần trăm thì cũng đừng mong có sự trung thành 100 phần trăm.

- Tôi cũng đã nghe được những lời than phiền của bên quốc gia mình về linh mục Pierre, ngài hay kiện lên tới toà thanh La Mã những chuyện nhỏ nhặt không đâu. Thật ra, anh phải hiểu cho rằng, sống ở một nơi xa ánh sáng văn minh thì đôi khi cũng phải làm dữ một chút mới dọa được những ông tỉnh trưởng tham nhũng, những cấp chỉ huy lính bê bối. Thành thật mà nói, những chuyện như thế làm sao tránh được trong cuộc chiến...

- Thế Việt Cộng về bắn phá bậy bạ cha Pierre có kiện không?

- Kiện chứ! Kiện đứt đuôi con nòng nọc nhưng anh biết thế giới cộng sản mà. Chúng nó che chở cho nhau không cần biết tốt xấu. Hơn nữa, hệ thống thông tin tuyên truyền của cộng sản ở thế giới tự do rất mạnh, chúng có thể phủ đầu những tin tức bất lợi cho chúng rất dễ dàng.

Trọng nghe đến đâu thì thấm đến đó. Cha Thanh mồi điếu thuốc, nhìn đồng hồ rồi đứng lên hỏi:

- Anh nhìn tôi, anh có thể tin rằng một người như tôi, một người mà gia đình đã bỏ cả quê hương, bỏ cả mồ mả tổ tiên để vào Nam tránh hoạ cộng sản, thì có thể là một người bắt tay hay dung túng bọn cộng sản được không?

Trọng thấy phấn khởi trong lòng và biết là đã đến giờ mình phải ra đi. Chàng đứng dậy, lắc đầu:

- Không bao giờ.

Cha Thanh cùng Trọng bước ra cửa:

- Cám ơn anh đã thông cảm cho tôi và quan trọng nhất, cám ơn anh đã có can đảm vào làng để nói chuyện với tôi. Nghĩ cũng lạ, người ta cứ cho rằng làng này chứa Việt cộng mà xưa nay chưa có một người lính nào dám vào làng này để tìm hiểu. Anh vào đây rồi, anh có thấy một cây A.K. hay một cây B-40 nào giấu trong này không?

Trọng cười:

- Con chỉ thấy... thánh giá và... ca đoàn.

Cha Thanh cười theo. Hai người đứng ngoài bãi cỏ, cha Thanh nói:

- Tôi muốn ở lại hàn huyên với anh lâu hơn nhưng có công chuyện phải ra ngoài làng bây giờ, bọn nhỏ đang chờ. Anh còn đóng quân ở đây, thỉnh thoảng ghé thăm tôi chơi.

Trọng móc bao thuốc lá mời cha Thanh một điếu rồi dúi nguyên cả gói còn lại vào tay ông ta:

- Cha giữ lấy gói thuốc này mà hút, con còn nhiều.

Cha Thanh cầm bao thuốc lá, cười: -Trung úy muốn "mua chuộc" tôi à?

Trọng cũng đùa theo:

- Một trong những điều tâm niệm của người chiến sĩ quân lực VNCH là phải thương dân, giúp đỡ dân và bảo vệ dân mà cha...

Hai cả người cùng cười rồi chia tay nhau.


Trọng bình thản bước từng bước một ra bìa làng, lòng thấy nhẹ nhỏm thư thái. Cuộc mạo hiểm của Cọp Đen coi như thành công ngoài sức tưởng tượng. Lúc bắt đầu bước vào đây, chàng chỉ dám bước vì tiếng hát, chẳng ngờ lại được gặp gỡ cha Thanh và được hiểu thêm nhiều chuyện. Từ đây, cái nhìn của chàng về cái buôn thượng vang danh... Việt Cộng này sẽ khác hơn.

Tới ngoài làng, Trọng cảm động khi nhận ra những ánh mắt lo âu của thuộc cấp. Chàng cười xoà rồi dắt lính đi một vòng phía ngoài làng để nghiên cứu địa thế.

Chàng để ý gần làng có một con suối không lớn lắm nhưng sâu thăm thẳm, muốn leo xuống phải khó khăn vô cùng. Đi hết một vòng quanh làng, trọng thấy tự tin hơn. Địa thế như thế này thì chúng không thể kéo pháo về được, chỉ có thể đem súng cối và hoả tiễn về bắn quấy rối. Cọp đen đứng trên một mô đất suy nghĩ. Cối thì cho chúng mày bắn tới tết ông cũng cóc sợ, chỉ ngán chúng nó kéo hỏa tiễn 122 ly về. Hỏa tiễn 122 ly là một thứ vũ khí khủng bố dân lành vì có tầm bắn xa, dễ cơ động nhưng thiếu chính xác. Nhiều khi hỏa tiễn bay xa mục tiêu cả... chục cây số vì dàn phóng được mấy ông chế ẩu tả cấp tốc bằng tre, cho nổ mười quả một lần để rớt bừa bãi vào thành phố rồi bỏ chạy. Trọng đã từng nhìn thấy cảnh những em bé mất đầu mất tay, những người dân lành vô tội bị chết thảm thiết vì những trái 122 ly này.

Trọng lấy bản đồ ghi chép và đánh dấu những chỗ cần thiết rồi dắt lính về. Trời đã về chiều, gió cao nguyên bắt đầu thổi lồng lộng đem hơi lạnh từ trong núi ra. Ngày đầu tiên như vậy coi như là thành công quá rồi. Trọng đếm từng bước một trên con đường đất, suy nghĩ vu vơ...

"Vậy là sắp tới Nô Ên rồi trung úy, " câu nói vô tình của người lính lại trở về với Trọng. Phượng giờ này chắc đang dạo phố phường hay chuẩn bị bánh trái để đón lễ giáng sinh sắp tới. Không biết nàng có nghĩ đến mình không nhỉ. Quái lạ, sau mấy năm tưởng đã quên bẵng người con gái đó, không hiểu tại sao hôm nay mình lại nghĩ đến nàng tới mấy lần. Trọng trầm ngâm suy nghĩ...

Thôi đúng rồi, mình từ giã nàng ra đi vào một mùa giáng sinh. Đúng một năm sau, cũng vào mùa giáng sinh gió lộng như thế này, mình đã trở về...

Mắt chàng thấy cay cay. Phượng ơi Phượng, Phượng đâu hiểu anh vẫn còn yêu Phượng, mãi mãi yêu Phượng như thuở nào trước khi anh đi lính...

Chuyện tan vỡ của hai người thật ra không biết phải đổ lỗi cho ai. Nếu có Phượng tại đây, nàng sẽ nói là tại Trọng. Còn riêng Trọng, chàng nghĩ chính Phượng là người... phải chịu trách nhiệm nặng nề.

Sau ngày từ giã nàng ra đi, những tuần lễ đầu, mỗi tuần Trọng đều viết cho Phượng một lá thơ. Đó là những ngày còn nhàn nhã ở trung tâm tuyễn mộ nhập ngũ chưa vào quân trường. Ở đấy, người ta cho các khoá sinh được sống một cuộc đời tương đối thoải mái để làm quen dần với nếp sống nhà binh.

Hễ nhận được lá thơ nào là Phượng trả lời ngay lá thơ đó. Tình yêu con gái chan chứa, nàng viết có khi dài đến 8, 9 trang giấy học trò.

Rồi Trọng vào quân trường Quang Trung, những lá thơ viết cũng vơi dần theo vì chẳng có dư thì giờ. Thì giờ ngủ còn chưa có lấy thì giờ đâu để viết. Tuy nhiên, Trọng cũng cố gắng mỗi tháng viết cho Phượng một lá.

Phượng là "gái bên song cửa" nên không thể hiểu được cái chuyện khó khăn rất bình thường này của nhà binh. Nàng lại lãng mạng, đo tình yêu bằng những lá thơ nên thấy tự ái mình bị va chạm nặng nề. Những lá thơ trả lời của Phượng vì thế cũng lơi dần đi...

Rồi Trọng vào Thủ Đức, lò luyện thép gian khổ nhất và vĩ đại nhất của giống dân da vàng thời đó, thì giờ càng trở nên eo hẹp. Thậm chí đến việc đi ăn và đi... cầu mà cũng phải chạy vắt giò lên cổ thì làm gì có thì giờ ngồi viết thơ cho Phượng.

Một ngày, Trọng nhận được lá thơ của mẹ già. Mẹ viết: "Hồi con mới đi, Phượng ngày nào cũng đến chơi với các em con và thăm mẹ. Nhưng đã mấy tháng nay mẹ không còn thấy Phượng đến nữa. Mẹ hơi lo xa một chút, con đừng buồn. Mẹ không biết con có làm gì cho Phượng nó buồn không. Con ráng biên thơ thăm Phượng. Mẹ qúy nó lắm, nó rất là dễ thương..."

Trọng đang ngồi ôm cây M-16 gác tuyến một buổi chiều sau giờ học, đọc thơ xong, nhớ nhà, nhớ Phượng, bất giác hai hàng nước mắt rơi lả chả. Đồng thời, vốn là một kẻ ngang ngạnh bất khuất từ lúc nhỏ, Trọng cũng thấy tự ái mình bị tổn thương trầm trọng. Nếu người ta không còn yêu mình nữa thì thôi, mình không thể hạ mình để xin xỏ tình yêu. Nhất là cái thứ tình yêu bạc bẽo chỉ có trên đầu môi chót lưỡi kia...

Vài tuần sau, lá thơ tiếp theo của đứa em gái mới xé nát linh hồn Trọng: "Em thấy thầy Chương dạy toán hay đến nhà chị Phượng chơi luôn. Một lần gặp em chị ấy bảo thầy Chương chỉ là người quen trong gia đình... Em không dám nói gì vì em biết anh là lính xa nhà và nhà mình lại nghèo nữa... Em nói cho anh biết vậy thôi, mong anh đừng buồn và hãy ráng bảo trọng tấm thân..."

Trọng gấp lá thư, cười méo mặt lại: "Con nhỏ này thật ngây thơ. Tin sét đánh như vậy mà bảo người ta đừng buồn..." Nghĩ đến chuyện đã gần ba tháng chưa nhận được thơ Phượng, Trọng quyết định ngưng luôn thư từ với nàng.

Thật ra trong lúc đó, Phượng đang đau khổ vì tưởng Trọng lừa dối mình. Trọng bảo đi học 6 tháng sẽ về, bây giờ gần cả năm rồi mà chưa thấy tăm hơi gì cả. Thư cũng chẳng thèm viết về nữa.

Nhà Phượng quả có ông thấy giáo dạy toán tên Chương hay đến chơi thật nhưng trong nhà chỉ có bố Phượng thích ông này, ngoài ra chẳng ai ưa cả. Phượng biết mình. Phượng biết Phượng chỉ có thể yêu Trọng mà thôi. Nàng thường nói đùa với mấy đứa bạn cùng lớp: "Tao có nói với thầy Chương rằng, cũng như từ một điểm ngoài đường thẳng, người ta chỉ có thể vẽ được một đường thẳng thẳng góc với đường thẳng ấy và chỉ một mà thôi, trái tim tao chỉ có một hình ảnh Trọng và chỉ một mà thôi..."

Tuy yêu tha thiết nhưng vốn được bố mẹ nuông chiều từ thuở nhỏ, Phượng luôn luôn muốn được làm người quan trọng, muốn người ta phải năn nỉ mình, muốn được có quyền uy ngay cả với người mình đang yêu. Vì thế, tuy thư không thèm viết nhưng trái tim Phượng ngày nào cũng như chảy ra khi nghe thấy có tiếng xe Honda ngoài ngõ...

Rồi một ngày gần lễ giáng sinh, mẹ Trọng sang báo cho Phượng biết là: "Thằng Trọng mãn khóa rồi, thứ sáu này ra trường, thứ bảy nó sẽ về đây bằng máy bay quân sự..."

Phượng mừng quá khóc rưng rức. Sáng thứ bảy, nàng "quên hết hận thù" đến nhà bố mẹ Trọng để cùng ra phi trường đón Trọng. Cả nhà chờ mãi đến tối chẳng thấy Trọng đâu hết đành lên xe ra về.

Riêng Phượng, nàng không thể tha thứ cho Trọng cái tội này được. Nhưng nàng không biết rằng sáng hôm thứ bảy sau ngày lễ gắn lon, Trọng hí hửng xách hành lý ra trạm hàng không dân sự Tân Sơn Nhất để nghe một tin chết người: "Vì nhu cầu hành quân, các phi vụ chuyên chở hành khách thông thường đã bị hủy bỏ..."

Đáng lẽ chàng nên ra đón xe đò về Nha Trang liền thì không đến nổi nhưng chàng nán lại, hỏi người hạ sĩ quan hậu trạm về chuyến bay kế tiếp. Hắn bảo có thể chiều nay...

Cái "chiều nay" của hắn kéo dài đến... hai ngày. Có 10 ngày phép quí báu thì đã mất toi hết 2 ngày nằm chết dí một chỗ ở trạm hành không quân sự. Trọng đi ra đi vào lẻ loi buồn khổ như một bóng ma, chẳng ai để ý đến. Hoá ra cặp lon chuẩn úy vàng chóe trên cổ mất cả năm mới giật được đối với thiên hạ chẳng ra cái thá gì cả. Nhưng chàng cũng tự an ủi được phần nào khi nhìn thấy có vài ông trung tá đại tá cũng ngồi chờ méo mặt ra...

Quân đội thật là tàn nhẫn và rắc rối!

Mãi chiều thứ hai, lúc Trọng đã bắt đầu có ý định bỏ đi đón xe đò về thì người ta cho Trọng leo lên chiếc C-119 về Nha Trang.

Nhìn lại thành phố cũ sau một năm đã mừng, nhìn lại căn nhà cũ nơi mình đã sinh ra và lớn lên còn mừng hơn. Trọng bước vào qua hàng rào và chợt đau đớn nhận ra là nhà mình nghèo quá. Điều này phải đi lâu ngày về nhà mới nhìn thấy được. Trong khi các nhà hàng xóm chung quanh mọc lên nào trụ ti vi, nào xe gắn máy mới đậu trước nhà, nhà Trọng nước sơn nước gỗ vẫn y nguyên như từ thuở chàng lên tám.

Mẹ Trọng ngồi ngoài hiên, nhìn thấy con trai liền đứng bật dậy chạy ra cầm lấy tay Trọng vừa khóc vừa nói: "Con ơi, cả năm nay, chiều nào Mẹ cũng ra ngoài hè ngồi chờ con như thế này..."

Thấy nhà hoang vắng quá, Trọng hỏi:

- Bố đi làm chưa về sao mẹ?

- Về rồi chứ, nhưng bố mày phải đi chạy xe Honda ôm kiếm chút tiền để phụ với tao. Chạy xe thì mệt thật đấy và nhục nữa nhưng lương công chức như bố mày thì tiêu làm sao cho đủ...

Hai mẹ con cầm tay nhau bước vào nhà. Chàng thấy đồ đạc trong nhà chẳng có gì thay đổi. Sự nghèo khó thật khó mà giấu thiên hạ. Nghĩ đến bố mẹ chịu bao nhiêu cực khổ để nuôi nấng mình nên người, bây giờ khôn lớn mà chẳng giúp gì được gia đình lại phải sống xa nhà, hai hàng nước mắt của Trọng bất giác tuôn rơi đầm đìa.

Mẹ Trọng mắng:

- Con trai, mày về nhà không mừng tại lại khóc?

- Con khóc à?

- Không khóc thì sao mà mặt mũi đầm đìa nước mắt thế kia, có chùi đi không người ta nhìn thấy người ta cười cho. Lớn rồi, làm lính rồi mà cứ còn mau nước mắt...

Suốt buổi chiều hôm đó Trọng ở nhà không đi đâu cả. Trước cặp mắt ngạc nhiên của mẹ, Trọng săn tay áo ra múc nước lau nhà. Hết nhà ngoài đến nhà trong, Trọng lau sạch hơn cả em gái chàng. Xong rồi Trọng giặt thêm mấy thau quần áo, rửa chén và quay nước giếng đổ đầy mấy phuy. Mẹ Trọng ngồi trên sạp, nhìn con trai cười hỏi:

- Trường sĩ quan Thủ Đức dạy mày... chùi nhà và giặt quần áo đấy à? Tao nuôi từ nhỏ đến lớn có thấy mày động tới cái gì trong nhà này đâu. Tao biết người ta dạy hay như thế thì tao cho mày đi học làm sĩ quan lúc lên 10 tuổi.

Trọng cũng cười theo mẹ:

- Có quân trường lại dạy như thế, mẹ! Người ta chỉ dạy cách đánh giặc thôi. Suốt năm qua, sáng nào con cũng phải nhảy xuống đường mương để "chà láng" hai bên, rồi chùi cầu tiêu, làm đủ thứ việc mà con chưa bao giờ làm ở nhà. Con nghĩ bố mẹ cực khổ bao nhiêu năm để nuôi con nên người mà không dùng được, đến lúc đi lính lại được chính phủ xài tối đa nên con muốn làm vậy để trả chút công ơn sinh thành cho bố mẹ...

- Đi lính thế mà tốt. Tao sinh mày ra mấy chục năm nay có bao giờ nghe mày nói được một câu hiếu thảo như thế đâu...

Rồi cu Đán về, nhìn thấy Trọng chỉ nói được một câu "Anh về đấy à" xong là phóng tót lên xe đạp chạy mau như bị ma đuổi. Trọng biết nó đi đâu và mừng thầm trong bụng. Nó đi báo tin cho Phượng biết là Trọng đã về.

Nhưng chờ mãi đến tối mà Trọng chẳng thấy Phượng đến. Cu Đán ngồi trong một góc nhà tiu ngĩu. Trọng cũng muốn đi thăm Phượng nhưng thấy ngại. Xa nhà cả năm mới về chưa gặp đầy đủ mặt bố mẹ, ai lại bỏ đi thăm bồ bịch như vậy?

Chiều, Trinh, em gái Trọng về, nhìn thấy Trọng và nhìn thấy nhà cửa bóng tưng thì mừng quýnh lên. Mẹ Trọng bảo:

- Anh Trọng chùi nhà và giặt đồ hết cho mày rồi đó.

Trinh ra nhà sau và thấy quả đúng như lời mẹ nói. Em chạy lên, gạt nước mắt vừa khóc vừa mếu máo nói:

- Sao anh làm thế anh Trọng? Anh đi lính cực khổ suốt cả năm trời, về nhà có vài ngày không để các em hầu hạ, anh lại hầu hạ các em...

Mẹ Trọng cười:

- Cái nhà này hôm nay hay thật, hết người này khóc rồi đến người kia khóc...

Gần mười giờ đêm, bố Trọng dắt xe Honda vào ngõ, mặt mày bơ phờ, tóc rối bù. Nhìn thấy Trọng, ông hớn hở hỏi:

- Con về rồi đấy à. Ra trường được đổi đi đâu?

- Thưa bố con về sư đoàn 23 bộ binh.

Bố Trọng tròn mắt lại, khuôn mặt đang hớn hở bỗng méo đi, giọng ông thẫn thờ mhư người mất của:

- Nghĩa là mày sẽ đi lính bộ binh, lính đánh giặc?

- Vâng!

Ông lắc đầu, dựng xe lên, giọng cay đắng:

- Con bà Sáu bên này cũng ra trường cách đây mấy tháng nhưng lẹ mồm lẹ miệng thế nào chạy được về an ninh quân đội, con bác Sung trong sở tao cũng được ra truyền tin, một thằng khác vào không quân đi Mỹ đi Tây vù vù... Chỉ có con mình, khốn nạn, chẳng ra cái thể thống gì cả, đi cầm súng hứng đạn cho thiên hạ...

Mẹ Trọng gắt nhẹ:

- Ông này hay nhỉ? Con nó về không mừng sao lại mắng mỏ um sùm là thế nào?

Trọng không biết phải nói gì trong hoàn cảnh đó. Nào Trọng có muốn sống cuộc đời khổ cực của người lính bộ binh. Thậm chí đã xin về tiểu khu Khánh Hòa cho gần nhà mà cũng không được. Nhà nghèo không có tiền, không vây cánh, không quen biết lớn thì đành chịu chứ biết sao.

Bố Trọng đứng lặng một lúc rồi bước vào nhà, khuôn mặt chảy dài ra, lẩm bẩm trong miệng:

- Mẹ, chuẩn úy bộ binh thì ăn cái máu gì...

Mẹ Trọng lại gắt:

- Tôi xin ông! Ông nhìn thấy con đen đủi tội nghiệp đến như vậy ông không động lòng sao, cứ đay nghiến mãi...

Trọng nghe rõ những gì bố nói nhưng không cảm thấy buồn chút nào vì chàng hiểu bố. Bố chỉ thương con mà nói vậy. Làm cha ai cũng cầu mong cho con cái được sung sướng. Mà nghĩ cho cùng, bố nói đúng. Chuẩn Úy bộ binh thì ăn cái máu gì...

Mẹ Trọng dọn cơm, đưa cu Đán 50 đồng bảo ra đầu ngõ mua cho bố xị đế. Trọng ngồi bên cạnh bố, cố tìm một lời an ủi. Ông so đủa, nhìn con trai rồi rót cho chàng một cốc rượu nhỏ:

- Mày đi lính biết uống rượu không?

- Cám ơn bố, con xin mời bố mời mẹ sơi cơm...

Rồi Trọng nghẹn lời. Đã một năm qua, chàng chưa bao giờ được dịp nói như vậy.

Ba người lẳng lặng nâng chén đũa nhưng không khí nặng nề làm sao ấy. Riêng Trọng, chàng vờ vịt chan gắp cho mẹ vui lòng. Cơm không thể nào nuốt nổi. Nhìn cảnh nhà nghèo khó, cảnh bố chạy gạo lam lũ Trọng thấy mình không làm tròn bổn phận của người con trai lớn trong gia đình.

Uống gần hết ve rượu, bố Trọng lim dim đôi mắt. Men rượu làm thần kinh ông trở nên dịu dàng, những khó khăn của cuộc sống dường như tạm rời khỏi trí ông. Ông gắp một miếng thịt bỏ vào chén Trọng:

- Tặng cho con trai. Hồi chiều bố có nói gì con đừng buồn. Bố suy nghĩ lại, bố thấy bố hơi quá. Con ráng ăn đi, vài hôm nữa vào rừng không có mà ăn đâu con.

(Còn tiếp)


Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7764

Bài gửiGửi: Fri Dec 23, 2016 8:35 pm    Tiêu đề: Đêm Thánh Vô Cùng (Phần 3)


Đêm Thánh Vô Cùng (Phần 3)


Đêm Thánh Vô Cùng (Phần 3)

(Phú Lan sưu tầm)

Trọng bỗng bỏ đũa, nhìn bố nghẹn ngào:

- Thưa bố, con xin lỗi bố.

Bố Trọng nhìn xéo con trai:

- Mày làm gì?

- Con xin lỗi bố vì con bất hiếu. Bố mẹ nuôi con cực khổ, bây giờ con đã lớn, nhà cửa lại sa sút mà con không được gần gũi để hầu hạ giúp đỡ bố mẹ, con thấy xót xa lắm.

Bố Trọng lim dim suy nghĩ một lúc rồi nắm tay con trai, nghẹn ngào:

- Con trai ơi, mày phải biết là ra đi đáp lời sông núi là hành động báo hiếu cao cả và có ý nghĩa nhất đấy con ạ.

Trọng nhìn bố. Lần đầu tiên trong đời, chàng thấy bố khóc. Hai hàng nước mắt chảy dài trên khuôn măt già nua, sạm nắng. Ông nhìn thẳng vào đôi mắt Trọng, giọng đau đớn nhưng quyết liệt:

- Có gia đình mà không còn tổ quốc thì có hơn gì những người khách trú, chỉ vì miếng ăn mà chỗ nào cũng sống được. Từ rày trở đi, con xa bố mẹ, trên bước đường chinh chiến, dù cực khổ hay nguy hiểm đến đâu con cũng phải nhớ lời bố con dạy như vậy...

Rồi ông đứng lên bỏ đi vào nhà trong. Trọng bắt ghế ra ngồi trước hiên nhà hút thuốc, nhìn sao trời lồng lộng, suy nghĩ mông lung về gia đình, về tổ quốc, về những lời bố nói...

Nhưng sự suy nghĩ nào của Trọng rồi cũng dẫn đến... Phượng. Nghĩ đến Phượng, chàng thấy lòng mình quặn đau. "Biết mình về mà sao nàng không thèm đến thăm mình nhỉ?" Nàng quên mình thật rồi... Trọng cứ suy nghĩ mãi như vậy cho đến khi lên giường đi ngủ. Ngày đầu tiên về nhà chàng cảm thấy thật khác với những gì mình đã mơ ước từ một năm nay...

Sáng hôm sau, Trọng ngồi uống cà phê và ăn xôi với mẹ. Mẹ bảo:

- Lát nữa con thay đồ đi thăm Phượng đi.

Trọng tính nói "Việc gì phải thăm người ta" nhưng nhìn ánh mắt van lơn của mẹ, chàng gật đầu. Gần trưa, Trọng dựng xe Honda trước nhà Phượng, bước từng bước một nặng nề vào nhà.

Mọi người vui vẻ chào mừng Trọng, nhưng chàng như đọc thấy được vài tia nhìn thương hại trong ánh mắt của người ta. Điều này làm Trọng bực mình.

Trọng ngồi ngoài phòng khách tán gẫu với mẹ Phượng, uống gần hết ly nước trà, Phượng vẫn chưa chịu xuất hiện. Chàng thấy bất mãn và tự ái bị tổn thương nặng nề.

Nếu Phượng không còn thương mình nữa, thì cũng tiếc gì vài lời thăm hỏi dành cho một người quen biết đi lâu ngày mới về?

Trọng đốt hết điếu thuốc, Phượng cũng chưa thèm ló mặt ra. Chàng ngồi thêm một lúc nữa rồi tự nhủ lòng mình: "Người ta đã không thèm tiếp thì thôi, nên về đi Trọng, đừng hạ mình chờ đợi lâu như thế..."

Thế là Trọng đứng lên kiếu từ, mẹ Phượng níu kéo bao nhiêu cũng không được:

- Cháu đến thăm bác và Phượng, rất tiếc Phượng bận. Xin phép bác cháu về, hôm khác cháu lại ghé...

Mẹ Phượng xoay vào trong nhà la toáng lên:

- Cái con phải gió này, tao thì quật cho mấy cái chỗi lông gà! Anh ấy đến chơi sao mày không ra tiếp...

- Thôi cháu xin chào bác...

Rồi Trọng xoay người bước mau ra cửa.

Thật ra, lúc ấy Phượng đang ngồi khóc âm thầm trong phòng. Nàng muốn bắt Trọng chờ dăm ba phút để phạt Trọng mấy cái tội. Tội thứ nhất, 6 tháng không thèm về như đã hứa. Tội thứ hai, không về cũng chẳng thư từ suốt 4, 5 tháng. Tội thứ ba, bắt nàng chờ suốt một ngày hôm thứ bảy ở phi trường. Và tội thứ tư nặng nhất, về nhà hôm qua mà mãi đến hôm nay mới thèm đến thăm Phượng...

Nhưng Phượng không ngờ Trọng nóng tính quá, bỏ về liền. Ngồi trong phòng, Trọng nói gì, mẹ nàng nói gì nàng nghe hết. Nghe hết và lòng quặn đau nhưng không thể ra được vì tự ái. Anh ấy đòi về mình mới chịu chạy ra là thua anh ấy rồi...

Suốt ngày hôm đó, Trọng chạy xe lang thang khắp thành phố rồi cuối cùng dừng xe ở bờ biển. Trọng kiếm một nơi vắng lặng, ngồi im lìm trên cồn cát hút thuốc lá lơ đãng nhìn sóng vỗ...

Về nhà chưa tới 24 tiếng mà đã có bao nhiêu chuyện thay đổi. Trọng chợt nhớ lại truyện của anh chàng Từ Thức mà chàng nghe được lúc nhỏ...

Anh chàng này đi chơi lạc vào cõi tiên chỉ có mấy ngày, lúc trở lại trần thế, thấy cảnh vật đổi thay, hỏi một cụ già mới biết là mình đã vắng mặt mấy trăm năm, những người cũ đều đã chết cả. Trọng nghĩ cái thành phố này với mình hình như cũng vậy thôi. Mình là Từ Thức tân thời chăng, sao thấy cái gì cũng thay đổi. Từ con người cho đến cảnh vật.

Tuy hứa với mẹ Phượng là hôm khác con trở lại nhưng cho đến ngày lên đường, Trọng chẳng bao giờ trở lại thăm Phượng. Phượng không biết Trọng chỉ ở nhà có mấy ngày, vẫn nhất quyết làm reo như những ngày còn đi học. Phượng cứ nghĩ "Trước sau gì rồi anh ấy cũng trở lại đây xin lỗi mình" như ngày xưa còn đi học. Hồi đó, cơn giận của Phượng có khi kéo dài đến hai tháng.

Sáng hôm ngày lên đường, Trọng gọi cu Đán vào, cho nó 500 đồng, đưa một phong thư:

- Em đem lá thơ này đưa tận tay chị Phượng...

Lá thư đó, Trọng chỉ nguệch ngoạc vài chữ:

"Anh đi. Hôm nọ, đến thăm em mà không được gặp. Anh ra đi mà lòng áy náy vô cùng, không biết mình sẽ phải làm gì nữa. Dù sao thì cũng chúc Phượng một mùa giáng sinh vui vẻ.

Không biết chừng nào anh mới được về lại Nha Trang.

Nguyễn Văn Trọng

Tái bút: Hình như, anh nhớ, đã có một thời chúng mình yêu nhau ghê lắm phải không Phượng..."

Chỉ có vậy thôi là Trọng biến mất khỏi thành phố, lầm lũi và âm thầm như một bóng ma. Chàng tự nhủ lòng mình chắc phải lâu, lâu lắm mình mới trở lại thành phố này...

Suy nghĩ miên man về mùa giáng sinh buồn năm đó mà Trọng dắt lính về đến gần nơi đóng quân lúc nào không hay. Đang để ý quan sát hầm hố của lính tráng thì Trọng bỗng nhìn thấy cha Thanh cùng mấy em đoàn hát nhà thờ hì hục đẩy một chiếc xe bò không có... bò kéo. Trọng tãi chiếc xe hình như nặng lắm nên năm sáu người đẩy, ai nấy cũng mồ hôi mồ kê nhễ nhại.

Tới gần chút nữa, chàng thấy chiếc xe bò chất đầy đá xanh. Bánh xe sắt lún sâu xuống mặt đường đất.

Cha Thanh nói:

- Ráng lên chút nữa đi chúng con, chiều rồi, không khéo thì tối mất... A, chào anh Trọng, tưởng anh đã về rồi...

Chiếc xe bò bị chất quá trọng tải, cứ đứng yên một chỗ không thèm nhúc nhích. Một cậu thanh niên đề nghị:

- Hay mình đổ bớt đá xuống đi cha, nặng quá chắc đi không nổi.

Cha Thanh Đang chưa kịp trả lời thì đã nghe tiếng nói của đại đội trưởng trinh sát Nguyễn văn Trọng:

- Cha để chúng con giúp một tay...

Nói xong Trọng xoay người nhìn lính, chỉ tay vào chiếc xe bò, phất một cái rồi chạy tới kề vai vào thành chiếc xe bò đầu tiên. Lính của Trọng lột hết súng ống gom lại một đống cho hai người giữ, số còn lại ào tới vây kín chiếc xe, kề vai đẩy phụ.

Trọng hô to:

- Nào bây giờ tất cả nghe tôi đếm đây... Một hai ba... lên.

Chiếc xe bò nặng nề như được nhấc bổng lên khỏi mặt đất, đi tới trước, bánh xe đánh những vòng tròn đều đặn, kẻo kẹt.

Được một lần mấy chục "quới nhân" giúp đỡ bất ngờ, mặt cha Thanh tươi hẳn lên, luôn miệng nói: "Tốt quá, tốt quá, cám ơn mấy anh vô cùng..."

Trọng hỏi cha Thanh:

- Cha chở đá về xây nhà thờ mới?

Cha Thanh thở phì phò, cười:

- Không, tôi ở đây chỉ có hai tháng, làm gì có thì giờ xây nhà thờ. Cách đây mấy tuần, khi mới về đây, tôi để ý thấy một điều là làng này có nhiều người bị gãy chân và què tay...

Trọng thoáng lên một ý nghĩ đen tối: Thượng cộng đi đánh du kích bị phi pháo của ta chứ gì. Cha Thanh nói ngay:

- Không phải như anh nghĩ đâu. Lúc đầu tôi cứ tưởng vậy nên để ý tìm hiểu và một tuần sau chính tôi xém tí nữa thì bị gãy chân...

Trọng ngạc nhiên. Cha Thanh cười:

- Đơn giản lắm. Làng này có một con suối để cho người ta lấy nước và tắm giặt. Đường từ dưới suối lên đến làng là một cái dốc rất cao, rất nguy hiểm vì không điểm tựa lại trơn trợt. Bình thường muốn đi lên hay xuống phải cẩn thận lắm mới khỏi té. Trời mưa thì càng nguy hiểm hơn gấp bội phần...

Trong nhớ lại con suối nhỏ sau làng mà mình đã đi quan sát lúc nãy. Dưới cặp mắt nhà binh của Trọng, chàng chỉ quyết đoán được một điều là Việt Cộng không thể kéo pháo qua con suối được nếu không có cầu vì đứng trên nhìn xuống mà chàng đã thấy rợn người. Nếu lỡ trợt chân té xuống thì nhẹ là què tay gãy chân, nặng là có thể va đầu vào đá mất mạng như chơi. Nhưng cũng cùng một con suối đó, dưới cái nhìn của một con người có lòng từ bi bác ái thì lại thấy khác. Cha Thanh nhìn thấy sự nguy hại của dân làng.

- Vậy cha chở đá về để làm đường?

- Đúng! Tôi xin được tòa giám mục mấy xe đá, tính làm một con sạn đạo nhỏ thôi. Thật ra chẳng có gì khó, chỉ trải đá rồi đầm nó xuống là xong. Theo dự trù của tôi, làm lai rai đến lễ Noel thì phải xong con đường nhỏ này chẳng ngờ xe GMC chở đá vào đây bị mắc lầy, đành phải đổ đá xuống gần quốc lộ rồi từ từ khiêng vào.

- Sao cha không kêu dân làng ra giúp một tay?

- Mùa này đúng là mùa rẫy bái của họ, những người có sức lực đều ra đi từ lúc mờ sáng. Lúc nãy anh vào làng thấy trống trải chắc đã biết rõ...

Một ý tưởng hay thoáng qua đầu óc Trọng. Nếu mình kéo hết đại đội xuống đây thì mấy đống đá này sẽ được thanh toán trong vòng vài tiếng đồng hồ. Sau đó, nếu mỗi người một tay thì con đường sạn đạo sẽ được đắp không khó lắm...

Tối đó, Trọng tập họp đại đội lại, kể chuyện cha Thanh, chuyện con suối nhỏ và cho biết quyết định của mình cho lính nghe. Trọng kết luận:

- Anh em biết, chỉ còn vài ngày nữa là đến lễ giáng sinh. Phong tục của lễ Giáng Sinh là người ta thường tặng quà nhau. Tôi đề nghị đại đội 45 trinh sát chúng ta đắp con đường sạn đạo tặng cho dân làng buôn Thraa. Những người Thượng miền núi này từ đây sẽ có một cái nhìn khác về người lính quân đội Việt Nam Cộng Hòa...

Lính tráng vỗ tay rần lên. Chàng ngạc nhiên, không ngờ những con người ngang ngược thô lỗ, bắn giết chuyên nghiệp đang đứng trước mặt mình đây lại có những trái tim đầy lòng nhân ái như vậy. Hóa ra, ở nơi mỗi con người, dù sống trong hoàn cảnh nào đi nữa vẫn còn có một tấm lòng.

- Rồi, anh em về chuẩn bị nghĩ ngơi và canh gác. Các trung đội trưởng ở lại gặp tôi để nhận chỉ thị đặc biệt. Tan hàng.

Hàng trăm cái miệng cùng la to lên, đầy hứng khởi, vang động cả núi rừng:

- Cố gắng!

Đại đội vừa tan hàng, Trọng đang ngồi phân chia công tác và bàn định địa điểm thả quân phục kích với mấy trung đội trưởng thì toán lính tiền đồn gọi máy báo cáo phát hiện một người mặc đồ đen đang tiến gần tới chỗ đóng quân. Trọng chụp ống liên hợp nói liền: "Chỉ thị của Cọp Đen: Tuyệt đối cấm nổ súng. Tôi lập lại, tuyệt đối cấm không được nổ súng trong bất cứ trường hợp nào. Cho người ra tiếp xúc rồi báo cáo."

Chàng moi óc suy nghĩ cố tìm hiểu xem tại sao lại có người muốn tới nơi đóng quân của mình vào lúc trời gần tối như thế này.

Một lúc sau, toán phòng thủ báo cáo người mặc đồ đen là "Cha Thanh". Cha Thanh muốn gặp Trọng.

Trọng mừng rỡ nhưng hơi lo lắng. Trời gần tối, cha Thanh đột ngột lên đây ắt phải có chuyện gì đặc biệt. Chàng đứng dậy móc cây Colt.45 nhét vào bụng, chỉ một ông trung đội trưởng:

- Anh, anh về liền lập tức cho trung đội anh chuẩn bị súng ống chờ lệnh điều động của tôi. Những người còn lại ngồi đây chờ tôi, lát tôi trở lại.

Rồi Trọng ngoắc tay cho người cầm máy đi theo mình. Hai thày trò lao nhanh xuống đồi...

Trọng nhìn thấy cha Thanh mồ hôi mồ kê nhể nhại đang vác trên vai một gói gì to tướng trên vai.

- Chào cha! Cha làm con muốn đứng tim.

- Chào anh Trọng, anh phải tha lỗi cho cái tội đường đột của tôi.

Trọng ra tới ngoài tuyến phòng thủ, bắt tay cha Thanh. Ông đưa cho Trọng gói đồ: -Hồi chiều bận quá nên quên, có một ít khô nai tôi muốn đem lên tặng anh em cho kịp trước bữa cơm tối. Mà mấy anh em dùng cơm chưa, tôi sợ trễ bữa cơm tối nay nên phải vội vã như vậy.

Trọng đỡ gói đồ, thấy nặng lắm, có thể gần hai chục ký. Chàng nghĩ đến đoạn đường dài với gói đồ nặng trên vai của cha Thanh mà thấy thương cho ông vô cùng.

- Cám ơn cha, tội nghiệp cha vì chúng con mà phải cực khổ như vầy. Mà cha bày vẽ làm gì... Mời cha vào thăm "nhà" của chúng con một chút...

Trọng giữ lại một ít khô còn bao nhiêu chia đều cho 4 trung đội trưởng, nói:

- Các anh nhớ nói cho lính biết là quà của cha Thanh đấy.

Lính dọn cơm cho Trọng vào cha Thanh ngồi ăn trong lều chỉ huy. Trọng hỏi:

- Cha uống bia được không?

- Được chứ!

Trọng bỏ mấy cục nước đá vào cái ca nhôm rót đầy ly bia rồi nói:

- Mời cha làm dấu.

- Cám ơn anh.

Trong căn lều thấp bé của bộ chỉ huy đại đội, một ông tu sĩ và một ông sĩ quan quân đội ngồi ăn uống rất rất tương đắc, cười nói luôn mồm.

Cha Thanh ngạc nhiên đến độ muốn đánh rơi cả chén đũa khi nghe Trọng nói ngày mai anh em trinh sát sẽ tình nguyện xuống khiêng đá làm sạn đạo để tặng cho dân làng buôn Thraa. Cha mừng quá đến nghẹn lời, không biết nói gì, cứ luôn miệng khen: "Thế thì tốt quá, thế thì tốt quá..."

Cơm xong, Trọng rót cho Cha Thanh ly nước trà.

- Các anh hay thật. Trong rừng trong núi mà vẫn chuẩn bị được những bữa ăn tươm tất như thế này, tôi quả thật không ngờ. Cứ tưởng lính tráng ăn uống kham khổ lắm.

Trọng cười:

- Thường thì không được như vậy nhưng hôm nay đặc biệt vì chúng con đựơc đóng quân gần thành phố, phải cố gắng "sống như người văn minh một lần cho biết..."

Câu nói của Trọng làm lòng cha Thanh chùng xuống. "Sống như người văn minh một lần cho biết". Cha nghĩ đến những người tuổi trẻ Việt Nam khác cùng tuổi Trọng giờ này đang du học ở ngoại quốc, những người tuổi trẻ khác đang hút xì ke, đang biểu tình và xuống đường ở thành phố... Than ôi, thật chưa bao giờ có một thứ tuổi trẻ nào đáng thương và bị đối xử bất công bằng tuổi trẻ Việt Nam...

Thấy cha Thanh có vẻ nghĩ ngợi, Trọng lại tự nhiên nghĩ đến cuộc đời của những vị tu trì như cha Thanh. Chàng không hiểu tại sao một người tuổi trẻ... hát hay, tài cao, đang học hành ngon lành ở bên Pháp, tương lai sáng rỡ bỗng tự nhiên từ bỏ tất cả đi làm linh mục để về đây coi cái làng Thượng nghèo hèn đầy Việt Cộng này...

Cha Thanh nhìn đồng hồ có vẻ muốn từ giã rồi nghiêm nghị nhìn Trọng nói:

- Anh Trọng, tôi lên đây gặp anh vì hai lý do. Trước hết, để tặng mấy anh một mớ khô nai, thứ nhì...

Trọng chờ đợi.

- Thứ nhì là tôi có một chuyện muốn nói với anh...

Cha thanh móc trong túi ra một bức hình đưa cho Trọng coi. Trọng đỡ lấy, nhìn thấy một phi công trẻ tuổi đẹp trai đang cười toe toét dưới chân một chiếc khu trục cơ Skyraider. Giọng cha Thanh trở nên bùi ngùi:

- Đó là di ảnh của cố Trung úy phi công Trần văn Toàn, anh ruột của tôi. Anh Toàn bị bắn rơi trong một phi vụ oanh tạc tại miền cao nguyên này, lúc tôi đang học sắp trở thành linh mục...

Trọng tá hỏa mặt mày. Từ lúc sáng đến giờ, chàng tuy lễ phép với cha Thanh nhưng luôn luôn coi cha là một người thuộc "phía bên kia". Không ngờ anh ruột của cha Thanh là một phi công đã hy sinh vì tổ quốc.

- Sáng nay, lúc nói chuyện với anh, tôi là một linh mục của buôn Thraa. Bây giờ, tôi là một người Việt Nam nói chuyện với anh...

Trọng kính cẩn hai tay nâng tấm hình trả lại cho cha Thanh.

- Tôi rất qúy anh tôi. Đúng hơn, tôi phải nói từ lúc nhỏ, anh Toàn là thần tượng của tôi. Lý do chính mà tôi xin về phục vụ ở miền cao nguyên đồi núi này cũng là vì anh Toàn. Tôi muốn hiến dâng đời mình để phục vụ thiên chúa ở một chỗ mà anh tôi đã hiến dâng đời mình cho tổ quốc...

Mắt cha Thanh buồn thăm thẳm:

- Trong phúc âm, Chúa nói rằng: Không có tình yêu nào lớn bằng hy sinh mạng sống cho người mình yêu...

Cha Thanh đứng lên, chìa tay ra:

- Chỉ có vậy thôi. Truyện này tôi chưa hề nói cho ai nghe, nhưng tôi nói cho anh nghe là vì tôi qúy anh. Sáng nay lúc nói chuyện với anh, tôi thấy anh có vóc dáng và điệu bộ hiên ngang của anh Toàn...

Trọng đứng dậy theo, bắt tay cha Thanh:

- Cám ơn cha đã cho con biết chuyện anh Toàn. Sáng mai mình gặp nhau ở bìa làng...

Sáng hôm sau, mặt trời chưa mọc Trọng đã cho đại đội tập họp, cắt toán canh gát, phân chia công tác rồi dẫn quân vác... xẻng cuốc ào xuống đồi. Cha Thanh đã chờ sẵn ở dưới với một bình cà phê vĩ đại...

Vài tiếng đồng hồ sau, tất cả mấy đống đá được thanh toán sạch sẽ, đem về chất thành từng đống trên bờ suối. Trọng hỏi ý kiến của một ông trung sĩ từng là thợ nề trước khi vào lính rồi cho ông ta đứng ra chỉ huy để làm đường.

Bắt đầu từ dưới bờ suối, đá được đóng sâu vào đất lần lần đi lên.

Tiếng đập đá, tiếng gọi nhau, tiếng cười nói vang lên rộn ràng như một cái chợ. Lính vừa làm việc vừa đùa giỡn với nhau. Một đứa khiêng đá, cao hứng ong ỏng hát: "Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ... Ngồi mình trâu ta rờ sừng trâu, rồi ta bóp... dzú trâu..."

Nhiều người cười ồ lên. Cha Thanh cũng cười. Một đứa khác ca vọng cổ: "Em Lan ơi, hạnh phúc của đôi ta không phải là lầu son gác tía, mà chỉ là một túp lều tranh với hai cái hủ... vàng..."

Trọng phì cười. Hai hủ vàng thì mua được mấy trăm cái lầu son gác tía.

Lòng mọi người như tràn ngập một nỗi niềm hân hoan sung sướng vì một công việc bác ái nhỏ mọn. Trọng là người làm việc hăng nhất, đi đứng và chỉ chỏ luôn mồm. Lính tráng thấy thế, càng ra sức làm việc.

Chỉ một lát sau, dân làng buôn Thraa không biết từ đâu mò về. Họ vây quanh toán người làm việc to nhỏ nói chuyện với nhau. Tuy không hiểu được tiếng Thượng, nhưng Trọng nhìn thấy được những nỗi hân hoan trên khuôn mặt họ...

Chiều ngày hôm sau, tối trước lễ giáng sinh, công tác hoàn thành. Con đường rắn chắc, lớn và đẹp như trong một bức hoạ của miền đồng quê trong tranh. Lính khắc nguyệch ngoạc vài chữ vào một tấm biễn gỗ, đóng vào một thân cây: "Tòa GM Kontum và ĐĐ 45/TS, SĐ 23BB/QLVNCH thân tặng."

Trọng đứng nhìn con đường đá xanh bắt đầu từ dưới bờ suối chạy lên tới con đường mòn phía trên như người hoạ sĩ nhìn lại tác phẩm của mình. Lòng chàng rộn lên một niềm vui khó tả...

Tiếng tập hát của ca đoàn trong làng bỗng vẳng ra, lồng lộng trong gió:

"Đêm thánh vô cùng, giây phút tưng bừng..."

Trọng đốt một điếu thuốc, để cho lòng mình bay loãng theo tiếng hát và không hiểu tại sao, lại nhớ đến Phượng.

Nghĩ đến Phượng, lòng chàng như thắt lại. Hai năm sau ngày từ bỏ thành phố, Trọng lại trở về nhà. Lần trở về thứ nhì kể từ khi chàng đi lính...

Hai năm chiến trận của vùng rừng núi Tây Nguyên đã biến Trọng thành một thứ lính bộ binh dày dạn của chiến trường. Cọp Đen Nguyễn Văn Trọng đi đứng, ăn nói, làm cái gì cũng ngang tàng và dường như người lúc nào cũng tiết ra một thứ chất... chỉ huy.

Ngồi trong nhà, chàng nhìn thấy cảnh vật nhà mình vẫn nghèo hèn, không khí vẫn tiêu điều như ngày nào chàng ra đi nhưng lạ một điều là Trọng không còn thấy chua xót nữa. Hai năm qua, dọc ngang khắp nẻo đường quê hương, Trọng đã nhìn thấy quá nhiều gia đình sống khốn khổ nghèo hèn hơn nhà mình gấp mấy lần. Nước mình chẳng có được bao nhiêu gia đình giàu, còn đa số đều lầm than cực khổ cả.

Mẹ Trọng báo một tin động trời:

- Con Phượng sắp làm đám cưới rồi đấy con.

Trọng bình thản hỏi mẹ:

- Với ai vậy mẹ?

- Ông giáo Chương. Tao đã bảo mãi, thời buổi này mà không nhanh tay nhanh chân thì ở giá suốt đời con ạ. Tao quí con Phượng quá, tao tưởng mày với nó thế nào cũng thành thân được với nhau...

Trọng nâng ly bia uống cạn, đưa tay quẹt ngang miệng một cái:

- Con còn trẻ mà mẹ...

- Trẻ mà suốt đời cứ ở trong rừng thì làm sao mà lấy được vợ hở con?

- Mẹ cứ lo vớ vẫn...


Tuy miệng nói cứng nhưng lòng Trọng đang đứt từng khúc. Chàng ra đứng trước hiên nhà, nhìn lên trời cao và chợt nhớ đến một tấm hình poster nhập cảng. Tấm hình vẽ một cậu bé đưa hai tay ra thả con chim bay lên trời với hàng chữ: "When you love somethings, set it free. If it come back to you, it is yours. If it doesn't, it never was."

Câu văn tiếng Anh dài dòng nhưng có thể diễn nghĩa bằng một câu tục ngữ Việt Nam ngắn: "Giữ người ở, chẳng ai giữ người đi..."

Chàng tính lên xe Honda bỏ đi nhậu thì Trinh về. Em len lén nhìn mẹ rồi bảo nhỏ Trọng:

- Chị Phượng muốn gặp anh.

Trọng tái mặt, lòng dạ đau đớn bồi hồi. Gặp nhau làm gì nữa Phượng. Hết rồi. Đứa em gái tiếp luôn:

- Chị ấy... chị ấy khóc sưng cả mắt.

Trọng đứng lặng yên suy nghĩ một lúc rồi chẳng nói chẳng rằng, lừng lững bước ra đạp máy chiếc xe Honda.

Mẹ Trọng hỏi vọng ra:

- Con đi đâu thế?

Trọng trả lời thản nhiên:

- Đi uống rượu mẹ ạ, tối con về...

Chàng rồ ga chiếc xe, quay đầu bảo với em gái:

- Mày nói hộ với chị Phượng, tao không có nhà.

Chiếc xe Honda lao tới trước, tiếng động cơ gầm lên như một cơn cuồng nộ.

Trọng đang ngồi trong quán với đám bạn học cũ, uống vừa hết chai bia thứ năm thì nhìn thấy Phượng đột ngột bước vào quán. Nàng đẹp lộng lẫy như ngày nào nhưng buồn, buồn kinh khủng. Nhìn thấy Phượng, ngụm bia Trọng vừa uống xém phun cả ra ngoài. Mấy đứa bạn của Trọng chẳng lạ gì Phượng, nhìn Phượng rồi khó chịu quay mặt đi. Trọng cúi đầu, xoay xoay cái ly trong tay, tự hỏi không biết nàng đến đây để làm gì.

Phượng tới bàn Trọng, nhìn mọi người dịu dàng nói:

- Mấy anh cho phép Phượng nói chuyện riêng với anh Trọng một chút được không?

Không ai nói gì. Phượng nói tiếp, lần này giọng cương quyết hơn:

- Phựơng phải nói chuyện với anh Trọng. Mấy anh thông cảm cho Phượng.

Trọng hất đầu làm dấu. Đám bạn rời bàn đứng lên. Phượng cười ngay. Cũng nụ cười cũ, nụ cười đẹp rạng rỡ mà Trọng đã từng say đắm trong bao nhiêu năm. Phượng hỏi:

- Anh không mời Phượng ngồi sao?

Trọng tính nói "Tôi đâu dám mời vợ người ta ngồi" nhưng kềm hãm được. Dù gì đi nữa thì hai người cũng đã có thời yêu nhau. Trọng kéo cái ghế hơi xa xa:

- Mời Phượng.

Phượng kéo vạt áo dài ngồi xuống. Nàng để hai tay trên bàn, nghiêng đầu say đắm nhìn Trọng như nhìn một bức họa trác tuyệt nhất của trần gian. Mắt nàng mở to như muốn lấy hết những gì mình trông thấy. Trọng bối rối nửa như muốn tránh ánh mắt mềm dịu đầy yêu đương của nàng, nửa như muốn đón nhận nó cho bỏ những tháng ngày nhớ nhung cay đắng.

Một lúc thật lâu sau đó cũng chưa ai nói với ai lời nào. Hình như trong hoàn cảnh này, chỉ có sự yên lặng là tiếng nói hay nhất.

Rồi Trọng cắm một điếu thuốc vào môi, Phượng nhanh tay bật một que diêm cho chàng. Ánh lửa lóe lên, Trọng càng thấy Phượng đẹp lạ lùng.

Trọng ngần ngừ một giây rồi khom người tới che tay mồi lửa. Chàng thoáng ngửi được mùi nước hoa và mùi thơm da thịt dịu dàng từ người Phượng toát ra. Trọng thấy tâm thần ngây ngất. Chàng nhớ, gần mười năm trời, mình nghiện cái mùi này, không thể sống thiếu nó dù chỉ một ngày. Rồi lại nghĩ đến chuyện Phượng sắp lên xe hoa, tim chàng thắt lại.

Trọng hút một hơi thuốc, nhả khói lên trần. Phượng thổi tắt que diêm, ngồi yên ngắm Trọng hút thuốc lá. Nàng cũng nhận ra là từ lâu, mình nhớ cái hình ảnh này của Trọng.

Cả hai lại im lặng. Một lúc lâu sau, Trọng hỏi:

- Phượng sắp lấy chồng, đến đây gặp tôi không sợ thiên hạ đàm tiếu sao?

Phượng hỏi ngược lại:

- Anh khinh Phượng lắm phải không?

- Tại sao lại phải khinh?

- Anh đừng vờ vịt nữa. Vì Phượng đã phản bội anh. Anh Trọng, ngay cả Phượng còn tởm Phượng nữa, nói gì ai?

Trọng khựng người. Xưa nay Phượng nổi tiếng là một người con gái bạo dạn, ăn nói chẳng kiêng nể ai, nhưng chàng không ngờ Phượng lại bạo đến như vậy. Rồi bỗng Trọng nhìn thấy hai hàng lệ chảy dài trên mặt nàng. Giọng Phượng nhỏ lại, ấm ức:

- Anh đừng làm khổ Phượng nữa anh Trọng ạ. Anh thừa biết, dư biết, biết chắc và biết rõ rằng là trên đời này Phượng chỉ yêu mình anh mà thôi...

Trọng chớp mắt thật mau. Trái tim của con cọp đen lừng danh vùng tam biên bỗng chảy ra. Chảy mềm ra trước những lời nói gay gắt nhưng chân tình của người tình cũ. Bao nhiêu hận thù, bao nhiêu cay đắng từ mấy năm qua bỗng chìm mau xuống hết. Bất giác, Trọng đưa tay ra nắm lấy bàn tay Phượng, bàn tay mà đã gần bốn năm chàng chưa được nhìn thấy.

Phượng đưa hai tay ôm chặt lấy bàn tay của Trọng rồi cúi đầu, nói qua cơn thổn thức:

- Phượng phải lấy chồng vì Phượng đã có thai hai tháng...

Trọng chẳng có một phản ứng nào cả, cặp mắt chỉ trở nên buồn thăm thẳm:

- Với thầy Chương?

- Không phải thầy Chương đâu anh ạ, thầy Chương cao thượng, chỉ hy sinh lấy Phượng vì yêu Phượng. Chuyện này lỗi hoàn toàn của Phượng. Một tối Phượng đi ball, quá vui nên uống chút rượu với bạn bè, chẳng ngờ...

Mắt Trọng tóe lửa lên và thấy đau nhói trong tim. Tay chàng run lên từng hồi trong tay Phượng. Phượng nghẹn ngào tiếp:

- Thằng Dân con ông trưởng ty Công Chánh đó anh ạ. Sáng hôm sau, Phượng tỉnh dậy trong phòng ngủ với nó. Phượng đã trở thành đàn bà từ sau đêm hôm ấy...

Trọng rít khẻ qua hai hàm răng:

- Quân khốn nạn.

Phượng khóc lên rưng rức. Nhiều ánh mắt đổ dồn về phía hai người. Trọng ái ngại kéo ghế ngồi gần Phượng để che lấp cảnh nàng khóc. Trọng hỏi:

- Thầy Chương biết chuyện này?

Phượng gật đầu:

- Chỉ có thầy Chương và Phượng biết thôi.

Phượng nghiêng người sát vào Trọng, mân mê bàn tay chàng:

- Anh Trọng, chuyện buồn của Phượng, Phượng đã nói hết, anh có khinh Phượng không?

- Không em ạ. Lỗi không phải ở em. Lỗi ở thằng khốn nạn đã lợi dụng em.

- Anh còn yêu Phượng như ngày nào không?

Trọng gật đầu:

- Phượng hiểu lòng anh, anh yêu Phượng mãi mãi... nhưng mình đâu còn gì với nhau nữa để mà yêu với ghét Phượng.

- Anh có tha thứ cho Phượng không?

- Chuyện của Phượng, anh chẳng có quyền gì để tha thứ cũng như thắc mắc. Vì sao Phượng hỏi vậy?

Phượng nói chậm, rõ từng tiếng một:

- Nếu anh còn yêu Phượng và tha thứ cho Phượng, Phượng sẽ từ hôn với thầy Chương để chờ anh.

Trọng giật nẩy mình lên như ngồi trúng ổ kiến. Xưa nay, chàng cứ ngỡ thầy Chương may mắn lắm mới lấy được Phượng, bây giờ chàng mới đau đớn nhận ra rằng Phượng may mắn lắm mới lấy được thầy Chương...

Phượng nhìn Trọng chờ đợi. Nàng chờ đợi Trọng sẽ ôm mình trong vòng tay rồi cả hai đứa sẽ khóc đến hết nước mắt.

Nhưng trái với những gì nàng nghĩ, Trọng vẫn ngồi im bất động. Một lúc sau chàng cất giọng ôn tồn:

- Anh lính tráng cực khổ, thân mình lo còn chưa xong, chưa hề dám nghĩ đến chuyện lập gia đình.

Phượng bật khóc nho nhỏ, đau đớn:

- Phượng không cần biết! Phượng sẽ chờ. 10 năm, 20 năm, 30 năm... Phượng nói thật. Phượng từ hôn nhé anh Trọng, bây giờ vẫn còn kịp...

Trọng nhíu mày im lặng một lúc rồi dụi điếu thuốc đang hút, lắc đầu:

- Không Phượng ạ, anh nghĩ kỹ rồi, hãy coi như hai đứa mình vừa nhỡ chuyến tàu cuối.

- Chả có tàu bè gì ở đây cả. Phượng yêu anh, Phượng chỉ biết vậy.

Trọng buông tay Phượng ra, kéo ghế ngồi lui ra sau, lắc đầu chậm rãi:

- Không được Phượng ạ.

- Vì sao?

- Vì trong hoàn cảnh này chỉ có mình anh khổ. Nếu Phượng từ hôn, mọi người đều khổ, kể cả Phượng. Anh bảo đảm Phượng sẽ quên được anh trong vòng không tới một năm. Riêng anh, dù không lấy được Phượng, anh sẽ không bao giờ quên được Phượng hết. Anh sẽ yêu Phượng suốt đời. Nhưng bây giờ... Vĩnh Biệt Phượng...

Phượng ngã người ra sau, nhắm mắt lại như không thể tin được những gì mình vừa nghe. Rồi giọng nói của Trọng bỗng trở nên lạnh lùng:

- Chị... Chương, chị có 5 phút đồng hồ để rời khỏi bàn này. Tôi cho chị 5 phút đồng hồ để chuẩn bị. Đúng 5 phút.

Giọng nói Trọng sang sảng và oai vệ tựa hồ đang hô quân ào ra mặt trận. Phượng giận tái mặt lại, quắt mắt nhìn lên. Vừa tính mở miệng thì nàng khựng người lại vì thấy mặt Trọng đã chan hòa nước mắt. Đôi mắt chàng sâu thăm thẳm và buồn đến chết người. Tuy vậy, giọng nói của Trọng vẫn sang sảng qua màn lệ:

- Chị Chương, chị ngồi lâu quá như thế này không tốt. Chị biết miệng người đời mà. Một phút qua đi rồi đó, tôi nhắc lại là chị chỉ còn 4 phút nữa để chuẩn bị rời bàn...

Phượng ngần ngừ một chút rồi đứng dậy, mắt long lên, mặt tái nhợt:

- Em xin tuân lệnh trung úy, em đi. Nhưng em cũng muốn nói cho trung úy biết một điều, là trung úy chỉ là một thứ quân tử tàu... dở hơi và hết thời, trung úy chỉ là một thứ giả hình ngu si dốt nát, trung úy ngu như con bò, trung úy vụng về như con vịt, trung úy bất lực như con kiến...

Nói đến đây nàng bật khóc. Trọng co người lại, như những ngày dài chàng đã từng ngồi co người nghe pháo của địch rớt ngay trên miệng hầm ở trận Dak To.

- Chị còn 3 phút nữa, chị cứ tiếp tục, tôi đi lính chịu... pháo quen rồi...

Phượng ngưng chửi, đưa hai tay lên bưng lấy mặt. Một lúc sau, nàng bỏ tay xuống, nước mắt lưng tròng:

- Phượng còn mấy phút nữa?

- Đúng một phút.

Phượng thở dài. Yêu nhau mười năm, tưởng sẽ sống với nhau trọn đời, ai ngờ chỉ còn lại một phút đồng hồ ngắn ngủi với nhau. Phượng bỗng cúi người đưa hai tay ra ôm lấy mặt Trọng đặt một cái hôn bất ngờ lên môi chàng. Môi nàng ướt đẫm nước mắt. Trọng ú ớ không nói lên lời. Phượng giữ khuôn mặt Trọng trong hai tay mình, nhìn sâu vào đôi mắt u buồn, bùi ngùi nói:

- Anh Trọng, anh muốn vậy cũng được. Trước khi đi Phượng chỉ xin nói với anh một điều...

- Nói đi Phượng!

- Phượng sẽ còn yêu anh mãi mãi. Vĩnh biệt anh Trọng...

Rồi nàng buông tay, xoay người bước ra, thểu nảo và tuyệt vọng như một người vừa đánh mất tất cả. Trọng nhìn theo Phượng, ruột đứt ra từng khúc với từng bước chân của nàng...

Chàng biết rằng từ đây, mình sẽ không còn bao giờ yêu được người con gái nào như đã yêu Phượng.

"Vĩnh biệt Phượng, Phượng cũng nên nhớ cho rằng dù gì đi nữa thì anh vẫn mãi mãi yêu Phượng..." Trọng nói nhỏ như vậy và rót thêm bia vào ly.

Một thằng bạn của Trọng kéo ghế ngồi xuống, nhìn theo Phượng phê bình tự nhiên: "Con nhỏ này dữ như bà chằng lửa. Rồi mày coi, nó sẽ tròng cái quần sì líp vào đầu thầy Chương mà nó kéo như người ta kéo xe bò..."

Trọng nhún vai không nói gì, xoay đầu vào phía tối để che dấu hai giòng nước mắt đang chảy ràn rụa trên má...

(Còn tiếp)


Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7764

Bài gửiGửi: Fri Dec 23, 2016 8:45 pm    Tiêu đề: Đêm Thánh Vô Cùng (Phần - Hết)


Đêm Thánh Vô Cùng (Phần 4 - Hết)


Đêm Thánh Vô Cùng (Phần - Hết)

(Phú Lan sưu tầm)

Không ngờ con đường sạn đạo thành công ngoài sức tưởng tượng của Trọng. Cách đối xử của dân làng buôn Thraa với lính quốc gia bây giờ khác xa những ngày trước. Lính Trọng cũng cảm thấy thân thiện và tự nhiên hơn với những người dân trong làng. Hai bên vui vẻ chuyện trò. Lính đem đồ hộp thuốc lá ra đổi lấy thổ sản của dân làng. Không đồng ngôn ngữ nên tiếng mặc cả, tiếng cười vang lên cả một vùng. Không khí vui nhộn.

Đêm giáng sinh, ai muốn đi lễ Trọng dắt theo hết. Nhiều đứa ngoại đạo, nghe cha Thanh tập hát hay quá cũng đi theo để nghe hát.

Cha Thanh mừng rỡ lắm vì có thêm một số con chiên bất ngờ, cho làm lễ ở ngoài trời. Đèn đuốc thắp lên sáng trưng cả một vùng. Hơn một nửa số con chiên là lính của Trọng

Lễ bắt đầu, ca đoàn hát: "Hội nhạc thiên quốc đắm say nghiêng quỳ, dứt cung nhạc thấy im lặng chín tần... Khi nghe kề bên nôi hèn chúa đây, tiếng Đức Mẹ cất lên nhẹ hát mừng..."

Tiếng ca thánh thót giữa vùng trời Trường Sơn lồng lộng gió. Đứng chen lẫn với đám dân làng Thượng, Trọng kéo cao cổ áo jacket cho bớt gió, lòng dâng lên một niềm hạnh phúc không thể nào cắt nghĩa được. Một cảm giác êm đềm ấm cúng bao phủ lấy toàn thân.

Trọng cất tiếng hát theo ca đoàn: "Vừa nghe kề sát nôi hèn, tiếng Mẹ nhẹ hát êm đềm. Vừa nghe kề sát nôi hèn, êm ái giọng mẹ ru con..."

Trọng hơi tiếc vì cha Thanh giảng bài bằng tiếng Thượng, chàng chẳng hiểu gì. Nửa chừng, cha ngừng rồi tất cả dân làng cùng quay nhìn Trọng vỗ tay. Trọng và lính chẳng biết gì cũng vỗ tay theo. Mọi người cười ồ và vỗ tay to hơn nữa. Cha Thanh nói: "Tôi xin đại diện dân làng buôn Thraa cám ơn Trung Úy Trọng cùng đại đội 45 trinh sát đã làm cho chúng tôi con đường sạn đạo. Đó là một món quà ý nghĩa của quân đội vào dịp lễ Giáng sinh này. Nó sẽ trở thành một dấu tích của tình thương khó mà phai lạt được trong lòng những người dân buôn Thraa..."

Trọng lúng túng đến độ tội nghiệp để tìm cách đáp lại những lời khen tặng.

Gần cuối lễ, cha Thanh đọc: "Xin Chúa đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Để nhờ lượng từ bi chúa nâng đỡ, chúng con sẽ luôn luôn thoát khỏi mọi nguy hiểm và được yên ổn khỏi mọi biến loạn. Vì công nghiệp vô cùng của chúa Giê su Ki Tô con Thiên chúa là chúa chúng con... Amen."

Tiếng ca lại cất lên: "Cao cung lên, khúc nhạc thiên thần chúa, hòa trong làn gió, nhè nhẹ vấn vương..."

Trọng làm dấu thánh giá, lòng tràn ngập hạnh phúc. Thứ hạnh phúc tuyệt đối của trời cao, của cõi bất diệt. "Xin Chúa đoái thương cho những ngày chúng con đang sống được bình an. Để nhờ lượng từ bi chúa nâng đỡ, chúng con sẽ luôn luôn thoát khỏi mọi nguy hiểm và được yên ổn khỏi mọi biến loạn..." Đời mình nhiều biến loạn quá, tuổi trẻ Việt Nam nhiều biến loạn quá. Biến loạn của nạn cộng sản, của đao binh, của sự nghèo đói, của sự bất công, của nạn tham nhũng...

Tiếng ca tiếp tục, thánh thoát: "Ôi đê mê, lắng nghe thoang thoảng cung đàn, một đêm khuya vang, lặng trong tuyết sương... Đàn ơi, cứ rung những điệu réo rắt, hát khen con một chúa trời, người sinh xuống cõi đời, hỡi người dương thế, lặng nghe cung đàn..."

Giữa những biến loạn và khó khăn chồng chất đó, tuổi trẻ Việt Nam, người Việt Nam đã sống, vẫn sống vẫn chiến đấu và tồn tại như luôn luôn "Được thoát khỏi mọi biến loạn..."

Tiếng ca tiếp tục lồng lộng trong gió, như bay tuốt lên trời, như chôn kín lòng người vào trong một cõi hoan lạc đắm say: "Thôi hỡi trần gian, im tiếng đi mà tôn kính, chúa con sinh ra trong máng cỏ hang lừa, tuy chúa là vua muôn nước suy phục tôn kính, chúa con ra đời trong máng cỏ hang sâu..."

Bài hát dứt, mọi người im lặng từ từ tản mác. Không khí bỗng trở nên linh thiêng trầm mặc. Trọng quỳ ngay xuống đất, làm dấu cầu nguyện lần cuối. Suy nghĩ mãi, Trọng thấy mình tuy không hạnh phúc đầy đủ lắm, nhưng giữa một quê hương đầy bất hạnh và khốn cùng, chàng thấy mình quá đầy đủ, chẳng biết cầu xin gì nữa trong đêm thánh này. Cuối cùng chàng chỉ cầu: "Xin chúa cho quê hương đất nước con sớm được thanh bình..."

Trọng tính làm dấu đứng lên thì hình ảnh Phượng lại xuất hiện nhập nhòe trong tâm trí, liền cầu xin tiếp: "Xin cho Phượng của con có được bình an trong tâm hồn để sống..."

Trọng làm dấu đứng lên. Phải, được "Bình An Trong Tâm Hồn" mới là chuyện quan trọng nhất. Từ lúc có trí khôn, Trọng chưa bao giờ thấy tâm hồn mình được bình an và nhẹ nhàng như tối nay, trong đêm Thánh này...

° ° °

Bây giờ, nếu ai ghé qua miền Tây Nguyên, đến một cái làng buôn Thượng cách thành phố Kon Tum chừng 40 cây số về hướng Tây Bắc, người ta sẽ còn nhìn thấy con đường sạn đạo do đại đội 45 trinh sát của sư đoàn 23 bộ binh làm bắt đầu từ dưới suối lên...

Tấm biễn gỗ khắc "Tòa GM Kontum và ĐĐ 45/TS, SĐ 23 BB/QLVNCH thân tặng" đã bị kẻ chiến thắng gỡ xuống quăng đi mất rồi.

Người ta tưởng rằng hễ ném tấm biển đó đi là có thể xóa nhòa được "dấu tích tình thương" của quân đội Việt Nam Cộng Hòa trong lòng người dân. Người ta cũng tưởng rằng hễ cứ lăng mạ đạo quân bất hạnh đó, chà đạp nó, nhận nó xuống đáy bùn nhơ là nó sẽ trở thành dơ dáy bẫn thĩu như ý mình muốn.

Những kẻ chiến thắng đã lầm.

Dù ai có làm gì đi nữa, dân biết, trời biết, cả thế giới này biết đạo quân bất hạnh với một triệu người đã ngã gục dưới cờ không phải là một thứ lính đánh thuê tàn bạo như đã bị vu khống xuyên tạc. Ở mỗi một con người trong đạo quân đó, là một tấm lòng, một trái tim nhân ái, một đầu óc biết suy nghĩ và biết xót thương, một mối tình yêu thương gia đình, yêu thương tổ quốc vô bờ bến...

Tuyên truyền, hạ nhục, vu khống là sở trường của những người cộng sản, nhưng, tại sao 16 năm sau ngày chiến thắng, họ còn cay cú đến độ đưa ra một chương trình qui mô để hạ nhục một đạo quân đã thất trận và đàn áp thẳng tay các tôn giáo? Phải chăng, những người chiến thắng đã bắt đầu nhận ra rằng dân chúng hai miền sắp sửa đứng lên để tiêu diệt họ?

Trường Sơn Lê Xuân Nhị


Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7764

Bài gửiGửi: Tue Jan 10, 2017 2:51 pm    Tiêu đề: Nước Mỹ Trong Tôi


Nước Mỹ Trong Tôi


Nước Mỹ Trong Tôi

(Không rõ tác giả)

(Phú Lan sưu tầm)

Theo bản thống kê dân số của nước Mỹ năm 2015 hiện nay có 1,975680 người Việt đang sinh sống trên nước Mỹ. Chúng ta những ai hiện nay đang sống, học hành, làm việc hay dưỡng già ở đây, đều đã trải qua một phần đời mình trên mảnh đất này, thường gọi là “tạm dung” nhưng thực tế là vĩnh viễn.

Từ biến cố 30 tháng 4 năm 1975, những đứa trẻ sinh ra lớn lên ở đây, ngoài huyết thống ra, chúng không khác gì những đứa trẻ Mỹ. Những người trung niên còn mang theo cả một thời thơ ấu và những kỷ niệm không quên từ nơi chôn nhau cắt rốn, nhưng vẫn lăn lộn với cuộc đời trên đất khách này để mưu sinh, có người thời gian sống với quê hương ngắn ngủi hơn là ở nơi quê người.

Tiểu bang California, nơi có nhiều người Việt sinh sống nhất đã rộng lớn bằng diện tích cả nước Việt Nam, nên cũng chưa có ai trong chúng ta tự hào đã đặt chân đến hết 50 tiểu bang của nước Mỹ, cũng như không ai dám nghĩ rằng mình hiểu hết những gì về nước Mỹ, dù đây chỉ là một nơi mới lập quốc hơn 300 năm. Có người cho Mỹ là anh chàng trẻ tuổi, xốc nổi, dại khờ, nhưng cũng có người công nhận nước Mỹ là ông cụ thâm trầm thường triển khai những bước đi tính toán trước cả trăm năm.

Ðối với những người già đã đến nơi này muộn màng, nhưng cả cuộc đời còn lại coi như sống chết với nước Mỹ, thường gọi là quê hương thứ hai.

Một người Việt về thăm lại quê hương, nơi họ đã từ bỏ tất cả để ra đi, lúc đặt chân trở lại nước Mỹ, cho rằng tâm hồn lại cảm thấy an toàn và nhẹ nhàng hơn như lúc về thăm quê nhà...

Một người Việt xa quê hương đã lâu trở về Sài Gòn, có dịp vào Tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ, ông thú nhận khi nhìn những hình ảnh tổng thống hay ngoại trưởng của Hoa Kỳ, ông lại có cảm giác quen thuộc, an toàn hơn là những lúc lang thang ở Hà Nội nhìn hình lãnh tụ và quốc kỳ Cộng Sản.

Gần như chúng ta không còn lệ thuộc gì với đời sống nơi quê nhà, ngoài những tình cảm sâu đậm trong máu huyết, làm cho chúng ta gần gũi với ngôn ngữ, đời sống Việt Nam, mà chúng ta có cảm tưởng đang dần dần tách rời, cho đến một lúc nào đó trở thành xa lạ. Phải chăng vì vậy, mà đã có những đứa con ngày trước trở về, xót xa nhận ra rằng, họ đang đi, đứng trên một đất nước xa lạ, không còn là của họ nữa.

Quê hương ngày nay chỉ còn là nơi thăm viếng mà không phải là nơi để trở về. Nước Mỹ đã là nơi quen thuộc chúng ta đang sống, có gia đình, nhà cửa, công việc, bà con, bạn bè, thì làm sao chúng ta lại không có những suy nghĩ, có những câu chuyện buồn vui, hay những trăn trở về nước Mỹ. Cách đây 41 năm, chưa lúc nào, chúng ta, những người dân ở một đất nước xa xôi bên vùng trời Ðông Nam Á, cách biệt nơi này đến nửa vòng trái đất, lại có ý nghĩ rằng, một ngày kia chúng ta sẽ đến đây, sống lâu dài nơi đây, sinh con đẻ cháu nơi này, để tạo ra một nhánh người Việt lưu vong. Ðời sau, còn giữ được ngôn ngữ, phong tục hay không, lại là một điều mà nhiều người khác đang trăn trở, lo âu làm sao để duy trì, gìn giữ!

Trong cái cộng đồng gần gũi, thân mật gắn bó này, với sách vở, báo chí, truyền thông, quán xá, chợ búa, tiệm buôn, món ăn thức uống, cả cái tên vùng đất hay bảng hiệu Saigon chúng ta mang theo, đôi khi gần như quên hẳn là chúng ta đang sống trên đất Mỹ. Cả cái bữa cơm, cá mắm, canh rau, đôi đũa, chén nước mắm ớt, có khác gì ở Việt Nam. Cả cái bàn thờ nhang khói, hình ảnh tổ tiên, ông bà, cành mai, chậu lan, những cô thiếu nữ, trẻ em mặc quốc phục lên chùa ngày Tết, hồi trống, tiếng pháo Mùa Xuân làm chúng ta quên mất là chúng ta đang sống thật xa quê nhà.

Ðiều tôi muốn nói ở đây là chúng ta thường quên chúng ta đang sống trên đất Mỹ.

Ông Khổng Tử của nước Trung Hoa có ví von: “Ở chung với người thiện như vào nhà có cỏ chi lan, lâu mà mà chẳng thấy mùi thơm, tức là mình cũng đã hóa ra thơm vậy.” Một kẻ vào vườn hoa lan đầy hương thơm, lúc đầu còn nhận ra mùi hương nhưng dần dà trở thành quen thuộc, trở thành bình thường, không còn thấy hương thơm, như kẻ tiểu nhân sống với người quân tử dần dần được cảm hóa lúc nào mà không hay biết.

Nước Mỹ có nhiều hương thơm như thế mà cảm giác chúng ta bị dung hòa lúc nào không hay đến nỗi không còn cảm nhận được mùi thơm nữa. Hương thơm đó là những điều tốt lành, thấm nhập vào con người chúng ta lúc nào chúng ta cũng không biết, không hề quan tâm hay nhận ra được sự khác biệt trước và sau.

Chúng ta học hỏi được ở nước Mỹ tính bảo vệ đời sống riêng tư, tôn trọng luật pháp, sống an hòa, sự tử tế và mối tương quan giữa con người và con người trong xã hội. Ðiều này không chỉ có ông Bá Dương (1920-2008), sau khi đi New York, Las Vegas hay San Francisco về, đã tường thuật lại trong cuốn “Người Trung Quốc Xấu Xí,” mà bất cứ người Việt Nam nào khi đi du lịch nước Mỹ về cũng nhận ra. Có người thắc mắc sao lái xe trên đường vắng vào một hai giờ sáng, gặp bảng “stop” cũng phải đừng lại, sao một đứa bé phải đi tìm cái thùng rác để vứt cái giấy kẹo nhỏ chỉ bằng hai ngón tay, sao ở đây xe hơi nhiều như thế mà không nghe một tiếng còi? Trong cái không khí dễ chịu, thanh thản, an lạc người ta cảm nhận ra khi bước chân trở lại một nơi, có một chút mỉa mai, không phải là quê nhà của mình.

Chúng ta bước đi từ môi trường tử tế, trong lành của miền Nam qua giai đoạn “thống nhất” để bước đến một xã hội hỗn loạn như hôm nay, khi mà con người tốt đẹp dần dà trở thành vô cảm, lừa lọc, gian trá, đạp lên nhau mà sống, để mưu tìm một đời sống ích kỷ cho riêng mình, mà không thấy đó là bất thường, bất nhân và vô loại. Thì chúng ta, trong xã hội này, cũng theo lời ông Khổng Tử: “ Ở chung với người bất lương, như vào trong chợ cá ươn, lâu mà chẳng biết mùi hôi, vì mình cũng hóa ra hôi vậy! ” Như người mới vào chợ cá, lúc đầu còn nghe mùi hôi tanh, dần dà quen thuộc, không còn nghe mùi tanh tưởi khó chịu nữa, như người quân tử sống với kẻ tiểu nhân, dần dần đồng hóa bởi cái xấu mà mình không hay biết. Thử hỏi một viên chức trong chế độ... hiện nay, xem những chuyện cường quyền áp bức, mạng sống của người dân xuống hàng súc vật, con người chỉ biết có đồng tiền và dục vọng, tráo trở, vô đạo lý hiện nay có là điều gì làm cho con người lạ lùng, khó chịu không? Hay đó là chuyện bình thường, thấy đã quen mắt, nghe đã quen tai, đầu óc đã xơ cứng, chai đá như khứu giác của con người ở lâu trong chợ cá, còn đâu phân biệt được mùi hôi nữa...!

Ðiều cuối cùng chúng tôi muốn nói là sự may mắn đã giúp ta có cơ hội không phải chỉ cho riêng mình mà cả con cháu đời sau, tránh khỏi được kiếp oan nghiệt, ra khỏi được cái chợ cá ấy, được sống trong cái “chi lan, chi thất” cái vườn lan thơm ngát, mà qua một thời gian chúng ta không còn cảm nhận được mùi thơm nữa, nhưng trên thực tế, mùi thơm đó vẫn hiện hữu.

Nhiều kẻ hãnh tiến vẫn cho rằng nước Mỹ nợ chúng ta mà quên rằng, món nợ của chúng ta, và cả con cháu đời sau đối với nước Mỹ thật khó lòng trả nổi.

Hãy CÁM ƠN bằng cách sống thật có ý nghĩa cho đời sống.


Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7764

Bài gửiGửi: Sun Jan 22, 2017 4:15 pm    Tiêu đề: Mừng Tết Con Gà - Trà Lũ


Mừng Tết Con Gà


Mừng Tết Con Gà - Trà Lũ

(Phú Lan sưu tầm)

Năm nay, bàn tiệc của chúng tôi đầy món gà. Nào gà luộc, gà kho gừng, gà quay, gà nấu đu đủ, miến gà... Món miến gà này do chính tay cụ B.95 nấu, đúng hương vị Bắc Kỳ Hà Nội năm xưa: Trên bát miến nào tiết gà, nào tim gan gà, nào gà xé phay, nào trứng non, nào mộc nhĩ, thật là ngon quá sức.

Trong cuốn Bản Sắc Ẩm Thực của nhóm Nghiên Cứu Ẩm Thực VN xuất bản năm 2009 ở Hà Nội có nói về mâm cỗ tết 3 miền, và liệt kê các món tiêu biểu. Cỗ Bắc có 12 món: dưa hành, giò nạc, giò thủ, hành cuốn, nem, chả trứng, nộm rau cần, cá mè nướng, măng lưỡi lợn, bát mọc và bánh chưng. Cỗ Trung cũng có 12 món: dưa món củ kiệu tai heo, giò lụa Huế, thịt đông, gà bóp rau răm, nem, chả Huế và tré, heo luộc giá chua, măng khô ninh, miến Huế, ram, bánh chưng. Cỗ Nam 10 món: dưa chua củ kiệu, thịt heo luộc, thịt kho tàu, gỏi cuốn, nem, chả giò, gỏi tôm thịt, măng tươi, khổ qua nhồi thịt, bánh tét.

Trong 3 mâm cỗ ngày tết này, tôi chỉ thấy mâm cỗ miền Trung là có gà, món gà bóp rau răm. Tôi không thấy món gà trong mâm cỗ Tết miền Bắc và miền Nam. Tôi hỏi Chị Ba Biên Hòa mà chị cũng không biết tại sao. Nhưng chị hóm hỉnh chỉ vào các món ăn đang bày trên bàn rồi nói: Em dọn cỗ tết này với Bác Từ Hòe, em là người Nam và em dọn các món gà này đây, anh nghĩ sao?

Ông ODP, bồ chữ của làng, không để cho tôi trả lời Chị Ba, đã giơ tay phát biểu:

Xin cho tôi nói ngay chuyện này kẻo quên thì rất uổng: Nhờ cuốn sách Bản Sắc Ẩm Thực mà bác vừa nhắc tới, tôi mới biết cái gốc của món ‘ Cơm Tám Giò Chả’. Ai cũng nghĩ là cơm tám và giò chả xuất hiện cùng một lúc, nhưng không phải thế. Giò chả xuất hiện trước, mãi sau thì mới có cơm tám đi theo. Theo TS Nguyễn Nhã tác giả thì ông bà Nguyễn Văn Sự quen gọi là Cụ Phó Lụa, ở Hà Tây, có nghề làm giò chả rất ngon. Khoảng năm 1910, đầu thế kỷ 20, hai ông bà dọn về Hà Nội mở hàng bán giò chả ở cuối phố Hàng Buồm, rất đông khách. Khách đến chỉ ăn giò và chả mà thôi. Về sau có người góp ‎‎ý rằng nếu chỉ ăn giò chả mà thôi thì xót ruột, cụ nên bán thêm cơm. Cụ Phó Lụa cho là ‎‎ý kiến hay nên cụ đã tìm mua gạo tám xoan ở Bắc Ninh ngon có tiếng, cụ đem nấu gạo này bằng nồi đồng điếu vì nồi vừa to vừa dễ ủ nóng. Thế là từ đó khách hàng được ăn giò và chả với cơm tám nóng, ai cũng thấy ngon và khen hết lời. Khách hàng càng ngày càng đông, cụ càng cải tiến. Cụ làm thêm món dưa cải chua nữa. Ba món này đi với nhau ngon hết sức. Đó là cái gốc của cơm tám giò chả đầu tiên ở Hà Nội.

Các cụ nhớ nha: ông tổ Cơm Tám Giò Chả là Cụ Phó Lụa Nguyễn Văn Sự ở Hà Nội. Bây giờ xin mời các cụ về với bữa cơm gà tết của làng.

Ông ODP vừa ăn xong miếng gà thứ nhất thì nói ngay: Món gà này làm tôi nhớ cơm gà Hải Nam Siu Siu ở Chợ An Đông Saigon ngày xưa qúa. Ai cũng gật gù đồng ý. Mới đây nhà văn Đoàn Xuân Thu ở Melbourne đã viết một bài về nhà hàng này rất hay. Cứ nghe ông tả chủ nhân chặt thịt gà thì ta thấy như việc chặt đang xảy ra trước mắt:

... Con gà bóng mỡ nằm ngửa trên thớt. Một nhát giao chặt cái bụp trên bụng, phân hai. Rồi phập phập, hai cái đùi gà văng ra. Bốn đầu ngón tay trái chặn cái đùi gà. Rồi phập phập! Bốn ngón tay lùi tới đâu, con dao phập sát tới đó. Phập! Phập! Phập! Xong!

... Rồi xúc bằng yếm dao những miếng gà đều dặn, sắp hàng gọn ghẽ lên một chiếc đĩa trắng, rắc một chút hành lá lên trên, cùng với những chén cơm gà nóng vàng ngậy, bốc khói. Thêm 2 thứ nước chấm: một chén xì dầu có những lát ớt đỏ, và một chén gừng băm trộn dấm...

Chén cơm gà này nấu cũng công phu lắm: Gạo tám vo sạch, sau đó cho thêm một ít mỡ gà và tỏi phi thơm, rồi đổ nước luộc gà vào nấu cho tới khi hạt cơm chín săn chắc, bóng dầu, thơm phức...

Nhà văn Đoàn Xuân Thu cho biết, trước 1975, tuy chiến tranh lan tràn nhưng chủ nhân quán cơm gà Hải Nam Siu Siu này phất lên thấy rõ. Từ một cái quán nhỏ tí teo, nhờ đông khách, ông ta giầu bốc lên. Ông mua một hơi 3 căn nhà sát nhau, ông biến chúng thành một nhà hàng to lớn, gạt ra không hết khách.

Thế nhưng số ông không được hưởng. Sau 1975, con cháu Bác Hồ đã tìm cách tịch thu hết. Ông và vợ con vượt biên, tàu chưa ra tới hải phận quốc tế đã chìm, vợ con chết, chỉ mình ông sống sót. Về tới Saigon, hai tay trắng, ông như người mất trí, phải đi ăn xin, đứng ngay trước cửa nhà hàng của mình ngày xưa...

Ông ODP kể đến đây thì thấy cả làng im lặng, hình như ai cũng thương chủ nhân nhà hàng cơm gà Siu Siu, nên ông không dám kể nữa.

Ông Từ Hòe xin tiếp lời. Rằng chuyện bi thảm quá, xin bỏ chuyện ông Siu Siu. Vì vừa nghe bạn nhắc tới Bác Hồ, tôi xin kể mấy chuyện có dính tới Bác Hồ. Thứ nhất là chuyện công ty ca nhạc Asia. Những đĩa nhạc của Asia lọt về VN, CSVN giận lắm vì nội dung bao giờ cũng chống Cộng. Mấy nhạc sĩ chủ chốt như Anh Bằng. Nam Lộc, Việt Dũng thì VC ghét lắm, bao giờ chúng cũng gọi mấy vị này là ‘thằng’, như thằng Bằng, thằng Lộc, thằng Dũng. Riêng chỉ có nhạc sĩ gạo cội Trúc Hồ thì bọn chúng không bao giờ dám gọi là ‘ thằng Hồ’ vì nếu gọi là thằng Hồ thì xúc phạm tới Bác Hồ vô vàn mến yêu của chúng...

Đó là chuyện tôi nghe từ VN, còn chuyện này là chuyện trực tiếp, người cháu tôi kể. Rằng trong trại cải tạo, bao giờ VC cũng bắt lập ra một ban văn nghệ. Bữa dó quản giáo ra lệnh cho ban văn nghệ tập dượt một bài hát để đón tiếp phái đoàn trung ương sắp tới thăm trại. Thằng cháu tôi được gia nhập ban hợp ca. Bài ca sẽ hát tên là ‘Bác Hồ Thiên Thu’có 3 bè. Cháu tôi thuộc nhóm hát bè trầm. Trước ngày phái đoàn tới thì quản giáo đi kiểm tra. Khi hắn tới nghe nhóm bè trầm của cháu tôi đang tập, hắn nghe một lúc rồi nói lớn tiếng:

- Các anh nếu náo, các anh dám xỉ vả bác Hồ hả? Sao các anh dám hát: Hồ ơ, ơ hồ,ô hô ô hô, ô hồ... Các anh bảo bác Hồ tô hô hả?

Và hắn ra lệnh dẹp ban hát.

Nghe đến đây thì Cụ Chánh tiên chỉ lên tiếng: Bữa nay là cơm tết mở đầu năm mới, nói về VC như vậy đủ rồi, xin chuyển sang đề tài khác. Xin dân làng kể chuyện cười.

Thấy không ai nói gì cả, Chị Ba Biên Hòa liền xin kể 3 chuyện vui mà chị vừa đọc thấy trên báo tết.

Chuyện 1: Cô vợ đi chợ tết về, nàng hớn hở khoe với chồng: Hôm nay ông nào gặp em cũng đều khen em đẹp hết. Ông chồng trả lời ngay: Ngày tết, anh nào mà chẳng say!

Chuyện 2: Có một phóng viên hỏi một bà nhân dịp mừng lễ cưới ngân khánh: Trong 25 năm sống chung với ông, xin bà cho biết có điều gì bà cho là chung nhất. Bà vợ suy nghĩ một lúc rồi trả lời: Điểm chung duy nhất của chúng tôi là chung ngày cưới!

Chuyện 3: Hai cô bạn gặp nhau trong hội chợ tết, một cô kể: Tối qua tao mới đi ăn tại nhà ông anh họ, mừng anh sắp có đứa con đầu lòng. Tiệc vui lắm. Anh ấy tuổi con gà, anh lấy vợ cũng tuổi con gà, và sẽ đẻ con vào đúng năm con gà này, mày nghĩ như vậy có kỳ lạ không? Cô kia đáp lại ngay: Cha gà mẹ gà thì con đẻ ra cũng phải là gà chứ. Đó là lẽ đương nhiên, nếu bây giờ con đẻ ra không phải là gà, thế mới là kỳ lạ.

Cả làng đều vỗ tay khen hay. Năm con gà mà luận về gia đình họ gà như vậy quả là chí l‎ý.

Chị Ba kể xong 3 chuyện này rồi quay vào Cụ B.95 xin cụ cho nghe những chuyện gà ở Hà Nội năm xưa. Cụ bảo cụ chả có chuyện gì hay cả, chỉ nhớ rằng trước 1975 ở ngoài Bắc món gà là món qu‎‎ý lắm. Người dân nhòm ngó cái bếp của nhau. Bởi thế nếu nhà nào kiếm được một con gà để nhậu thì phải giấu hàng xóm. Luộc gà xong thì không dám dùng con dao mà chặt vì sợ tiếng dao sẽ làm hàng xóm chú ‎ý, phải dùng kéo mà cắt... Không ai dám chặt gà phầm phập như ông Siu Siu ở Saigon cả. Nghe chuyện ông Siu Siu mà lão thương con cháu của lão và dân nghèo Hà Nội năm xưa quá.

Nói đến đây xong thì Cụ nhìn anh John rồi nói: Thôi, không nói về những chuyện bi thảm thời xưa nũa, ngày tết ta hãy nói các chuyện vui. Bây giờ xin cho lão hỏi anh John về chuyện ăn thịt gà:

- Này anh John, theo người da trắng như anh thì trong con gà, chỗ nào ngon nhất?

Anh John nghe câu hỏi xong thì cười hí hí một lúc rồi chỉ vào vợ là Chị Ba Biên Hòa. Anh bảo: Nhà cháu sẽ trả lời Bác chính xác nhất vì nhà cháu cũng gặp câu hỏi như thế này khi mới lấy cháu.

Số là khi từ VN trở về Canada, cháu đưa vợ mới cưới trình diện ba má và họ hàng. Ba má cháu mở tiệc. Trong các món trên bàn ăn có món con gà quay. Vì vợ cháu là nhân vật số một trong bữa tiệc nên vợ cháu được mời cắt ăn miếng gà thứ nhất. Vợ cháu liền cắt miếng thịt trắng ở ức con gà. Mọi người vỗ tay và sau đó là đến lượt ba má cháu rồi đến cháu, rồi bạn bè.

Chị Ba kể tiếp: Mọi người ăn món gà một cách vui vẻ. Ăn xong, cháu mới hỏi mẹ anh John tức mẹ chồng cháu là theo khẩu vị của người Canada da trắng thì miếng nào trong con gà là ngon nhất. Bà cụ cười rồi trả lời: Đó là miếng ức gà mà con cắt đầu tiên. Nghe xong, tôi muốn xỉu. Tôi không tin vào cái tai mình. Tôi hỏi lại và được lặp lại: cái ức gà là chỗ ngon nhất. Tôi vừa mắc cở vừa e thẹn thưa với mẹ chồng rằng: ở VN, theo khẩu vị của người VN thì món ngon nhất nơi con gà là hai cái đùi gà, món kém ngon nhất là món ức gà vì thịt ức gà bở, tuy nạc nhưng không có hương vị gì cả. Vừa rồi con đã cắt ăn miếng ức gà là có ‎ý ‎nhường 2 cái đùi gà ngon cho mọi người.

Nghe đến đây thì cả nhà anh John phá ra cười. Hóa ra cái miệng Canada và cái miệng VN khác nhau, phải không cơ, thưa các cụ?

Chuyện này làm tôi nhớ chuyện ăn cá của tôi năm xưa. Hồi đó là cuối năm 1976, tôi mới sống ở Canada hơn một năm và đang đi rửa chén cho một nhà hàng tây. Một buổi chiều Chúa Nhật được nghỉ, tôi đang xem TV thì có tiếng chuông điện thoại. Người ở đầu giây xưng mình là một linh mục VN đang tu ở bên Đài Loan, ông hiện đang tham dự một khóa hội thảo ở Toronto. Ông cho biết ông ăn cơm tây ngán quá, ông nhớ cơm Đài Loan. Ông được chủ nhà hàng tây cho số điện thoại của tôi. Ông nhờ tôi dẫn đi ăn cơm tàu. Liền có ngay. Tôi đưa ông tới một nhà hàng Tàu có tiếng ở đây. Và ông đã kêu món cá hấp.

Khi đĩa cá nóng hổi bưng lên thì chúng tôi bắt đầu ăn. Ông ăn một cách say sưa. Ông ăn đầu cá rồi bụng cá rồi đuôi cá một cách ngon lành, và gạt 2 cái lườn cá cho tôi. Tôi thấy bối rối quá vì tôi được ăn phần ngon nhất. Ông biết tôi bối rối nên nói ngay: Xin mời anh ăn tự nhiên, tôi đang ăn phần ngon nhất của con cá chứ không có ‎ý‎ nhường cái lườn cá cho anh đâu. Tôi chưa hiểu gì cả thì ông cắt nghĩa: Theo người Tàu rành ăn thì phần ngon nhất của một con cá là cái đầu, bụng và đuôi cá. Thế là chúng tôi phá ra cười. Quả là khẩu vị khác nhau. Quả là hai văn hóa khác nhau.

Tôi đem chuyện này kể lại cho cả làng, ai cũng gật gù. Nghe xong chuyện ăn ức gà và đầu cá, cụ B.95 đòi nghe chuyện vui nữa. Ông ODP liền chỉ vào 3 bức tranh tết, tranh con gà với một bày con, tranh con heo với một bày con, tranh cô gái hứng dừa với hai đứa bé. Mấy bức này ông Từ Hòe treo ở phòng ăn cho thêm không khí tết. Ông nói: Tôi đố các bạn bức tranh nào có ‎‎ý nghĩa nhất về tết. Phe các bà tranh nhau trả lời, và ‎ý‎ thì khác nhau. Một số thì bảo năm tết con gà nên bức tranh gà mẹ với đàn con là ý nghĩa nhất, một số thì bảo tranh con heo với bày con là ý nghĩa nhất vì nó chỉ một gia đình hạnh phúc. Chả có ai bảo tranh cô gái hứng dừa có ‎ý‎ nghĩa tết cả. Phe liền ông thì không ai lên tiếng, nhà quân tử nào cũng chỉ cười tủm tỉm. Sau cùng thì ông Từ Hòe giơ tay xin nói: Tôi nghĩ rằng bức tranh cô gái hứng dừa là có ‎‎ý nghĩa nhất, ‎vì nó nói rõ cái nghĩa sung sướng. Rồi ông giải thích: Cô gái thấy anh con trai ở trên cây đã hái được mấy trái dừa thì vội vén váy lên hứng trái dừa mà anh ta sẻ thả xuống. Mặt cô gái tươi rói. Mặt anh con trai cũng tươi rói nhưng tay anh ta ra chiều bủn rủn chưa muốn thả trái dừa xuống. Tại sao ư? Vì ngày xưa phụ nữ VN mặc váy nhưng không mặc quần lót. Cô gái vén váy lên thì lộ hết rừng núi. Anh con trai bủn rủn chân tay là thế và anh muốn giây phút bủn rủn này kéo dài thêm nữa. Cô gái hứng dừa thì còn ngây thơ chưa biết gì sự đời. Cái đẹp của việc hái dừa ngày tết là thế!

Chị Ba Biên Hòa với dân làng vỗ tay cười ngất, mấy bà mấy cô thì đấm nhau thùm thụp. À ra thế.

Cụ Chánh tiên chỉ để cho dân làng cười thỏa thích rồi mới lên tiếng: Lão không thêm ‎ý gì nữa về cô gái hứng dừa, lão xin nói sang lời chúc tết. Sáng nay lúc chuẩn bị bàn thờ tổ tiên, lão thấy có người mang tới góp lễ một trái dưa hấu và trên trái dưa chỉ viết một chữ Thọ. Lão đã vội xin bác Từ Hòe đi mua thêm 2 trái dưa nữa và viết thêm 2 chữ Phúc và Lộc. Chắc có dân làng muốn chúc cho làng ai cũng sống Thọ cả. Lão thấy chỉ chúc Thọ mà thôi thì không đủ, thọ là sống lâu, nhưng nếu sống lâu mà nghèo khổ thì sống thọ làm gì! Bạn sống thọ và có tiền bạc, nhưng nếu cái tâm không hạnh phúc thì sống thọ mà làm gì. Ý lão là chúc Thọ nhưng phải có Phúc có Lộc nữa thì chữ Thọ của tuổi già mới dầy đủ hạnh phúc.

Cụ Bà B.95 liền cất tiếng: À, ra thế, xưa nay lão già này vẫn nghe người ta chúc nhau bộ ba Phúc Lộc Thọ mà không hiểu tại sao, nay mới hiểu. Xin tạ ơn Cụ Chánh tiên chỉ.

Rồi cô Tôn Nữ lên tiếng: Em đại diện phe nữ trong làng xin hỏi bác Từ Hoè một câu thôi: Trên thế giới hiện nay bác thích ai nhất?

Ông Từ Hòe trả lời ngay: Vấn đề thích là vấn đề rất cá nhân và rất chủ quan. Cô hỏi thì tôi xin thành thực trả lời như sau: Tôi thích có 2 người. Phía VN thì người mà tôi mê nhất là Luật Sư Nguyễn Văn Chức. LS Chức đã quy tiên năm vừa qua. Ông này thông thái và có tư cách. Trước 1975 ông Kỳ Ông Thiệu mời ông tham gia nội các nhiều lần mà ông đều từ chối. Ông này có nhiều tước vị lắm: luật sư, thượng ngị sĩ, quân nhân. nhà văn, mặt nào cũng nổi bật. Về mặt nhà văn ông nổi tiếng về viết phiếm. Ông lấy bút hiệu là VIP KK. Ông có viết một chuyện phiếm nói về giấc mơ mà tôi rất thích. Ông mơ thấy mình chết và được đưa tới tòa phán xét của Chúa. Bữa đó đông người chết lắm. Mở đầu phiên xử Chúa phán: Những ai đã có vợ và đã sống với vợ từ 30 năm trở lên thì hãy đứng về phía bên tay phải của ta. Nhiều người chạy sang bên phải. Chúa nhìn những người này một cách âu yếm rồi nói: Các con sống được với vợ 10 năm đã là giỏi rồi vì đã phải chịu bao nhiêu tủi nhục, thế mà các con đã sống được với vợ những 30 năm, tức là các con giỏi chịu đựng lắm, đó là một công đức lớn, vì thế các con được tha hết mọi tội khác và các con được vào thiên đàng ngay bây giờ. Mọi người thét lên sung sướng. Ông cũng hét lên một tiếng lớn. Vợ ông nằm bên cạnh nghe tiếng ông hét liền tỉnh dậy và hỏi: Tại sao anh hét? Xưa nay có thấy anh hét lớn tiếng và sung sướng như vậy bao giờ đâu!

Xin hết chuyện Cụ VIP KK nằm mơ.

Về ngoại nhân mà tôi thích thì có nhiều, nhưng hiện nay người mà tôi thích nhất là ông Anthony Bourdain. Các cụ có biết ông này là ai không cơ? Thưa là cái ông Mỹ ngồi chung bàn ăn bún chả ở Hà Nội với Tổng Thống Obama tháng 9 năm qua đó. Nhiều người cho đây là việc tình cờ. Không phải đâu, có kén chọn và sắp xếp rõ ràng đấy. Ông Bourdain này hồi còn bé là một người nghiện ngập đủ thứ, nhưng đến năm 20 tuổi vào thập niên 1980, do nghị lực, Dourdain đã chỗi dậy và quyết tâm làm lại cuộc đời. Ông đã say mê nghề nấu bếp, đã trở thành một đầu bếp, rồi bếp trưởng trứ danh, rồi viết sách nói về nấu bếp và ẩm thực, rồi trở thành người dẫn chương trình truyền hình. Cuốn sách ông viết về nấu ăn mang tên ‘ Kitchen Confidential’ (Bí mật nhà bếp), đã thành best seller. Bây giờ ông là người dẫn chương trình ‘Parts Unknown’ (Những nơi chưa biết tới), trên đài CNN, hết sức hấp dẫn. Từ việc dạy nấu ăn ông bàn sang văn hóa, con người, đất nước... Điều làm tôi ái mộ ông không phải vì ông là một đầu bếp giỏi, một tác giả nổi tiếng, một người ăn khách của CNN, mà ở chỗ ông có một cuộc đời rất trí thức nhưng bình dân, khiêm tốn, chân thực, thân ái. Ông cho biết ông có xăm trên cánh tay một hàng chữ cổ Hy lạp có nghĩa là ‘ Tôi chẳng là gì cả! ’. Chắc đó là tâm niệm cuộc đời của ông. Gíấc mơ của người Mỹ nói chung thường là giàu có và danh vọng. Năm nay ông mới 60 mà đã đạt được giấc mơ đó, nhưng ông vẫn dửng dưng, vẫn tôi chẳng là gì cả. Phục ông quá! Ngài Obama thật có mắt và có phước khi mời được ông đi VN và cùng ăn bún chả.

Năm mới kính chúc các cụ có tấm lòng như LS Nguyễn Văn Chức và ông đầu bếp Anthony Bourdain.

TRÀ LŨ


Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7764

Bài gửiGửi: Sun Mar 19, 2017 10:35 am    Tiêu đề: Cha & Con


Cha & Con


Cha & Con

(Phú Lan sưu tầm)

Hắn ra tù. Tự biết không có ma nào đến đón, đành dứt khoát bước đi. Xe Honda ôm vào giờ này không thiếu, nhưng hắn thích đi bộ. Lững thững đi hoài như người rảnh rang lắm, trời tối mịt mới đến thị xã.

"Khách sạn công viên" trước Cung thiếu nhi, khi xưa là chỗ ngủ tốt nhất của dân bụi đời. Trong một năm hắn ở tù, khu vực này đã sửa sang, trồng trọt đủ thứ hoa kiểng. Lại thêm nhiều đèn chùm đầy màu sắc, đứng xếp hàng nối dài khoe đẹp khoe sáng.

10 giờ đêm. Hắn lại quảy túi đi... Rồi cũng phát hiện ra chỗ ngủ lý tưởng. Cái thềm xi măng sát tường rào bệnh viện, có tàn cây phượng vĩ che khuất ánh đèn, giúp lại khoảng thềm tôi tối cỡ ánh sáng đèn ngủ. Hắn nghĩ: "Chỗ này chắc nhiều muỗi, nhưng ngủ rất êm không bị xe cộ ồn ào". Moi từ cái túi ra tấm vải xanh cũ bèo nhèo, có thể gọi tạm là mền, trải ra, kê túi gối đầu lên, hắn nhắm mắt. Đi bộ mệt mỏi cả ngày nên hắn ngủ rất ngon.

Gần sáng, hắn giật mình tỉnh giấc, lạnh toát với cảm giác nghĩ có con gì đó quấn quanh cổ. Hắn nằm im định thần. Sát ngực hắn là một làn hơi thở nhẹ và một trái tim ai đó đập đều nhịp, cánh tay của người ấy vòng quanh cổ hắn. Hắn lẩm bẩm:

Con mẹ nào đây?

Hắn nhè nhẹ ngồi lên, nheo mắt nhìn. Hoá ra là một thằng nhỏ chừng hơn 10 tuổi. Mặc cái áo rách bươm bày ra bộ ngực lép kẹp, đã giành muốn hết cái mền của hắn. Nó cũng thuộc dạng không nhà như hắn, đang ngáy pho pho ngon lành, chẳng hay biết thằng cha nằm kế bên đã thức giấc, đang nhìn mình chăm chăm.

Hắm dợm người đứng lên, định bỏ đi tìm chỗ khác ngủ. Nhưng nghĩ gì đó, hắn nằm trở xuống, xoay lưng về phía thằng nhỏ, đưa tay kéo lại cái mền. Hắn nhắm mắt cố dỗ giấc nhưng không tài nào ngủ lại được. Hắn ngồi dậy móc thuốc hút, chợt thấy cái mền bỏ không, trong khi thằng bé bị sương xuống lạnh, càng lúc càng co tôm lại. Hắn bất giác chửi thề, rồi kéo mền đắp lên người thằng nhỏ.

Hút hết điếu thuốc, hắn nằm xuống thiếp được một lúc, tới khi thức dậy thằng nhỏ bỏ đi mất tiêu. Hắn hốt hoảng thọc tay vào túi quần kiểm tra, số tiền vẫn còn nguyên. Hắn thở phào, xếp mền bỏ vào túi, quàng lên vai bước đi.

Cả ngày hắn đi tìm việc làm nhưng không ai mướn, đành xài thật dè xẻn từng đồng. Xong, trở lại nơi tối qua nằm ngủ.

Hắn còn hút thuốc thì thằng nhỏ lại về. Nó thò lõ mắt nhìn, trách hắn:

- Sao ông giành chỗ ngủ của tui hoài vậy?

- Chỗ nào của mầy?

- Thì đây chứ đâu?

- Vậy hả? Thôi để tao ngồi chơi một chút rồi đi, trả chỗ cho.

Thằng nhỏ thấy người đàn ông vạm vỡ nhưng có vẻ biết điều, liền tới ngồi cạnh hỏi chuyện. Bỗng nhiên hắn trút hết tâm sự với thằng nhỏ. Từ chuyện bỏ làng ra đi, đến chuyện ở tù hai lần, cả việc từng ăn ở với đàn bà lang thang và bây giờ là không tìm được việc làm.

Nghe xong, thằng nhỏ phán một câu xanh rờn:

- Dám chừng tui là con ông lắm à?

- Nói bậy! - Hắn nạt thật sự - Mầy con của ai?

- Má tui làm gái, gặp ông nào đó ở với bả. Bả có bầu thì đẻ ra tui. Bả bệnh chết rồi. Mấy năm trời tui sống với một bà già mù, dắt đi ăn xin lay lất. Rồi bả cũng chết luôn. Còn mình tui.

- Vậy mà nói là con tao?

- Biết đâu được?

- Mầy làm nghề gì mà lúc nào cũng về muộn?

- Buổi sáng tui đi khiêng cá biển, tiếp bà chủ làm khô. Buổi chiều tui đi bán thêm vé số, tới khuya mới về đây ngủ.

- Sao mầy hổng ngủ ở chỗ làm khô luôn, từ bến cảng đi tới đây xa bộn?

- Ông khờ quá! - Thằng nhỏ đập muỗi cái bộp, rồi nói tỉnh queo - Muốn kiếm được việc làm bộ dễ lắm sao, mình cù bơ cù bất ai muốn? Phải nói dóc: Nhà ở xóm Bánh Tằm, có ba má đàng hoàng, tại nghèo mới đi kiếm việc làm tiếp gia đình, tối về nhà chớ bộ.

- Mầy giỏi hơn tao - Hắn buột miệng khen, hỏi tiếp - Mầy làm đủ sống không?

- Dư! Cho ông biết tui lấy vé số bằng tiền mặt đàng hoàng. Còn tiền gởi cho ông chủ thầu cất giùm một số nữa.

- Quá xạo!

- Hổng tin thì thôi - Thằng nhỏ nằm xuống, ngáp vắn ngáp dài – Ông ngủ đây với tui cũng được, ngủ chung với ông ấm hơn.

Tự dưng hắn cảm thấy mình bị xúc phạm khi phải ngủ nhờ thằng nhỏ, dù rằng thềm xi măng là của bệnh viện. Nhưng rõ ràng thằng nhỏ oai hơn hắn ở chỗ đầy vẻ tự tin và có việc làm đủ sống. Hắn ôm túi đứng lên bỏ đi. Thằng nhỏ vòng tay ra sau ót, nhóng cổ nói:

- Dân bụi đời mà còn bày đặt tự ái.

Hắn đảo một vòng nhỏ, kết cuộc đành trở lại. Thằng nhỏ cười hi hi:

Tui nói rồi. Chỗ này là ngon lành nhất thị xã, ngủ lạng quạng tổ bảo vệ lôi về khu phố phạt tiền là chết – Nó lăn người xích qua, nhường phần cho người đàn ông nằm xuống bên cạnh, thì thào – Tôi chỉ cho ông chỗ ngủ ngon lắm.

- Ở đâu?

Trong bệnh viện. Vô ngủ ngoài hành lang người ta tưởng đâu mình đi nuôi bệnh, hổng ai thèm đuổi.

Hắn thở dài trong bóng tối:

- Sao mầy hổng vô đó ngủ, xúi tao?

- Tui ghét mùi thuốc sát trùng.

- Tao cũng vậy.

Sáng ra, thằng nhỏ lại thức sớm đi trước, hắn tiếp tục quẩn quanh với một ngày không có việc làm. Hắn không dám ăn cơm chỉ ăn bánh mì, uống một bọc trà đá, dành tiền cho những ngày sau.

Đêm nay, phố thị buồn mênh mang theo tâm trạng. Hắn bắt đầu chùn ý chí, nghĩ thầm: "Lúc mới ra tù còn ít tiền, giá cứ tìm nơi nào đó gần trại giam ở lại, lầm thuê làm mướn chắc dễ dàng hơn".

Hắn nghe sống mũi cay cay, hình như một vài giọt nước đòi rơi ra từ mắt, hắn không kiềm giữ cứ để nó tuôn trào.

Bàn tay thằng nhỏ sờ vào mắt hắn:

- Ngủ rồi hả? Ý trời, sao ông khóc, chưa kiếm được việc làm phải không?

Hắn gượng cười:

- Tao khóc hồi nào? Tại ngáp chảy nước mắt thôi.

Thằng nhỏ ra vẻ sành sỏi:

- Má tui nói bụi đời mà còn biết khóc là bụi đời lương thiện. Tui khoái ông rùi đó, ngồi dậy "hưởng xái" với tui cái bánh bao nè.

Hắn ngồi lên sượng sùng:

- Mầy sang quá.

- Ờ! Tui ăn sang lắm, hổng ăn sao đủ sức đi làm suốt ngày! – Nó ngừng lời ngoạm một miếng lớn bánh bao, rồi nói nhẹ xều – Ông chịu để tui giúp, chắc sẽ tìm được việc làm.

- Làm gì? - Hắn có vẻ không tin, thờ ơ hỏi.

- Trước tiên, ông chịu làm ba tui nghen?

Hắn lắc đầu nguầy nguậy:

- Thân tao lo chưa xong, làm sao nuôi mầy?

- Ai bắt ông nuôi tui, tui nuôi ông thì có. Tui giới thiệu với bà chủ ông là ba tui. Nếu được nhận vô làm khô cho bả, sức ông mạnh, kiếm tiền nhiều hơn tui là cái chắc.

- Làm gì?

- Khiêng cá, gỡ khô ngoài nắng, vác khô lên xe - Thằng nhỏ ngừng lời đưa tay nắm cổ tay hắn bóp bóp – Ông bụi đời mà sao hổng ốm, lại khoẻ mà còn hiền nữa chứ!

Một năm ở tù, tao lao động tốt mà - Hắn tự hào khoe, nói tiếp – Ai mới ở tù ra mà hổng hiền, có người sau khi được cải tạo thành tốt luôn, có người hiền được vài ba bữa.

- Nè! Ông nhớ việc cần thiết là: Nhà mình ở xóm Bánh Tằm, vợ ông bán bún cá, tui còn hai đứa em gái đang đi học. Mà ông có bộ đồ nào mới hơn bộ này không, ngày đầu đi xin việc phải đẹp trai, ít te tua một chút.

Hắn vỗ vỗ tay vào cái túi du lịch:

- Có, tao còn một bộ hơi mới. Mầy tên gì, sao má mầy ở xóm Bánh Tằm mà bán bún?

- Thì nói mẹ nó vậy. Tui tên Tèo nghe ba?

- Tao chịu cách xin việc của mầy, nhưng tao ghét có con lắm. Ở chỗ làm mầy kêu tao bằng ba, ngoài ra thì xưng hô như bây giờ.

- Ông cà chớn chết mẹ, người ta giúp cho mà còn làm phách - Thằng Tèo nhe răng cười hì hì – Ăn bánh bao vô khát nước quá ta.

- Tao mua cho - Hắn đứng lên đi lại quán mua hai bọc Pepsi.

Thằng Tèo nhăn mặt:

- Chưa có việc làm mà sài sang quá vậy ba?

Hắn nghiêm mặt:

- Mầy còn kêu như vậy, tao không nói chuyện đâu. Đây là tao đãi mầy, cảm ơn công giúp tao có việc làm.

- Biết đâu người ta hổng nhận thì sao?

- Thì kệ, coi như phá huề cái bánh bao với mầy.

Đêm đó hắn khó ngủ, lầm thầm nghiền ngẫm cái hoàn cảnh gia đình và địa chỉ do thằng Tèo đặt ra giúp hắn.

Vóc dáng khoẻ mạnh của hắn làm vừa mắt bà chủ. Hắn có việc làm, lương tháng kha khá, bèn bàn với thằng Tèo hùn nhau kiếm một chỗ trọ, thằng Tèo đồng ý.

Cái chỗ ở nhỏ xíu như cái hộp, ban ngày nắng nóng một ngộp thở, nhưng cũng sướng hơn ngủ ở thềm rào bệnh viện. Hơn nữa, ban ngày "cha con" nó có ở nhà đâu mà sợ nóng. Hắn và thằng Tèo có vẻ thương nhau nhiều hơn, nhưng không ai chịu bày tỏ điều đó. Nếu không phải ở chỗ làm khô mà thằng Tèo lỡ miệng kêu ba, là hắn cau mày khó chịu. Thằng Tèo không ưa cái kiểu bực bội của hắn, nên nói chuyện với hắn trống không, hổng ông hổng ba gì hết.

Hắn những tưởng cuộc sống êm trôi với công việc tanh tưởi cá biển. Nhưng sự đời thật không đơn giản, tới tháng làm thứ năm thì có chuyện xảy ra.

Sáng nay mới vác cần xé cá từ tàu lên bờ, thấy xôn xao trên nhà chủ, hắn vội đi lên.

Thằng Tèo đang bị bà chủ nắm áo. Bà ngoác cái miệng tô môi son đỏ chót gào lên:

- Nó ăn cắp bóp tiền, tui mới để đây xoay lưng đi vô, quay ra đã mất. Có mình nó đứng đây, ai vào lấy chớ?

Thằng Tèo nước mắt ngắn nước mắt dài, mũi dãi lòng thòng quẹt lấy quẹt để:

- Tui không ăn cắp đâu. Tui tốt nào giờ bà chủ biết mà?

- Nghèo mà tốt gì mày? Ba mầy hổng biết dạy con, tao tốt với cha con mầy quá, sao trả ơn vậy hả?

Hắn đứng im không thanh minh, mặc cho bà chủ xỉa xói chửi không ra gì cái thằng cha là hắn. Hắn đi lại bên thằng Tèo hỏi ngọt ngào:

- Mầy có lấy tiền của bà chủ không?

- Tui thề có trời, tui không lấy.

Một bên bà chủ sang trọng nói mất, một bên là thằng con hờ bảo không lấy. Hắn còn đang lúng túng thì hai anh công an phường tới. Mỗi lần gặp công an hắn lại nhớ tới trại giam. Hắn nghĩ thằng Tèo mới hơn mười tuổi mà phải chịu tiếng tù tội, sẽ ảnh hưởng tới tương lai sau này của thằng nhỏ không ít và hằn sâu trong ký ức nó khó nguôi quên. Như bản thân hắn đây! Có thể nó lỡ dại một lần, nhưng làm sao nỡ để nó bị bắt, khi thực bụng hắn thương nó như con.

Hắn vẹt đám người hiếu kỳ bu xung quanh, đi tới trước mắt hai anh công an thú tội:

- Tui ăn cắp tiền của bà chủ, lỡ tay đánh rơi xuống nước, chắc là trôi ra biển mất rồi.

Hắn im lặng đi theo đà đẩy của người công an, không thèm nhìn thằng Tèo đang há hốc miệng trông theo hắn. Lòng hắn nặng trĩu nhớ tới tiền án có sẵn. Nhưng rồi hắn chuyển sang niềm hy vọng: "Chắc chắn các anh công an sẽ tìm ra thủ phạm và mình được trả về".

Thằng Tèo thấy niềm thương cảm dâng lên đầy ứ ngực, nó tốc chạy theo, hai tay đưa về phía trước chới với. Giọng nó khàn đục, gào tha thiết:

- Ba ơi, ba bỏ con sao ba?

Bất giác hắn xúc động tột cùng, cảm giác thương yêu chạy dọc sống lưng làm ớn lạnh. Hắn giật phắt người, quay lại hỏi bằng giọng âu yếm:

- Con kêu ba hả Tèo?

Công an đưa hắn lên xe. Thằng Tèo chạy theo, luồn lách trong dòng xe cộ, hụp hử trong khói bụi sau xe. Nó chạy luôn tới trụ sở công an, lảng vảng đứng ngoài chờ mà không biết chờ cái gì. Không thể làm gì hơn, thằng Tèo chửi cha chửi mẹ kẻ nào ăn cắp bóp tiền của bà chủ và nó tin tưởng các chú công an sẽ bắt được thằng ăn cắp.

Khoảng nửa tiếng đồng hồ sau, thằng Tèo đang ngồi dựa lưng vào tường, nhắm mắt ngủ gà ngủ gật, thì một bàn tay ai đập mạnh vào vai. Nó giật mình dụi mắt. Bà chủ nách kẹp cái bóp, đứng ngó nó cười toe toét:

- Đi vô lãnh ba mầy ra. Cái bóp dì mang theo lúc đi tiểu, bỏ quên trong toa lét mà tưởng mất. Dì đãng trí quá.

Vậy là "ba" thằng Tèo được thả. Nó nhào tới thót lên cổ ba để ba cõng nó tưng tưng trên lưng miệng liến thoắng:

- Ba thấy chưa? Ở hiền gặp lành mà!

Bà chủ đi sát bên, đưa tặng cha con nó chút tiền với thái độ của người có lỗi. Hắn lắc đầu không nhận vì đây chỉ là sự hiểu lầm. Thằng Tèo đột ngột dùng cả hai tay giật phắt nắm tiền, nói gọn hơ:

- Con cảm ơn bà chủ. Tiền này cha con mình xài cả tháng đó ba.

Trước hành động đường đột của thằng Tèo, hắn còn biết làm gì hơn là cảm ơn bà chủ. Rồi quay sang rầy "con""

- Con thiệt mất dạy quá, chắc phải cho đi học thôi.

- Ông nói cái gì? - Thằng Tèo khom người xuống nhìn hắn hỏi gằn.

Hắn lặp lại:

- Ba nói con phải đi học để cô giáo dạy những điều hay lẽ phải mới mong lên người.

Thằng Tèo đang ngồi trên lưng đột ngột tụt xuống. Nó lặng im đi miết lên phía trước. Hắn đuổi theo nó, hỏi:

- Sao vậy? Bộ con hổng muốn đi học hả?

Không quay người lại, thằng Tèo chúm chím cười, trả lời:

- Ba hổng biết gì hết trơn, tui đang khoái chớ bộ.

Gió từ biển thổi lộng vào mát rượi. Hắn mỉm cười nhủ thầm: "Gió nhiều thật dễ thở"

Khuyết Danh


Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7764

Bài gửiGửi: Thu Apr 06, 2017 4:05 pm    Tiêu đề: Chuyện 30-4 : Vợ Chồng Điệp Viên


Chuyện 30-4 : Vợ Chồng Điệp Viên


Chuyện 30-4: Vợ Chồng Điệp Viên

(Phú Lan sưu tầm)

Học xong trung học, tôi thi vào Đại Học Sư Phạm ban Anh Văn. Trong thời gian là sinh viên tôi còn làm việc cho số 3 Bạch Đằng. Đó là cách nói gọn của phủ Đặc Ủy Trung Ương Tình Báo Việt Nam Cộng Hòa.

Tôi làm tình báo vì có máu phiêu lưu, thích chuyện mạo hiểm, sau nầy lại thêm mối thù việt cộng giết cha tôi. Ông già tôi là chủ một nhà máy xay lúa nhỏ ở vùng quê tỉnh Bạc Liêu. Vì là vùng mất an ninh nên phải đóng thuế cho việt cộng, ấy vậy mà cũng bị chúng nửa khuya đến gõ cửa đem ra đồng bắn bỏ. Cả mấy năm sau, tôi cố tâm điều tra mới biết rõ thủ phạm là một tên nằm vùng trong xóm, chỉ vì một xích mích nhỏ, hắn dẫn đồng bọn về giết người. Dĩ nhiên tôi trả thù.

Sau khi tốt nghiệp sư phạm, trong lúc chờ sự vụ lệnh, tôi lẻn về nhà trốn trong phòng không cho hàng xóm biết, đến khuya tôi đến nhà hắn, nằm sau hè chờ. Ở thôn quê không có phòng vệ sinh trong nhà, khi cần thì ra sau vườn. Qua đêm thứ hai hắn mở cửa ra đi tiểu, tôi chĩa súng vào lưng hắn.

- Đồng chí ra ngoài kia trả lời trước tổ chức về vài việc cần gấp.

Hắn sinh nghi định phản ứng, tôi giáng cho một bá súng vào đầu, hắn bất tỉnh, tôi cột chân tay hắn, cõng trên lưng, ì ạch băng đồng ra chỗ bọn chúng giết cha tôi. Tôi khai thác tận tình cho đến khi hắn thú nhận tội giết cha tôi, lúc đó tôi mới cho hắn biết sự thật. Hắn van lạy, nhưng vô ích, hình ảnh cha tôi chết oan ức, mắt vẫn mở trừng trừng khiến tôi sôi gan. Sau đó gia đình tôi bán nhà máy xay lúa, bán nhà lên Sài Gòn ở. Tốt nghiệp xong tôi được điều đi các tỉnh dạy học. Sau mỗi công tác tình báo dù thành công hay thất bại tôi lại chuyển qua tỉnh khác.

Câu chuyện bắt đâu khi tôi được giao cho việc theo dõi một cô thợ may ở ngoại ô một thành phố ven biển miền trung. Nguyên nhân là thỉnh thoảng lại có truyền đơn rải vào buổi sáng trên con đường vào thị xã. Đây là con đường mà đa số nông dân thường đem nông sản vào chợ bán. Họ chở bằng xe đạp, xe lăm hay xe bò. Sáng sớm nào cũng có cảnh sát rình ở đó nhưng chẳng thấy ai đáng tình nghi cả. Sau phải cho người nằm sát lề đường mới khám phá ra một cô gái đi xe đạp chở rau muống phía sau, dưới chân chỗ bàn đạp để mớ truyền đơn, cứ dỡ nhẹ chân là truyền đơn rơi xuống đường khó mà thấy được nhất là ở quãng đường tối.

Qua điều tra đây là cô thợ may nhà ở vùng ngoại ô, sát địa giới thành phố. Sau nhà là một vạt ruộng nhỏ trồng rau muống, mỗi sáng cô chở rau vào chợ bán sỉ cho bạn hàng rồi về ngay. Cô sống với một mẹ già hơn sáu mươi tuổi. Gọi là tiệm chứ thực sự là một bàn máy may phía trước, cách một tấm vách cót là giường ngủ của hai mẹ con vừa làm chỗ thử áo quần. Gia đình nầy mới từ một quận miền núi về hơn một năm nay. Theo báo cáo, trước đó cô là nữ sinh trung học, sau theo nghề may. Tiệm của cô khá đông khách vì cô hiền lành, vui vẻ lại lấy công rất rẻ, có lẽ đây là trạm giao liên hơn là cơ sở kinh tài của địch.

Nhiệm vụ của tôi là tìm cách tiếp cận cô để theo dõi. Tôi sẽ đóng vai một kẻ si tình cô, gặp gỡ cô mà bọn chúng không thể nghi ngờ, hoặc tốt hơn nữa sẽ được móc nối làm việc cho chúng. Một buổi sáng chủ nhật tôi chạy xe gắn máy gần đến nhà cô thì xe chết máy phải dừng lại sửa. Tôi vào tiệm xin cô miếng giẻ rồi loay hoay mở máy ra chùi, thay bu gi, tháo bình xăng con... toát mồ hôi mà xe vẫn không nổ. Tôi xin cô miếng nước uống và ngồi trước hiên nhà cô hỏi vài câu vơ vẩn rồi dẫn xe về.

Qua hôm sau tôi đem một xấp vải đến nhờ cô may cho một áo sơ mi. Lần nầy tôi được cô mời vào nhà vì tôi là khách. Thế rồi, thỉnh thoảng tôi lại nhờ cô may một thứ gì đó và tôi ngập ngừng nói là tôi làm thế để được dịp gặp cô, không gặp tôi nhớ. Cô có vẻ bất ngờ, nhưng yên lặng. Những lần sau cô lại càng giữ ý, nhưng tôi bắt gặp trên đôi mắt cô mỗi khi thấy tôi, long lanh niềm vui. Trong lúc trò chuyện tôi cho cô biết về gia đình tôi rằng ông già tôi tham gia mặt trận bị quân đội Quốc Gia hành quân bắn chết. Thỉnh thoảng tôi đi chùa nghe thuyết pháp hoặc tham gia mít ting, tôi phát ngôn bừa bãi ra người bất mãn chế độ. Sau một thời gian lạnh lùng, giữ kẽ, cô có vẻ thân thiện, vui vẻ hơn. Kẻ thù trong bóng tối đang kéo dần con mồi về phía chúng, tôi biết mình đã được để ý, nhưng chỉ đến đấy thì hầu như bế tắc, tôi không biết được những gì chúng tôi cần.

Một sáng chủ nhật, như thường lệ tôi đến thăm cô, nhưng đến nơi chỉ thấy một đống tro tàn đang bốc khói. Thì ra, không hiểu vì sao lúc khuya lửa bắt cháy, hai mẹ con chỉ kịp chạy thoát thân. Tôi khuyên nhủ nhưng cô vẫn lắc đầu lo lắng.

- Tiền mua bàn máy may, mua miếng đất em trả chưa hết nợ, còn quần áo của khách nữa, họ nói bao nhiêu phải cố mà trả. Nhưng em còn đồng nào đâu!

Tôi hứa với cô là sẽ hết lòng tìm cách giúp đỡ. Thế rồi tôi về bán chiếc xe gắn máy. Nhờ bà con chung quanh phụ giúp nhặt nhạnh những miếng tôle còn xài được, mua ít vật liệu, dựng lại căn nhà mới cũng khang trang, ngoài ra còn mua được một bàn máy may mới nữa. Chỉ trong một tuần tôi lo toan cho cô chu toàn. Từ đấy thái đọâ của cô đối với tôi thay đổi hẳn. Chúng tôi thường đưa nhau đi xem hát, ăn quà rong, đôi khi cô đến nhà trọ thăm tôi nữa. Mỗi khi đi với nhau cô thường chải chuốt, thoa chút phấn hồng trên má, trông cô đẹp hẳn ra, như lột xác từ một cô thợ may lọ lem thành một nàng tiên, nhưng đối với tôi, đi bên cô, nhất là những chỗ vắng, tôi có cảm giác rờn rợn, tưởng như mình đang đứng trước đỉnh đầu ruồi của một họng súng nào đó trong bóng tối. Vì nghề nghiệp, lúc nào tôi cũng cảnh giác, ngụy trang, dọ dẫm tìm một chỗ an toàn phía sau lưng.

Một lần cô ghé nhà trọ thăm tôi, có một bà hàng xóm biết cô là thợ may đến năn nỉ cho con gái học nghề may. Cô là học sinh thi hỏng tú tài, muốn theo nghề may để phụ giúp gia đình. Nghe tôi nói thêm vào cô ta có vẻ bằng lòng nhưng hẹn ít hôm nữa mới trả lời, có lẽ chờ quyết định của tên đầu sỏ, chỉ huy cô. Tuần sau cô đồng ý nhận học trò. Được độ ba tháng nhờ sáng ý, cô bé học nghề khá tiến bộ. Tiệm may cũng đông khách hơn trước.

Một hôm tôi gọi riêng cô bé hàng xóm qua nói chuyện.

- Em học nghềø may với chị Lan đến đâu rồi?

- Em cắt chưa vững nhưng may thì khá lắm, khách nào cũng khen đường chỉ em thẳng, mịn và đẹp.

- Có lẽ cần một máy may nữa mới phụ chị Lan kịp giao hàng cho khách.

- Em cũng nghĩ vậy nhưng không có tiền.

Tôi tâm sự với cô học trò.

- Như em biết, thầy và chị Lan yêu nhau, dự định sẽ làm đám cưới, nhưng thầy còn ngại hình như chị Lan đang yêu ai nên thầy nhờ em giúp thầy tìm hiểu chị Lan xem có ai đến thân mật chuyện trò với chị ấy không? Em sẽ chẳng làm gì cho chị ấy nghi ngờ. Thầy có cái máy nầy, sẽ giấu dưới xách tay của em, khi đến nơi, em chỉ cần mắc xách tay sau lưng chỗ ngồi của em sát vách với phòng thử áo quần. Chỉ thế thôi, đừng cho bất cứ ai biết chuyện nầy. Nếu chị Lan hay ai bắt gặp cứ bảo rằng đó là máy thu thanh, thầy sẽ chỉ em cách mở nghe đài phát thanh. Em cũng đừng cho chị ấy biết là thầy cho em mượn tiền mua máy may, sợ chị nghi ngờ, ghen tuông phiền phức.

Thế là chúng tôi nghe rõ những trao đổi, bàn bạc với nhau của bọn chúng trong phòng thử quần áo. Một bộ phận khác rình thu hình những khách hàng khả nghi và tiến hành điều tra. Chúng tôi gần như nắm vững tất cả những tên nằm vùng, cơ sở kinh tài, nơi chứa chấp những tên xâm nhập nữa, nhưng tên đầu sỏ vẫn chưa tìm ra!?

Trong nghề nầy, một chút sơ ý là chết. Như cô thợ may, bị chúng tôi theo dõi mà không hay biết. Cô với tôi như hai tay nhu đạo đang lừa nhau để vật đối thủ xuống, cô đã bị thất thế hoàn toàn, nhưng tôi chưa ra tay và chờ cô ra đòn. Có thể cô làm bộ chuyện trò, hỏi han để tìm hiểu tôi hoặc rủ tôi một chiều nào đó ra vùng quê hóng gió tâm sự... Nhưng tuyệt nhiên chuyện đó không xảy ra. Cô lúc nào cũng ít nói, dịu dàng, nhưng như thế lại càng làm tôi e ngại và thấy cô rất bản lĩnh, rất nguy hiểm. Đi bên cô tôi cố làm vẻ sung sướng, hạnh phúc nhưng thật sự tôi có cảm tưởng cô như con rắn độc, chỉ một tích tắc cô hành động là đời tôi tàn ngay. Mạng tôi đổi mạng cô thì không xứng. Thế nên tôi chẳng hứng thú gì trong vai trò nầy cả. Tôi được lịnh phải tiến xa hơn tức là phải chung đụng xác thịt để giữ chặt con mồi, nhưng tôi không làm được. Dù cô có yêu tôi thực hay giả vờ tôi cũng quyết không đụng chạm đến nơi thiêng liêng đó của người con gái. Đó là yếu điểm của một tên tình báo non tay nghề như tôi.

Mùa hè năm đó, đối phương lên phương án tấn công tỉnh. Mẻ lưới được tung ra. Chúng tôi dự định hành quân vào lúc khuya. Buổi chiều cô bé học may về báo cho tôi biết là lúc trưa có một ông sư khất thực đến trước nhà, cô Lan ra cúng dường, ông sư lầm thầm tụng kinh chúc phúc như mọi khi, nhưng lúc quay vào, thấy mặt cô tái mét, người cứ run lên bần bật...Chúng tôi đề nghị cảnh sát hành quân sớm hơn dự định. Thế là cả bọn bị tóm, kể cả chính tôi cũng bị cảnh sát đến gõ cửa, còng tay, đẩy lên xe cây.

Thường thì sau khi vở kịch đã hạ màn như thế, tôi thảnh thơi nghỉ ngơi rồi nhận công tác mới. Nhưng không hiểu sao hình ảnh cô ta vẫn nguyên vẹn trong đầu tôi. Khi cô bị bắt, bị giam giữ, lòng trắc ẩn của tôi lại nổi lên. Đàn bà, con gái, trẻ con không có chỗ trong chiến tranh, họ phải được ở hậu phương, phải được thường xuyên che chở, bảo vệ. Một cô gái vô ý vấp ngã thấy đã động lòng rồi, huống gì cô thợ may hiền lành, dịu dàng kia đang bị nhốt trong nhà giam sau những song sắt như một con thú đã bị săn bắt, chờ ngày bị đem xẻ thịt.

Tôi đã nhiều lần bí mật nhìn cô ủ rũ ngồi ở một góc phòng giam, héo úa như không có linh hồn, không còn cảm giác, suy nghĩ gì. Tương lai là chết rũ trong tù, tình yêu, hy vọng của tuổi thanh xuân coi như đã chấm hết. Đối với cô, tôi thấy thật bất nhẫn, lừa gạt một cô gái dù cô ta được điều khiển từ trong bóng tối. Và khi cảm tưởng cô không còn là kẻ thù của tôi nữa, sự cảnh giác đã được gạt bỏ, như bụi bặm trên một bức tranh đã được chùi sạch, để lộ ra hình ảnh trong sáng, dịu dàng của cô trong tâm trí tôi. Thế nên tôi đề nghị thả cô ra để cho những con mồi khác đến móc nối lại với cô.

Từ phòng giam, tôi lại được gọi lên để đối chất về sự liên hệ giữa tôi và cô. Chúng tôi xác nhận có yêu nhau nhưng chẳng biết gì về việt cộng cả và anh cảnh sát thẩm vấn (vờ) tin ngay là thật, anh hứa sẽ thả chúng tôi ra và anh bỏ đi làm giấy tờ. Tôi đến ngồi gần cô cầm lấy tay cô, cô ngước nhìn tôi và lắc đầu, có lẽ cô cho rằng lời anh thẩm vấn viên chỉ là cái bẫy, nhưng tôi cố tình cho cô hiểu tôi là người có thẩm quyền, tôi cứu cô ra vì tôi yêu cô.

- Như em đã nghe lúc nãy, anh xin bảo lãnh em và chịu trách nhiệm liên đới về những hành động của em sau nầy. Nếu em thương yêu anh thực lòng thì em hãy lánh xa những gì có thể gây nguy hiểm cho em. Em còn mẹ già phải nuôi dưỡng, rồi em sẽ lập gia đình, có con cái, sống hạnh phúc như bao người bình thường khác. Đừng dại dột nữa, không phải anh sợ bị vạ lây nhưng nếu em gặp chuyện không may anh sẽ đau khổ lắm. Anh sẽ thu xếp cho em và mẹ em vào Sài Gòn sống lẫn trong đồng bào thì sẽ không có ai quấy rầy em nữa. Chúng mình sẽ làm đám hỏi và khi nào anh vận động xin về dạy gần Sài Gòn sẽ làm đám cưới.

Cô cúi đầu yên lặng nghe, rồi cô nắm tay tôi đặt lên đùi cô, siết nhẹ. Một giọt nước mắt rơi trên tay tôi. Tôi thở phào nhẹ nhõm. Cô đã hiểu ý tôi. Cô viết cho mẹ cô một lá thư, dặn bán nhà để chuẩn bị về quê, chỉ giữ lại bàn máy may.

Sau đó chúng tôi lặng lẽ về Sài Gòn.

Nhờ bạn bè giúp đỡ, tôi tìm mua được một căn nhà nhỏ ở chợ Cây Quéo, góc đường Hoàng Hoa Thám, Ngô Tùng Châu Gia Định. Dĩ nhiên việc theo dõi cô không phải đã chấm dứt.

Công tác của chúng tôi thường được tình báo Mỹ yểm trợ. Người Mỹ rất hào phóng nhưng cũng rất nguyên tắc, họ đã vui vẻ trả lại tiền cho tôi mua lại chiếc xe gắn máy, trả cả những chi phí lặt vặt như đưa cô đi xem hát, ăn quà rong. Nhưng sau cuộc hành quân, hồ sơ coi như đã đóng. Lần nầy tôi lại bán xe, vay mượn thêm để lo cho cô mà không biết khi nào mới có tiền mua lại xe khác.

Suốt mấy tháng hè, tôi về Sài Gòn với gia đình. Buổi chiều tôi thường ghé thăm cô, có khi tôi ăn cơm tối với gia đình cô. Sau bữa ăn, bà mẹ dọn dẹp chén đĩa, còn cô thì xin phép đi tắm. Chợ Cây Quéo nằm trong một đường hẻm, sau khi tan chợ chiều, trở thành vắng lặng như ở một vùng quê. Sau nhà cô có một sân vuông nhỏ, rào kín chung quanh, tôi thích ra đấy ngồi xuống một ghế gỗ dài để chờ cô. Cô có thói quen là sau khi tắm cô không mặc nịt ngực, nên qua lần vải mỏng, đồi ngực cô thẳng đứng lên, lồ lộ như hai mụt măng tre vừa chồi lên khỏi mặt đất. Cô ngồi cạnh tôi, nghiêng đầu dùng khăn vò mái tóc cho khô, chải nhẹ cho tóc thẳng, xong cô ngửa người vuốt mái tóc về sau lưng, rồi cô nhìn tôi mỉm cười. Tôi yên lặng ngắm cô, tưởng như thấy rõ làn da mịn màng, thơm tho của thân thể cô... Sau đó chúng tôi có một thứ quà rong như chè hay trái cây để vừa ăn vừa chuyện trò đến khuya mới chia tay.

Sau kỳ nghỉ hè tôi được chuyển ra Huế dạy học, tôi viết cho cô một lá thư dài và hẹn Tết sẽ về xin làm đám hỏi. Tính cô ít nói, ngay cả thư trả lời chỉ vỏn vẹn mấy câu "Được thư anh, em khóc mấy hôm nay vì vui mừng. Cám ơn anh đã hiểu em và lời hứa của anh lần nầy em tin là thật, bằng trái tim và cả cuộc đời em"

Khoảng cuối năm đó tôi xin phép về Sài Gòn, khi đến nhà cô tôi ngạc nhiên thấy nhà đã sửa sang lại tươm tất. Cô dẫn tôi ra phía sau khoe một căn phòng vừa mới được xây thêm.

- Mẹ ngủ phòng ngoài kia, em ngủ trong nầy.

- Còn anh thì nằm dưới đất?!

Cô đỏ mặt nhưng sung sướng.

- Anh với em phòng nầy chứ.

Lễ hỏi chúng tôi diễn ra đơn giản, kín đáo. Gia đình tôi cứ tưởng tôi sẽ lập gia đình với một cô nữ sinh nào đó, không ngờ là một cô thợ may. Chẳng phải họ kỳ thị hay giai cấp gì mà theo lệ thường, thầy giáo rất dễ chọn vợ đẹp trong trường mình dạy. Nhưng khi gặp lần đầu, mọi người đều thích cô ngay. Cô vừa hiền vừa đẹp một cách thùy mị. Mẹ tôi cứ mẹ mẹ con con với cô ngọt xớt, các cô em gái tôi thì tíu tít hỏi han, trò chuyện rất thân mật khiến cô bối rối, vụng về vì cảm động. Từ đó gần như ngày nào tôi cũng đến nhà cô, đôi khi ngủ lại nữa, nhưng chúng tôi đã hứa với nhau phải giữ gìn, để dành cho ngày hôn lễ. Cô có những suy nghĩ lẩm cẩm rất đàn bà. Cô thêu những áo gối có hình quả tim, tên tôi và tên cô lồng vào nhau, hình đôi chim đang bay, rồi cô phân vân về tên của những đứa con trong tương lai. Tôi chế giễu thì cô giận, nhưng thâm tâm cô rất vui sướng với giấc mơ đơn giản đó.

Tôi bàn với cô vài tháng nữa sẽ làm đám cưới, nhưng rồi đầu năm bảy lăm miền Nam bắt đầu sụp đổ từng mảng, tất cả tan rã như bọt nước. Người ta ùn ùn chạy về phía Nam, tôi phải nấn ná lo tiêu hủy hồ sơ, phân tán mạng lưới nên vào đến Đà Nẳng lại đành quay về Huế vì miền Trung đã rơi vào tay đối phương rồi. Kẻ thù hình như chưa biết gì về tôi cả ngoài cái vỏ bọc thầy giáo trung học. Chúng bắt đầu gọi các cô thầy đến khai lý lịch và như đang sắp xếp mở cửa các trường học.

Thế rồi khoảng cuối tháng năm, năm bảy lăm, nửa khuya, chúng đến vây nhà trọ, gõ cửa, còng tay tôi dẫn ra xe. Thoạt nhìn, ngoài chiếc xe cảnh sát chở đầy bộ đội tôi còn thấy một xe mang số ẩn tế Sài Gòn, tôi biết ngay bọn chúng đã tìm ra chính xác tông tích tôi. Nhưng tại sao trung ương lại không hủy hồ sơ?

Ngồi kèm tôi là hai tên bộ đội còn trẻ mang súng AK. Phía trước, bên cạnh tài xế là một người đàn bà. Xe chạy ra khỏi cửa Thượng Tứ, qua cầu Trường Tiền đến đường Duy Tân, chiếc xe chạy trước quẹo vào ty cảnh sát (cũ), còn xe chở tôi chạy thẳng, hướng về quốc lộ. Tôi đoán chúng đưa tôi về Sài Gòn khai thác. Tôi dự định thoát thân, nhưng đến gần phía Nam tôi mới hành động. Nghĩ thế nên tôi buông thả, thiu thiu ngủ dưỡng sức.

Dọc đường xe phải ngừng ở các nút chặn, tên tài xế cũng là bộ đội trình giấy và nói gì đấy, ánh đèn loang loáng vào xe, rồi xe lại tiếp tục. Đến Quảng Ngãi trời đã rạng sáng, tôi lơ mơ mở mắt nhìn quanh. Bỗng tôi lạnh người khi nhận ra người đàn bà ngồi phía trước là cô thợ may, vợ sắp cưới của tôi. Hóa ra chúng tôi đã lầm trong điệp vụ vừa kể, tên đầu sỏ là cô ta chứ không phải gã thầy tu khất thực. Tôi cay đắng cười thầm mình thua trí một người đàn bà, cô đã ngụy trang một cách tài tình, không chỉ đánh lừa chúng tôi mà còn đánh lừa cả đến lũ chân tay của cô.

Nhớ lại những ngày chúng tôi bên nhau, tôi sượng sùng, xấu hổ với cô. Cô đã đóng một vai kịch rất xuất sắc, rất bản lĩnh, tôi vẫn chỉ là một con mồi ngây thơ. Ấy vậy mà tôi cứ tưởng tình yêu chân thành của tôi đã cảm hóa được cô. Giờ đây cô ngồi đó, lạnh như tiền. Cô đang nghĩ gì về tôi, một tên điệp viên hạng bét, ngây ngô, lãng mạng tiểu tư sản?

Xe đến Bình Định, ghé vào một quán cơm bên đường, tôi được tên bộ đội mở còng nhưng dặn "Cần gì nói tôi, giữ khoảng cách năm bước, đến gần hay xa hơn, sẽ bị bắn bỏ" Tôi được dẫn vào ngồi một bàn ở một góc quán, mấy tên bộ đội ngồi hai bên, còn cô ta thì ngồi riêng. Sau bữa ăn, lúc trả tiền cô lôi ra một xấp bạc mới tinh, rút vài tờ vất đấy, đứng dậy, không lấy tiền thối. Tôi cố tỏ ra sợ sệt và ngoan ngoãn để chúng tin, hi vọng đến chiều tối nếu cũng ăn uống như thế nầy tôi sẽ bỏ chạy rất dễ dàng và bóng đêm sẽ che chở cho tôi. Nhưng tôi đã lầm, xe chạy suốt đến sáng, đến ngã ba Hàng Xanh theo đường Bạch Đằng, rồi Chi Lăng, Ngô Tùng Châu và vào hẽm chợ Cây Quéo.

Cô vào nhà một lúc lâu mới đi ra với bà mẹ. Hai mẹ con ngồi phía trước, xe lại tiếp tục trở ra xa lộ đến Biên Hòa quẹo hướng Vũng Tàu. Tôi đoán chúng sẽ truy tôi về công tác ở Vũng Tàu, Long Hải trước đây hoặc giao cho lũ nằm vùng, nội tuyến đã bị tôi đưa đi tù, và chúng sẽ mặc sức trả thù.

Đến Vũng Tàu, ghé mua mấy ổ bánh mì thịt, xe vào một khách sạn hạng trung bình. Sau khi ăn uống, làm vệ sinh, tôi lại bị còng tay cho vào phòng riêng, phía ngoài là hai tên bộ đội canh cửa. Tôi nghe cô ta dặn hai tên gác là phải cảnh giác cao độ với tên địch nguy hiểm đó (là tôi), và cô đến ủy ban quân quản có chuyện cần, sẽ về ngay. Tôi mệt mỏi lăn ra ngủ một giấc lấy sức, dự định tối nay leo cửa sổ trốn đi. Cái còng không thành vấn đề, một cọng thép nhỏ là xong, và cọng thép đó đang nằm trong sợi dây đồng hồ mà tôi đã có được lúc tôi đòi đi tiểu ở hàng cơm ở Bình Định. Nhưng đến gần tối, sau khi được ăn một ổ bánh mì nữa, chúng lại còng cả chân tôi vào giường và hai tên bộ đội ngồi ngay trong phòng tôi, thay phiên nhau lõ đôi mắt cú vọ canh chừng tôi. Thế là hết đường trốn thoát! Nhớ lại thời gian hứa hôn chúng tôi sống bên nhau, cô đã dần dần hiểu tôi, trong sự săn sóc cô đón ý tôi rất tài. Lúc đó tôi sung sướng nghĩ rằng mình có được cô vợ toàn tâm toàn ý, bây giờ chính cái toàn tâm toàn ý kia lại hại tôi. Cô đã thấy được không sai chạy những gì tôi nghĩ trong đầu, dù chỉ vừa thoáng qua là cô đề phòng ngay.

Tối đó độ hơn mười giờ, tôi được dẫn ra xe, vẫn đủ sáu người như trước. Xe chạy loanh quanh trong thành phố một lúc rồi hướng ra Bãi Sau. Trời đêm đầy mây, lạnh kinh khủng, miền Nam chưa bao giờ lạnh như năm đó, đường vắng tanh, lờ mờ ánh đèn, tiếng sóng vỗ rì rào, buồn bã. Xe chạy đến cuối bãi thì dừng lại. Cô ra lịnh bịt mắt tôi lại.

- Đồng chí đưa tôi khẩu AK. Cứ ở đây chờ, khi nào nghe tiếng súng nổ tôi sẽ ra.

Và cô nói với bà mẹ, giọng lạnh lẽo, hàm răng rít lại.

- Mẹ phải theo con, xem con trả thù kẻ đã giết hại gia đình mình và bao nhiêu đồng chí khác nữa.

Đúng là oan oan tương báo. Tôi đã xử tội tên nằm vùng giết cha tôi ra sao, bây giờ tôi sẽ gặp y như vậy. Nhưng tôi không nhớ rõ mình đã làm gì để cô thù hận tôi đến độ giờ đây đem ra xử bắn tôi, không lẽ cô là con của tên nằm vùng kia?!

Cô lên đạn, chĩa súng vào lưng tôi, đẩy tôi đi trước. Cô đã phạm một sai lầm chết người. Cô dí súng vào lưng tôi là giúp tôi nắm được quãng cách giữa cô và tôi. Tầm vóc cô thì tôi còn lạ gì. Chỉ cần tôi quay nhanh lại là mũi súng sẽ chệch ra ngoài và với một đòn chân, tôi có thể đá gãy cổ cô hay ít ra cũng hạ gục cô trong tích tắt. Trong bóng tối thì bị bịt mắt hay không cũng mù như nhau. Tôi lần tìm cọng thép trong dây đồng hồ và bắt đầu mở khóa còng tay.

Được một quãng, khi đoán đã xa tầm nghe ngóng của mấy tên bộ đội, tôi vừa định ra đòn thì cô mở băng bịt mắt tôi.

- Anh cõng mẹ được không? Nhanh lên! Nếu có chuyện gì, anh và mẹ cứ chạy thoát đừng lo cho em. Có thuyền chờ sẵn đằng kia.

Cô ôm súng chạy phía trước, tôi cõng bà cụ men theo bờ rừng dương liễu mải miết theo cô. Độ một cây số, chúng tôi đến một thuyền nhỏ có người chờ sẵn. Thuyền được đẩy ra, nổ máy và nửa giờ sau chúng tôi ra thuyền lớn đi thẳng.

Hôm sau chúng tôi được tàu Mỹ vớt về đảo Guam.

PHẠM THÀNH CHÂU

***


Về Đầu Trang
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Truyện Ngắn, Bút Ký, Tạp Ghi... Thời gian được tính theo giờ GMT - 4 giờ
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn

    
Powered by phpBB © 2001, 2005 phpBB Group
Diễn Đàn Trung Học Duy Tân