Xin hỏi từ ngữ Phật Hoàng...
Chúng tôi đã đọc hai bài của Phan Thành Khương – Đọc thơ Xuân của Hoàng đế Trần Nhân Tông. Hai bài vừa tải lên trang web này – 28-01-2017 (tức mùng Một Tết Nguyên Đán) -, nhưng cuối bài có ghi Ninh Thuận, 30-11-2011 và 01-12-2010. Không hiểu tác giả viết lúc nào.
Trong bài Mùa xuân, lại (*) đọc thơ xuân của Hoàng đế Trần Nhân Tông, tác giả có viết: Vì thế, Trần Nhân Tông được người đời xưng tụng là Phật Hoàng (Vua Phật).
Chúng tôi không hiểu Vua Trần Nhân Tông được xưng tụng là Phật Hoàng vào thời điểm nào? trước 1975 hay sau 1975 hay mới gần đây?
Chúng tôi viết như thế là vì căn cứ vào sách Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim (1882-1953) không thấy chỗ nào ghi như vậy cả! Bộ sử nổi tiếng này và cũng là bộ sử đầu tiên viết bằng Việt ngữ được “viết từ năm 1919 và được in lại lần thứ hai năm 1928 - Imprimerie Vinh et Thành, Hà Nội. ” (Xin xem Nhà Văn Hiện Đại của Vũ Ngọc Phan (1902-1987) quyển Nhất, tr. 209 (nxb Thăng Long, SaiGon, 1959, bản in lần thứ III). Còn sách Việt Nam Sử Lược tôi đang có thì được Bộ Giáo Dục VNCH tái bản lần thứ nhất năm 1971 – 80. 000 cuốn – của nxb Trung Tâm Học Liệu.
Xuyên suốt phần viết về Nhà Trần từ trang 119 đến 189 không có chỗ nào ghi Trần Nhân Tông là Phật hoàng cả. Ngay đến mục Trần Nhân-tông – dài một trang – ngoài hai mục Việc chính-trị và Việc văn-học, sách chỉ chép ở phần cuối: “ Năm quí-tị (1293) Nhân-tông truyền ngôi cho Thái-tử tên Thuyên rồi về Thiên-trường làm Thái-thượng-hoàng. Nhân-tông trị vì được 14 năm, nhường ngôi được 13 năm, thọ 51 tuổi. ” (sđd. tr. 131).
Sau này, trong cuốn TOÀN TẬP TRẦN NHÂN TÔNG của GS Tiến sĩ Lê Mạnh Thát (sinh năm 1944) – còn gọi là Thích Trí Siêu – nxb TP/HCM năm 1999 (sách dày 585 trang; khổ 20. 5cm x 14cm) cũng chẳng thấy chỗ nào ghi Trần Nhân –tông là Phật hoàng cả!
Cả hai sách nói trên cũng không có chỗ nào gọi Ngài là HOÀNG ĐẾ cả!
Trong TOÀN TẬP TRẦN NHÂN TÔNG Lê Mạnh Thát đã dành ra gần 50 trang để viết về phần có liên quan đến Phật giáo (Chương IX: Vua Trần Nhân Tông với thiền phái Trúc Lâm) nhưng cũng chẳng có chỗ nào đề cập đến hai chữ Phật hoàng cả, chứ đừng nói chi là Phật hoàng Trần Nhân Tông! (xin xem Sđd. từ tr. 307 đến 355).
Cũng trong sách này, tác giả đã Việt dịch toàn bộ 35 bài thơ chữ Hán của Ngài, trong đó có luôn cả sáu bài mà Phan Thành Khương đã dịch (sắp theo thứ tự của Phan Thành Khương, nhưng số thứ tự các bài thơ & Việt dịch là của GS Lê Mạnh Thát):
- Bài thơ thứ 7: Cảnh Xuân (Xuân cảnh).
- Bài thơ thứ 22: Buổi sớm mùa Xuân (Xuân hiểu).
- Bài thơ thứ 30: Đề chùa thôn Hương Cổ Châu (Đề Cổ châu hương thôn tự).
Và:
- Bài thơ thứ 19: Xuân muộn (Xuân vãn)
- Bài thơ thứ 21: Ngày Xuân thăm Chiêu lăng (Xuân nhật yết Chiêu lăng)
- Bài thơ thứ 23: Trên hồ Động thiên (Động Thiên hồ thượng)
Theo GS Lê Mạnh Thát, các tác phẩm của Trần Nhân-tông gồm có:
- Thơ Trần Nhân-tông
- Phú Trần Nhân tông
- Bài giảng Trần Nhân-tông
- Ngữ lục
- Văn xuôi Trần Nhân-tông
- Văn thư ngoại giao.
Lê Mạnh Thát đã dịch toàn bộ các tác phẩm trên của Vua Trần Nhân-tông kèm theo nguyên bản của tất cả sáu tác phẩm nói trên.
Kỳ tới: Hai câu nói để đời của vị vua có lòng thương dân, Đức Trần Nhân-tông.
ĐKP (mùng 4 tháng Giêng Đinh Dậu) Jan. 31st 2017
|