Gửi: Sun Oct 05, 2014 10:08 pm Tiêu đề: Mùa Xuân Nghe Tiếng Chim Tác Giả: Võ Hồng
Nhà Văn Võ Hồng
Nhà văn Võ Hồng sinh ngày 5.5.1921 tại làng Ngân Sơn, xã An Thạch, huyện Tuy An (tỉnh Phú Yên). Năm 1939, truyện ngắn đầu tay “Mùa gặt” đã được đăng trên báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy với bút hiệu Ngân Sơn, nhưng mãi đến năm 1959 ông mới gia nhập làng văn với tác phẩm “Hoài cố nhân”. Sau 1975, nhà văn Võ Hồng giới hạn sinh hoạt văn nghệ của mình nơi địa phương Khánh Hòa, trong đề tài giáo dục và tuổi thơ. Năm 1977, ông gia nhập Hội Nhà văn VN. Hơn nửa thế kỷ cầm bút, ông đã cho ra đời 8 tiểu thuyết và truyện dài, trên 70 truyện ngắn, nhiều tập tùy bút, bút ký và 10 tập truyện, thơ viết cho thiếu nhi cùng 40 bài viết, khảo cứu, phê bình...
Cô Đạm - học trò cũ và là “người thương” luôn bên cạnh thầy giáo, nhà văn Võ Hồng trong suốt thời gian ông lâm bệnh - kể: “Từ lâu, thầy đã không thể tự chăm sóc bản thân, nhưng vẫn còn khá minh mẫn. Buổi trưa sau khi dùng bữa, thầy nói mệt, muốn được ngủ yên. Và ngủ luôn! Các con của thầy đều ở nước ngoài, đang trên đường về. Chỉ có bạn đọc và bạn văn lui tới...”.
Còn nhớ, lúc sinh thời, nhà văn Võ Hồng tự nhận mình là người nông dân, âm thầm “gieo chữ” trên cánh đồng nhân ái. Mọi người mến yêu, trân trọng ông, bởi có thể tìm thấy trên từng trang văn tấm lòng nhân hậu của một con người bình dị, chân thành với cuộc sống đầy trải nghiệm. Viết về quá khứ hay hiện tại, viết cho người lớn hay trẻ em, dù thể loại nào, nhà văn Võ Hồng đều gửi đến người đọc thông điệp, rằng: “Trong hoàn cảnh mất mát, khổ đau đến đâu, con người chúng ta vẫn có thể tìm được hạnh phúc. Miễn là chúng ta cảm thông, tôn trọng, yêu thương nhau và vì nhau trong cuộc đời”. Bởi vậy, khi đọc “Hoài cố nhân”, “Lá vẫn xanh”, “Vết hằn năm tháng”, “Trong vùng rêu im lặng”, “Lời sám hối của cha” hay “Bông hồng dâng cha”..., dẫu gặp cái buồn phảng phất hay sâu cay, tâm trạng người đọc không chùng xuống, không mất mát mà dường như bình tĩnh, thanh thản hơn.
15 năm trước, lần đầu tiên gặp Võ Hồng, nhà văn nói với tôi : “Sự sống vốn dễ rung rinh, chẳng chóng thì chày rồi cũng tới một ngày, thậm chí trong thoáng chốc, ta chỉ còn nhìn thấy người thân trong trí nhớ”. Bây giờ, vĩnh biệt nhà văn Võ Hồng, tôi có cảm giác, từ lâu, chiếc võng thời gian vẫn kẽo kẹt giữa quạnh quẽ, cô đơn!
**********
Nhà Văn Võ Hồng Và Thâm Tình Phụ Tử
Bài thơ Sau ba mươi năm viết cho các con mình, nhà văn Võ Hồng kể về ba đứa con với những vần thơ giản dị, trong trẻo.
“Đứa út vừa lên ba/ Biết mẹ qua tấm ảnh/ Miệng chỉ quen gọi cha/ Khi đói và khi lạnh/ Chị lớn chín tuổi tròn/ Đóng vai người mẹ nhỏ/ Vội vã học điều khôn/ Cửa nhà tập coi ngó/ Thằng giữa khi vào lớp/ Tên mình tưởng tên ai/ Thầy hỏi không biết đáp/ Nghe chim hơn nghe bài…”
Đến thăm ông một chiều mưa thu ở xứ trầm hương, mở cửa là một phụ nữ trên sáu mươi, cô giới thiệu mình tên Đạm, là học trò xưa, sau này thành đồng nghiệp của thầy Võ Hồng ở trường chuyên Lê Quý Đôn nổi tiếng của Nha Trang. Cô nói có chị Hằng, con gái đầu của thầy mới ở Pháp về có thể tiếp chuyện. Đã trên bốn năm nay thầy không viết gì nữa, nói cũng ít đi mà chỉ suy tư và chiêm nghiệm.
Nhân vật “Chị lớn chín tuổi tròn/ Đóng vai người mẹ nhỏ” kể lại câu chuyện của mình, với những ký ức đau buồn nhưng kết thúc lại là một giấc mơ có hậu dành cho cha, người đàn ông không chỉ thành danh trong nghiệp văn mà còn là một người cha hết lòng vì con cái.
Chuyện về những người đã mất
Ngồi trước tôi là một phụ nữ dáng cao, đứng tuổi, trông vẻ ngoài rất hiện đại và năng động với đôi mắt tinh anh và nụ cười cởi mở. Trong số ba người con của nhà văn Võ Hồng, chỉ có chị nối nghiệp văn, tuy hơi trễ bởi từ khi chị xa nhà để vào Sài Gòn trọ học, cha đã âm thầm ngăn cản không cho chị viết văn, để thì giờ học khoa học.
Chị bắt đầu câu chuyện bằng cái chết của hai người thân yêu nhất đã ám ảnh chị từ tuổi nhỏ. Năm lên bốn, chị chứng kiến cái chết của Jô, em trai kề mình.
“Jô đẹp và hiền lành, giống má nhất, bị sốt nặng và qua đời lúc mới một tuổi rưỡi. Tôi còn nhớ rất rõ hình ảnh em trong màu áo xanh dương, nằm trên bộ ván, đầu hướng ra cửa sổ, nắng chiều bao trùm người em. Tối đó em sốt cao và mọi người nhốn nháo. Rồi em chết.
Tôi ra vườn hái hoa hoàng anh lặng lẽ đặt lên linh cữu của em. Hình ảnh đó ghi khắc vào tâm hồn tôi như một cuộn phim câm, sẵn sàng hiện ra mỗi khi nhớ lại quá khứ. Ba năm sau, mẹ tôi phát bệnh trong hai năm liền và vĩnh viễn bỏ ba đứa con nhỏ mà đi.
Mới chín tuổi đã mất hai người thân yêu nhất, tôi đau đớn thấy cuộc đời quá mỏng manh và bấp bênh. Tôi không có tuổi thơ. Quanh tôi, mọi đứa trẻ khác đều có cha và mẹ, chúng vững vàng như được đi trên hai chân. Tôi chỉ còn một mình cha nên ông trở thành quý báu vô cùng.
Tôi luôn sống trong phập phồng lo âu. Những lần cha tôi về trễ, tôi thấp thỏm đợi chờ. Có những đêm ngủ nằm mơ thấy cha chết, tôi giật mình kêu ba ơi trong nước mắt rồi yên tâm ngủ lại khi nghe tiếng ba trả lời “sao giờ này mà chưa ngủ?”
Cha tôi không tục huyền vì sợ chúng tôi khổ, một hy sinh không thể nào đền đáp. Tôi rất biết ơn ông bởi càng lớn tôi càng hiểu nỗi khó khăn của người đàn ông đơn chiếc...
Thâm tình phụ tử
Chị lớn lên, có những điều không thể tâm sự cùng cha. Và cha cũng không thể đóng vai người mẹ nên ông loay hoay kiếm cách bù vào khoảng trống đó. Ông dặn chị giúp việc chỉ cho con ông nấu nướng. Ông dẫn con sang nhà nữ sĩ Tương Phố ở đường Trịnh Phong kế bên, nhờ bà dạy con mình cách ứng xử. Bà dạy chị từ dáng ngồi đến cách đi đứng, nói năng.
Cha còn phái chị thay mình đến thăm những người bạn gái để “học cử chỉ dịu dàng”. Chị cười buồn: “Do hoàn cảnh, cả ba chúng tôi đều sống ở ngoại quốc nên ông càng cô độc”.
Khi đọc lại từng trang sách của cha, chị biết ông đã trải qua những ngày tháng cô đơn thế nào. Vợ mất sớm, con đi xa, đôi lúc ông chạnh lòng và thông cảm: “Trí nhớ chúng ta vốn rất bạc bẽo. Các con lớn lên, nên vai nên vế, mỗi người có bạn bè riêng tư, có mối lo lắng và vui vẻ riêng tư... nên các con dần dần quên nghĩ đến nhau. Mối đau khổ chung của ngày mất mẹ xóa nhòa dần đi...”
Vì thế hôm nay chị lại trở về, mong cầu điều duy nhất là được chăm sóc cha. Khi làm việc, chị đem laptop xuống ngồi bên cạnh giường ông lúc ông ngủ, để lắng nghe hơi thở, để nhìn sắc mặt mà đoán sức khỏe của cha vì theo chị, “sau này dù có đánh đổi cả vũ trụ để lấy một giờ được lo lắng đỡ đần cha mình, cũng không thể nào có được. Do đó tôi trân quý vô cùng những ngày tháng được ở bên cạnh cha tôi. Ngoài tôi ra, cô Đạm là người thương ba nhất. Cô là bạn rất thân của ba hơn hai mươi năm nay”.
Ngôi nhà nhỏ số 53 Hồng Bàng, Nha Trang bây giờ trở nên ấm áp và tràn đầy tình yêu thương. Nhà văn Võ Hồng giờ đây hẳn thấy yên bình khi ở bên ông không chỉ có một mà đến hai người phụ nữ ông yêu thương.
Theo Ngân Hà (Báo SGTT)
**********
Truyện Ngắn Mùa Xuân Nghe Tiếng Chim Tác giả : Võ Hồng
Vào một buổi sáng có nắng rực rỡ, trong vườn tôi chợt vang lên tiếng một con chim lạ. Thời tiết đầu xuân và lúc đó vào chặng tám giờ.
Khu phố tôi ở tương đối yên tĩnh nên tiếng chim không bị pha lẫn vào một thứ tạp âm nào. Nó mạnh, sắc cạnh, lảnh lót. Chỉ gồm bảy tiếng "Kéc... kéc... kéc... kéc kéc... kéc kéc". Ba tiếng đầu ngắt quãng chậm rãi, trịnh trọng. Bốn tiếng sau thúc mau, nhỏ dần rồi hòa mất vào sự im lặng.
Sau chừng năm bảy phút, chim lại cất lên một tràng bảy tiếng như vậy nữa. Nhưng lần này chim không còn ở vị trí cũ, nó đã di chuyển cách đó khoảng năm sáu thước. Tôi đi lại cửa sổ, đưa mắt nhìn ra vườn, chăm chú nhìn nơi xuất phát tiếng chim nhưng tuyệt nhiên không thấy nó đứng nơi nào. Tôi đã hy vọng nhìn thấy một con chim thứ hai đứng cạnh nó nữa, vì tiếng "kéc kéc" kia có thể là tiếng gọi của con chim trống. Con chim mái thường chỉ trả lời bằng một tiếng nhỏ, ngắn, tương đương với tiếng người "em đây" "em đứng đây" hoặc "em biết rồi, gọi hoài"... ". Những con chim cưỡng lượn giữa cây keo mổ trái thường đối thoại với nhau như vậy. Chim trống líu lo từng tràng tiếng hót dài và chim mái hiền thục chỉ trả lời một đôi tiếng nhỏ.
Khu vườn của tôi thật quá nhỏ để được gọi là vườn. Nó chỉ gồm vài cây ổi, mươi cây mãng cầu, một số cây dừa, ô ma, bụi trúc... do vậy mà sự viếng thăm của chim mới gây nhiều xúc động nơi tôi. Không có trái chín vào mùa này, vậy khoảng thời gian im lặng giữa hai tràng tiếng "kéc... kéc" tự nhiên được hiểu là thời gian chim sục sạo tìm sâu. Còn có sinh hoạt nào khác hơn? Và căn cứ theo loại tiếng kêu gióng giả của nó, tôi hình dung thân nó chỉ lớn bằng con chim sâu, bằng nửa quả trứng gà. Sinh ra và lớn lên ở miền nông thôn Phú Yên, tôi chưa bao giờ nghe đồng bào quê tôi nói chim hót mà chỉ nói chim kêu. Khi được đi học, đọc trong cuốn sách tập đọc đầu tiên câu "Chim hót véo von" thấy ngay chim hót diễn tả tâm trạng của chim đúng hơn, hay hơn chim kêu. Đứng trên cành hay bay trên cao, trong nắng vui và giữa gió mát, thả từng tràng líu lo, say mê không dứt... đó là tiếng hát, tiếng hót: họa mi hót, sơn ca hót. Còn khắc khoải những tiếng ngắn rời rạc, gióng giả mới là tiếng kêu: cuốc kêu, bìm bịp kêu... Và khi đã cố gắng phân biệt hót và kêu, tôi lúng túng không biết ràng tiếng "kéc... kéc" là tiếng kêu hay tiếng hót. Đa phần, đó là tiếng mô tả niềm vui, nhưng một chút đặc tính gì đó của âm thanh khiến tôi không thể loại bỏ tính chất gọi kêu của nó.
Thật viễn vông! Đứng nhìn ra vườn mà phân tích tiếng chim! Và dẫu chăm chú nhìn chỉ một khu cây lá nhỏ mà vẫn không tìm thấy được nó. Chỉ nghe tiếng hót di chuyển: thoạt đầu ở tàng cây dừa nơi ranh rào. Sau đó di chuyển về mấy cây mãng cầu ở dọc bờ tường. Sau một khoảng im lặng hơi lâu, tiếng chim chợt nổi lên, bất ngờ, ở mãi cuối vườn nơi những cây ổi. Rồi chuyển sang cây ô ma sang cây khế. Sang mấy giàn nho xum xuê bên khóm Trịnh Phong. Và cuối cùng là một tràng tiếng rất nhỏ nghe văng vẳng ở mãi tận cuối đường. Rồi mất tăm.
Cứ mỗi mùa xuân như vậy, có chừng ba lần con chim trở về với tôi. Nó trở thành quen thuộc. Năm đầu tôi không mong đợi vì chim trời cá nước, dưới đôi cánh bay, cây lá thiếu chi. Vút một cái đã vượt hàng trăm thước thì con đường nhỏ này, khu vườn nhỏ này đâu có được ghi chú trên hành trình? Không có trái chín đặc biệt quyến rũ, không có cảnh trí đặc biệt gợi nhớ. Thành ra mỗi khi chim bay vút mất tăm hơi là tôi coi như vĩnh viễn giã từ. Bắt chước người xưa mà nói: Thiên tái nhất thì! Ngàn năm một thưở. Vậy mà bất ngờ, sau đó tiếng chim trở lại. Rồi trở lại lần nữa. Trung bình ba bốn lần trong ba tháng mùa xuân.
Nhớ có một kỳ trời động kéo dài, tôi đang bị tiết trời đổi thay mà nhức đầu sổ mũi. Đang nằm trong giường chợt nghe tiếng "kéc... kéc". Cố gắng ngồi dậy như để đáp ứng tiếng kêu, nhưng sợ ra cửa gió lùa, bệnh có thể nặng thêm. Thôi, cứ nằm. Tiếng "kéc... kéc" lại trỗi lên giục giã. Kệ, cứ trì chí. Nhưng sang nhịp "kéc... kéc" thứ tư thì không cưỡng lại được. Phải trùm khăn đứng dậy núp sau rèm cửa sổ nhìn ra. Vẫn chỉ là khu vườn lá xanh trong gió lao xao, với ánh nắng chảy từ lá này rót sang lá khác.
Một tiếng chim trung thành thủy chung như vậy, nhất định là tôi phải tìm hỏi cho biết tên. Chọn hỏi những người có dính dáng đến nông thôn, càng có phong cách quê mùa càng tin tưởng hơn. Nhưng lạ, không ai có một hiểu biết đích xác. Chừng như ai cũng có nghe mà không chú ý lắm. Họ đưa ra tên này... tên này... rồi tự cải chính lấy. Chẳng hạn: "Tiếng con chim chăn vịt đó mà... Chiều chiều đến giờ lùa vịt là nó kêu. Ở đồng gò Dài thiếu gì... Uở, mà con này kêu buổi sáng". Đó, cứ cái kiểu hăng hái mở đầu rồi rụt rè thụt lùi như vậy đó. Một anh bạn gốc Huế nói ngoài anh người ta kêu là con chim lò rèn, vì tiếng nó giống nhịp đập của búa nơi lò rèn. Lại có dịp để suy nghĩ về những cái tên, về những số phận. Con chim sống giữa nông thôn thì lãnh một cái tên bình dân: lò rèn. Thì cũng như con của chính mình, cứ thoải mái đặt tên con Lượm, thằng Chút, con Mót, con Mừng...
Một ông bạn nghe tôi mô tả tiếng chim liền nói: "Người Pháp đặt tên nó là chim mồ côi (l orphelin) vì tiếng kêu buồn khắc khoải gồm bảy âm rời mà họ diễn ra là tiếng kêu than: "Cha, mẹ, anh, chị, chết cả rồi" (père, mère, frères, soeurs, tout est perdu).
Ít khi tôi có được những giây phút thích thú thanh thản như khi nghe câu chuyện. Tưởng tượng một tâm hồn lãng mạn lắng nghe tiếng chim rồi diễn ra lời than thở. Trí óc sử dụng hằng ngày thường hướng đến cái lợi, mấy ai an lạc vô ưu đem trí óc ra nghĩ chuyện vẩn vơ -Chim mồ côi-, cái tên rất gợi hình gợi cảm, nhưng dường như không thật đúng với con chim của tôi. Tiếng "kéc... kéc" không có giọng bi thương của kẻ mồ côi. Giọng của kẻ thất bại than thân thì giống hơn. Chẳng hạn than: "Tiền, của, danh vọng, tình yêu, tiêu tan mây khói".
Nhớ có lần được biết tên hoa lẻ bạn, nay biết thêm tên chim mồ côi. Con người cô đơn cậy hoa mượn chim gánh bớt nỗi sầu, chia sớt lòng buồn. Bình thường lúc nhỏ người ta mê chim, lớn tuổi người ta yêu hoa. Kỷ niệm xa nhất của tôi về chim là hồi bảy, tám tuổi, theo bác tôi đi ra ruộng vào mùa gặt tháng tám. Những người lực điền cầm vòng hái cắt thân lúa soàn soạt. Đến giữa đám lúa, một ông lực điền vừa hươ vòng hái thì chợt phát hiện một cái ổ cò bện quấy quá bằng những thân lúa. Bắt được ba cò con, thấy tôi đứng trên bờ, ông đem cho một. Tôi đem về nuôi, bón cho ăn những mảnh cá xé nhỏ. Nhưng nuôi được ba ngày thì nó chết. Đào đất chôn, tôi vừa khóc. Nhiều đứa nhỏ không bị rủi ro như tôi, người lớn thường cho một con chim chào mào, một con quành quạch, vừa mổ trái mảnh bát vừa nhảy nhót trong lồng. Chỉ khi tự ý leo bắt ổ chim mới chụp nhằm những con chim con mép mỏ viền vàng, lông lưa thưa và cái bụng lặc lè kéo đi không nổi. Dại đem về nuôi, vài ngày nằm chết. Chừng như đứa bé nhà quê nào cũng ít nhất một lần, cầm xác chim con mà khóc...
Một hôm tôi hỏi ông công chức hưu trí ở trước nhà - Ông hay làm thơ Đường luật- hy vọng gặp một người tri âm:
- Hôm qua bác có để ý nghe tiếng kéc... kéc của một con chim lạ, hay ghé lại xóm mình?
Ông ngẩn ngơ, vừa lắc đầu:
- Đâu? Có con chim nào đâu?
Một bữa sau tôi lại hỏi một anh bạn ở đầu phố Nguyễn Thiện Thuật, nơi mà con chim nhất định đã đậu lại cất tiếng kéc... kéc trên bước đường vân dụ Nơi này có nhiều cây phi lao và cây xà cừ cổ thụ um tùm. Nhưng anh lại cũng ngơ ngác hỏi lại:
- Có con chim kêu tiếng vậy hả?
Vậy là tôi cô đơn. Trong việc thưởng thức tiếng chim, không ngờ mà cũng phải Bá Nha-Tử Kỳ nữa!
Câu chuyện về một con chim trời chưa thấy rõ hình dung, chưa biết đích danh tính, tưởng như vậy đã đủ rồi. Nào ngờ chị bạn xa cách ngót mười năm, chợt bất ngờ ghé thăm. Chị vừa từ một thành phố xa về dự lễ an táng mẹ. Giữa câu chuyện bùi ngùi, giọng chị chợt ngập ngừng:
- Lúc đắp mộ cho mẹ mình xong thì vừa nắng tắt. Buổi chiều nơi nghĩa trang thật buồn. Mọi người đang âm thầm đau xót vì sắp phải từ giã mẹ thì chợt có con chim kêu kéc... kéc... kéc... kéc một tràng dài.
Có lẽ tôi đã giật mình, nhưng phản xạ nhẹ quá bạn tôi chắc không nhận ra và chính tôi cũng chỉ cảm thấy mơ hồ. tôi hỏi:
- Có thấy con chim không?
- Không.
- Có biết người ta kêu tên con chim đó là gì không?
- Không. Không nghe ai kêu.
"Khéo chọn chỗ để trình bày giọng hát", tôi thầm nghĩ. Nhưng rồi chợt nghĩ thêm: ""Nhưng còn nơi nào thích hợp hơn để cất giọng mồ côi?".
Một năm sau, ngẫu nhiên mà tôi phải nằm điều trị dài ngày ở Bệnh viện Chợ Rẫy. Bất ngờ chưa, một buổi sáng nghe tiếng kéc... kéc... kéc ở một khu rừng cây gần đó. Buổi chạng vạng lại kéc... kéc... kéc. Trong cảnh cô đơn và u buồn vì bệnh hoạn, tiếng chim quen thuộc như từ Nha Trang xa cách đi theo tôi để làm bạn, để an ủi mỗi ngày. Tôi lại có dịp để phát hiện một sự thật thô thiển mà cuộc sống vội vã và hời hợt không cho tôi nghĩ tới: Phải tìm đến đồng vắng, rừng xa mới thưởng thức được tiếng chim.
Không phải như hoa đứng im một chỗ đợi bước chân người, chim ngang dọc vẫy vùng, chim gặp người chớ đâu chỉ người tìm lối gặp chim? Chỉ trong ngôi vườn khi tôi còn nhỏ mà tôi đã gặp biết bao chim, những vị khách vô tình tự do đến rồi đi. Bầy két ồn ào, ăn khế thả rơi lộp độp. Con cu cườm đậu ở đọt tre cao, gáy chậm chậm, giọng nghiêm và buồn. Con chim chìa vôi ưa đứng nơi thềm giếng, cái đuôi ngúc ngoắc không ngừng. Con bói cá đậu sát bờ sông, im lìm như đang say ngủ. Con chim sâu nho nhỏ nhảy chuyền thoăn thoắt giữa bụi tre, miệng kêu chạch chạch. Bầy dồng dộc treo một dãy ổ đong đưa. Bầy sẻ thường túc trực nơi sân, tiếng cánh vù khi có nong lúa phơi và tiếng ríu rít lao xao khi chạng vạng tối nơi lùm cây mận.
Với đóa hoa nhu mì gần gũi, người mở sách tra chữ và đặt tên. Còn với chim trời, chỉ nhìn thấy dáng xa xa, lại gần thì bay mất: nên thường dựa theo tiếng kêu mà đặt cho một cái tên quấy quá, lấy có: cồng cộc, bồ chao, chèo bẻo, bìm bịp... Cả đến tên bắt cô trói cột. Chỉ với những con chim quý, cưng dưỡng trong lồng mới tầm chương trích cú: hồng yến, hoàng anh...
Mà nghĩ cho cùng, chính nhờ xa cách mà chim tăng vẻ đẹp. Một đàn cò trắng bay trong ráng chiều. Một bầy vịt trời bay về phương Nam. Những cánh hải âu vượt trên sóng nước. Nếu đem đặt gần, nhìn kỹ, e rằng nét mỹ lệ giảm nhiều.
Nhớ có lần tôi dạy học, học trò đem tới lớp một con hải âu. Tôi đặt nó đứng trên bàn, tay vuốt ve cái ức, cái lưng. Màu lông trắng, dáng thon đẹp. nhưng nhìn cái mỏ thô bạo, đôi chân vạm vỡ, tôi không thích. Nó cứ đứng ủ rủ nhìn xuống lớp đông một cách sợ sệt. Vừa lúc đó có một học sinh cầm lên một cái thẩu nhỏ đựng đầy nước, trong đó có bốn, năm con cá rô bơi lội. Hôm nay giờ Khoa học, học về lớp Cá. Cái thẩu vừa đặt lên bàn cạnh tôi thì, có thể tường tượng được không, nhanh như chớp, con chim hải âu thò cổ tới, xớt một con cá, nuốt gọn. Vừa hùng hục xông tới nữa. Tôi lật đật kéo lui ra xạ Nhìn đôi mắt rực sáng, nét mặt tỉnh táo, cái đầu quay qua quay lại một cách sốt ruột, cái mình rướn tới... nghĩ đến con cá mới nhởn nhơ bơi lội, tôi gọi người học sinh lên trả lại con hải âu.
Hãy nhìn từ xa, dẫu là những con chim. Cảm tạ con chim "kéc... kéc" của tôi, cho đến giờ này vẫn chưa cho gặp mặt. Mồ côi hay thất bại, tôi còn hơn chim nữa. Không cả mồ côi cha mẹ, tôi còn mồ côi cả ngôi nhà thơ ấu, khu vườn xanh tươi, bến sông heo hút và những ngõ xóm quanh cọ Trong chiến tranh, nhà tôi bị bom đạn tàn rụi, nhớ quê hương, nhớ bà con làng xóm mà không dám về thăm. Nhiều hôm ngồi nhớ, nước mắt âm thầm. Trong trí nhớ, ngôi nhà, khu vườn hiện lên rõ ràng như trải ra trước mắt. Nhưng nếu về thăm thì cảnh còn trong trí nhớ sẽ vĩnh viễn mất luôn.
Ngày xưa đó, cứ chạng vạng tối, có một con chim đậu ở nóc nhà thả ra từng tràng tiếng "chóc... chóc... chóc... chóc... chóc chóc chóc". Nhanh hơn mà dịu dàng hơn tiếng chim kéc kéc mồ côi. Chú tôi kêu là con chim đáp muỗi. Xin các nhà thông thái đừng sửa đáp thành đớp. Chắc chắn đến tám mươi phần trăm là con chim đó đi tìm muỗi ăn vào giấc hoàng hôn. Nhưng cái hình ảnh đớp đó thô bạo quá cho một con chim và cho tâm hồn trẻ thơ của tôi lúc đó, tôi còn giữ mãi, nguyên vẹn cho đến bây giờ. Bây giờ, thỉnh thoảng có những buổi chiều ngồi nhớ nhà là nhớ hình dáng và tiếng con chim đáp muỗi.
(Nguồn Net)
Gửi: Thu Oct 16, 2014 5:53 pm Tiêu đề: Con Suối Mùa Xuân
Truyện Ngắn Con Suối Mùa Xuân Tác giả : Võ Hồng
Thế là tôi đã mất Mỹ Khuệ Thật dễ dàng như khi tôi được nàng. Tình yêu đến và đi không có báo trước, không giống như những chuyến máy bay chở hành khách có ghi rõ nhật kỳ, ghi giờ hạ cánh và cất cánh. Chúng tôi bắt đầu yêu nhau một cách tình cờ. Hôm đó nàng bế cháu nhỏ con của người anh, đứng trước cổng. Thấy tôi, nàng hỏi:
- Anh Tịnh này, anh xem có dễ thương không?
Tôi nhìn nàng, nhìn đứa cháu. Nàng mặc chiếc áo dài mới màu xanh thêu hoa. Có đánh tí hồng nơi má. Nên tôi hỏi lại:
- Cô định hỏi ai dễ thương?
Nàng đỏ mặt không nói. Tôi yêu nàng lúc đó.
Tôi nuôi tình yêu không phải chỉ bằng đôi mắt nhìn và bằng vòng tay ôm. Tôi còn yêu bằng những sự tinh nghịch dí dỏm như vừa rồi. Tâm hồn tôi không chịu được sự bằng phẳng. Tôi sợ những con đường tráng nhựa chạy thẳng tắp, rộng rãi và có nhiều bóng mát ở trên đầu. Ở bên dưới là hai lề đường song song chạy theo nhau không dám trái ý. Thật là chán nản. Tôi ưa sự đột ngột, bất ngờ. Như một con suối nhỏ chảy len giữa khe đá, trốn dưới một lùm cây rồi bất ngờ chảy vọt ra, hát róc rách bên một chòm hoa dại. Có tình yêu, tâm hồn tôi nhanh nhẹn vui tươi như con suối tinh nghịch đó.
Tôi nhớ một ngày hè, Mỹ Khuê rủ tôi về trại của nàng chơi. Vườn rộng có nhiều cây mận, cây xoài, cây mẹ Qua một hồ sen, tôi lội xuống bẻ hai đóa sen trắng, trao cho nàng một, còn tôi cầm một. chúng tôi đi kẻ trước người sau giữa con đường có nhiều bóng râm...... Biết nàng là Phật tử trung thành nên tôi nói đùa:
- Hai đứa mình cầm hoa sen đi thành hàng. Đúng là đại diện của Ủy ban Bảo vệ Phật giáo Thuần túy.
Nàng nghe câu nói bất ngờ, nhìn xuống bàn tay mình, nhìn sang tôi rồi phá lên cười một tràng dài.
Mỹ Khuê ơi, dẫu phải xa cách vĩnh viễn, kỷ niệm ngày chúng ta đại diện cho Ủy ban Bảo vệ Phật giáo Thuần túy chắc em không thể nào quên được.
Chúng tôi ngồi xuống bờ mương nước nhỏ. Những bụi khoai môn, khoai sáp soi bóng dưới làn nước đục màu vàng. Những con bọ nhỏ chạy lướt trên mặt nước. Bầy cá con khờ dại bơi gần bờ, mắc cạn, vùng vẫy chạy tao tác như một lũ học trò mẫu giáo nghịch ngợm và nhút nhát. Mỹ Khuê hỏi tôi:
- Anh Tịnh, không bao giờ anh biết buồn phải không?
- Biết chứ, tôi vội đáp.
- Thế sao lúc nào Mỹ Khuê cũng thấy anh đùa?
- Bởi vì có Mỹ Khuê bên cạnh. Không có Mỹ Khuê anh buồn. Như trước đây và sợ rằng... sau này.
Mỹ Khuê đặt một ngón tay lên môi tôi:
- Đừng nói dại.
Tình yêu làm cho con chim thích hót, con bướm thích baỵ Khi tôi nghe một con chim cất tiếng trên cành véo von là tôi đưa mắt tìm con chim bạn của nó hoặc đậu gần sát nó, hoặc đậu xa hơn một chút. Mỹ Khuê cũng thế. Tôi hay bất chợt đứng sau lưng nàng nghe nàng hát nho nhỏ những câu:
"To be alone with you
oh just, we two
oh my, my dreams come true
is to be alone with yoụ"
trong khi đôi tay sửa soạn lại tủ sách. Cũng có khi nàng trêu tôi nữa. Nàng kể chuyện hôm ngủ dậy trưa trặc cái cổ, đến phòng mạch bị Ông thầy thuốc hỏi: "Cô đã lập gia đình chưa?". Nàng giận dữ bảo tôi:
- Ông thầy thuốc hỏi vô duyên hết sức. Người ta lập gia đình chưa thì có liên quan gì đến cái cổ trặc. Thật là băm lăm một cây.
Tôi điềm tĩnh trả lời:
- Ông thầy muốn chữa mẹo đó. Tâm lý lắm.
- Nghĩa là thế nào?
- Nếu đã lập gia đình rồi thì trẹo cổ là chuyện thường. Không chữa cũng hết hoặc có chữa cũng không hết.
Nàng ngẫm nghĩ rồi cười, rồi sịu mặt nói:
- Em đau bệnh thật mà. Bao nhiêu người bạn ân cần đi mách thuốc và chạy đi mua thuốc cho em. Còn anh thì thản nhiên như không.
Giọng nàng trách thật tình và tôi thấy mình có lỗi. Tôi nói:
- Em thứ lỗi cho anh. Anh không quen làm những cử chỉ ân cần. Có lẽ tại hồi nhỏ anh phải sống cô đơn quá. Sống xa gia đình năm này sang năm khác làm một người học sinh nội trú. Cái gì cũng tự lo cho mình, sách vở, quần áo, ốm đau. anh giống như một thân cây phải tự vươn rễ ra tìm lấy chất phân chất đất cho phần mình.
- Nhưng tình yêu phải dạy anh khôn ngoan hơn.
- Anh đang bắt đầu.
Quả tình tình yêu đang dạy cho tôi không ngoan hơn. tôi gượng nhẹ với Mỹ Khuê hết sức. Tôi biết chọn những lời nói êm đềm và những cử chỉ dịu dàng. Tôi không còn giống một con sói trên rừng chỉ biết nương theo hoặc trốn tránh những luật lệ khắc khe của xã hội loài sói. Tôi không còn giống con gấu trên rừng sù sì những mặc cảm tự vệ, như con gấu có bộ lông lởm chởm khó thương. Tình yêu của Mỹ Khuê là cái lưỡi gấu mẹ liếm cho bộ lông gấu con trơn mướt, nằm rạp xuống, đẹp đẽ. Tôi hỏi Mỹ Khuê:
- Em có tin rằng khi lấy nhau em sẽ có hạnh phúc mà sống cạnh anh?
Nàng gật đầu:
- Miễn là anh yêu em.
- Yêu thì chắc chắn là có. Nhưng con gấu không nhảy Twist, không đi dạ hội mãn khóa sĩ quan và không đi picnic để chụp hình.
- Rồi em sẽ dạy anh lần. Đừng lo.
Tôi yên tâm và chỉ lo làm sao cho có thật nhiều tiền, có thật nhiều tiền. Ngoài giờ làm việc ở sở, tôi lãnh làm sổ kế toán cho mấy nhà buôn. tôi lãnh làm đơn cho văn phòng luật sự Tôi chạy áp phe mua nhà, bán xe hơi và mua xi măng giá chợ đen. Thành phố này đang bắt đầu làm đỏm. Đàn bà phải mặc váy chật và ngồi trước vô lăng nên xe hơi bán chạy. Người ta dỡ đòn tay nhà trệt để cơi lên lầu. Giá đất cất nhà vọt lên cao. Thiếu thợ nề. Xi măng biến mất ở mấy hiệu bán đồ sắt. Tôi xông xáo trong cơn sốt làm ăn của thiên hạ, hết rông xe ngoài phố đến ngồi lì ở bàn. Tóc dài ra như một anh "Rolling stones" mà không có thì giờ đi cắt. Có chút ít thì giờ nghỉ thì nhằm vào lúc tiệm hớt tóc đông khách, cứ cho xe chạy rông đi khắp phố để tìm một cái ghế trống. Tuy bận rộn như vậy nhưng mỗi chiều chủ nhật tôi vẫn không quên dành một giờ đến thăm Mỹ Khuệ Sự mệt mỏi làm tôi mất sáng kiến trong câu chuyện trao đổi với nàng. Những hàng con số dài dằng dặc, dài liên miên bất tận ở mấy cuốn sổ kế toán tôi vừa gạt một bên để đến gặp Mỹ Khuê, nó giống nhau một cách dễ sợ, như một bầy kiến đen xếp hàng dài mà đi. Khi ngồi cộng sổ thì sau lưng dãy con số, hiện lên khuôn mặt của Mỹ Khuê, ban đầu còn mơ hồ, sau đậm dần rồi linh hoạt hẳn lên như nàng đang ngồi trước mặt tôi thật. Những con số nhảy múa. Tôi lẫn lộn trong bài tính cộng, bôi đi xóa lại nhiều lần. Đích thưc tình yêu và kế toán xung khắc nhau như nước với lửa. Muốn làm tròn bổn phận đối với một bên thì phải hy sinh bên kia. cho nên khi tôi dành dụm được tám mươi hai ngàn lẻ mấy trăm đồng để chuẩn bị đám cưới thì Mỹ Khuê đoạn tuyệt với tôi. Nàng không tuyên bố ra lời. Tình yêu và thù ghét có ngôn ngữ riêng của nó, không cần phải dùng đến tiếng nói thông thường hoặc mẫu tự La Mã. Ngày nào nàng nói "Em yêu anh" khi đỏ mặt đứng bế cháu. Hôm nay nàng nói "Giã từ anh" khi tôi đến thăm mà chỉ có me ra tiếp. Me nói:
- "Con Khuê nó vừa xuống nhà bạn nó ở dưới... Sinh Trung.
Me phải chọn hơi lâu tên một địa điểm. Me hỏi về tình hình phòng vệ dân sự Ở cơ quan và tôi nói lan ra vụ chiến hạm Mađox bị tấn công ở vịnh Bắc Việt.
- Tình thế khẩn trương, chiến tranh có thể bùng nổ.
Me nói:
- Nhưng tình hình đã yên ổn rồi cơ mà. Báo chí đã bảo yên rồi.
Tôi trả lời:
- Báo chí chỉ thuật lại những việc đã xảy ra, sớm nhất là mười hai giờ sau. Khi người ta bắn nhau chí chết thì mình đi coi cải lương Út Bạch Lan và tính chuyện làm giàu. Khi người ta nghỉ bắn, đem chôn xác chết và làm lễ tuyên dương công trạng thì mình mới đọc báo biết tin và lo cuống cuồng lên lật đật đi đòi nợ và lo mua gạo, mua than, mua trứng vịt muối.
Me hỏi:
- Anh chuẩn bị mua thức ăn dự trữ chưa?
Tôi thưa rằng có mua muối, đậu phụng, mè, lạp xưởng và cá khô.
- Ừ! Mùa này là mùa cá khô. Rẻ lắm, ba chục đồng một chục con mà con nào con ấy to là to. Anh bảo chị ở mua về vài ba chục đem xát muối rồi phơi đi.
- Vâng ạ.
Tôi để ý thấy me không gọi thẳng tên tôi trong khi xưng hô mà chỉ nói bằng "anh".
Lần sau đến thăm thì chị Sâm ra tiếp:
- Con Khuê nó vừa đi phố gội đầu.
Đàn bà có nhiều lý do để đi phố mà lịch sự nhất là đi gội đầu. Chị Sâm nói chuyện về sinh viên hội thảo chính trị và xuống đường biểu tình. Chị nói về hoạt động của các hội đồng nhân dân cứu quốc ở Huế, Đà Nẵng, Qui Nhơn. chị nói kỳ hạn 24 tháng mười Thủ tướng Nguyễn Khánh giao quyền cho Chính phủ dân sư... Tôi nghe bằng một tai còn tai kia ngóng tiếng phanh xích lô và tiếng giày của Mỹ Khuê. Tôi nhìn chị Sâm bằng một con mắt còn con mắt kia thì chong ra cổng ngõ. Vẫn không thấy bóng Mỹ Khuê hiện về và tiếng giày quen thuộc của nàng. Chợt sau nhà có tiếng nói to của Annie (con em kế của Mỹ Khuê)
- Chị Khuê ơi, cái dĩa hát Catch a falling star của anh Phan cho chị mượn hôm trước chị đã trả chưa? Em tìm không thấy.
Có mấy tiếng suỵt khe khẽ. Tôi nhìn đồng hồ rồi cáo từ chị Sâm.
Phan là sĩ quan Hải quân cùng đeo đuổi theo Mỹ Khuê như tôi. Có mấy lần chạm trán nhau tại nhà nàng. Phan đẹp trai, nhanh nhẹn, chân bước chuệnh choạng không thẳng, ban đầu tôi tưởng là do thói quen đi đứng ở dưới tàu bị sóng đánh chao qua nghiêng lại. Sau vài lần nói chuyện tay ba thì tôi biết là tôi đã lầm một cách ngây thơ. Phan khiêu vũ giỏi và đang dạy Mỹ Khuê nhảy Twist nên lúc nào anh cũng đi như trong sóng nhạc. Hải quân sống trên biển cả nhưng yên lành hơn trên đất liền. Bộ binh và không quân sống nguy hiểm hơn, những cô con gái bảo thế. Tôi kết luận: Thôi, mất Mỹ Khuê rồi. Hải quân chiến thắng mình rồi.
Hôm tôi đứng sắp hàng ở ty Bưu điện để đổi giấy bạc năm trăm, tôi thấy Mỹ Khuê bước xuống xích lô xăm xăm đi vào. Mái tóc uốn cao, robe sac màu beigẹ, giày và ví tay đồng màu. Da trắng ngà môi hồng nhạt. Chết chửa! Khi thoát ra ngoài vòng tay của tôi, sao Mỹ Khuê lại đẹp thế? Sao lại quí thế? Đôi mắt đen mở to như lúc nào cũng nhìn thấy việc thiện. Đôi cánh tay trắng muốt mà tôi đã có lần cầm lên và Mỹ Khuê khoe:
- Tay em béo đấy anh nhỉ. Và, anh xem - nàng bẻ ngược mấy ngón tay ra đằng sau - ngón tay của em, lúc đi học đánh chuyền, chả đứa nào ăn qua nổi.
Tôi lợi dụng (lần này thì những con số kế toán khôn ngoan chạy trốn hết), cầm bàn tay đó, đặt lên môi hôn. Rồi nói:
- Bàn tay này sẽ thôi chơi đánh chuyền để mà lo săn sóc cho chồng, cho con.
Nàng rút tay, tát yêu vào má tôi. Than ôi! Đó là lần khôn ngoan đầu tiên và cũng là lần cuối cùng của tôi.
Hôm nay thì tôi chỉ đứng đằng xa mà nhìn nàng, lẫn lộn giữa đám đông khiêm tốn đang lăm le tay cầm năm bảy tờ giấy năm trăm, mắt chong nhìn vào người nhân viên đổi bạc, mừng rỡ và lo lắng một cách dễ dãi đến độ đáng ghét. Mỹ Khuê bước vào. Nhiều con mắt ngửng lên, dán vào nàng. Vài người thanh niên kiểm soát lại khuy áo, hoặc đưa tay nắn lại nút ca vát. Ông cảnh sát sửa lại chiếc mũ lưỡi trai. Nàng chuẩn bị một nụ cười đợi người nhân viên đổi bạc quay nhìn lên nhưng ông này bị chìm dưới nhiều cánh tay cầm tiền chỉa tới. Nàng tiêu khiển bằng một vòng mắt đưa chầm chậm quanh phòng. Uy nghi, tự tín. Như Hitler ở Stadion, ở đại hội Nurenberg. Như Napoléon ngày 20 tháng Ba năm 1815. Mắt nàng chạm phải mắt tôi. Mặt nàng héo lại, nụ cười tắt, cái nhìn thu gần. Nàng đứng im một giây rồi đi ra cửa. Tôi nghe tiếng gọi xích lô và giọng nói thủy tinh:
- Đạp lên Kho Bạc.
Giã từ Mỹ Khuê! Những ngày tháng Mười năm nay là những ngày thuận lợi nhất cho tình yêu. Trời mưa liên miên đêm tiếp qua ngày. Cảnh vật lạnh buồn qua màn mưa trắng. Giọt mưa rào rào rơi đều trên mái ngói, tạt từng luồng lên lá cây, như vừa trải qua những cơn trở mình vật vã, sợi mưa đan nghiêng một chiều, không dứt không dừng. Cảnh vật quằn quại mỏi mệt ở gần và phai mờ nhan sắc nơi xa, người đi lại co ro lúng túng. Ai cũng vội vã mong cởi gấp chiếc áo mưa, tháo bỏ đôi giày sũng nước. Những ngày mưa như vậy thúc gấp người ta nhớ nhung người yêu. Một căn phòng khô ráo, ấm áp. Mọi cửa đều đóng kín, màn cửa hạ xuống. Không có khách đến quấy rầy, không có người phát thư gõ cửa không nhằm lúc, không có anh thu tiền rác lù lù cái mũ trên đầu, không có tiếng rao bán bánh chưng, chè bắp, lảnh lọt đâm thủng vào câu chuyện, không có tiếng trẻ la lối ồn ào. Mà chỉ có người đàn ông sạch sẽ tươm tất vì không có mồ hôi dâm dấp trên trán. Và người đàn bà da mặt tươi mát. Mùi nước hoa không nồng như trong ngày nắng. Tôi tha thiết nhớ Mỹ Khuê trong những ngày mưa và nhất là những đêm khi thức giấc nghe mưa rơi cô đơn ngoài trời. Nhưng Mỹ Khuê, nàng có một quả tim bằng cẩm thạch. Để đối với tôi. Chứ còn nhìn về phía Phan thì tôi chắc nàng đang mơ màng một ngày nào làm nội tướng ông Tư lệnh đập vỡ chai rượu vào sườn tàu để làm lễ hạ thủy một chiếc tàu mới. Mỹ Khuê có nhiều tham vọng. Thích được đăng ảnh trên báo và trả lời những câu phỏng vấn. Vĩnh biệt Mỹ Khuê.
Tôi chán nản, trả lui những cuốn sổ kế toán không cộng nữa. Dẹp bỏ mọi áp phe. Ngoài giờ đi làm, tôi ngồi hàng giờ ném ruột bánh mì cho bầy vịt của tôi. Mỗi lần thấy tôi ra hiên sau, chúng quàm quạp kêu ầm lên chạy lại đòi ăn. Con đực có chòm lông chơm chởm trên đầu mà tôi gọi tên là "con Chởm". Con mái lông vàng sạch mướt thích nhảy vào thau nước tắm mà tôi gọi là con "Công Chúa". Con vịt đen nhọ nồi hồi nhỏ đi tướt phân xanh, tôi phải nuôi riêng cho uống Ganidan để chữa bệnh và sau này tôi gọi tên là "con Ganidan". Cùng với năm, sáu con tầm thường vô danh khác, chúng bao quanh tôi, hiếng mắt, ngẩng cổ, can đảm xông tới, nhút nhát đi lui. Tôi dứ mẩu bánh nơi tay và "con Chởm" sốt ruột cắn vào cổ, vào đầu mấy cô bạn len lỏi đứng cạnh nó để chăm chăm lãnh phần cho riêng mình. Tôi nói thầm: Mỹ Khuê ơi, anh yêu em không giống như con vịt đực này đâu. Anh không nịnh đàn bà được như con gà trống, nhưng nhất định là anh không ích kỷ như con vịt đực.
Tôi la cà ở các Bar, thuộc tên hàng tá chiêu đãi viên: những Mai Ly, Thu Nguyệt, Kim Chi, Kim Cúc. Tôi dở mọi thủ đoạn dối trá làm bộ chung tình để nghe các nàng kể lể tâm sự, làm ra bộ si mê để các nàng nghếch mặt kiêu hãnh, làm bộ chán đời sắp tự tử để nghe các nàng khuyên răn, dạy dỗ theo giọng Cải lương. Chán trò chơi ấy, tôi đi về miền quê Phú Ân, Đại Điền nghe chim hát và nhìn cây cỏ nở hoa. Cái gì tôi cũng lưu ý nghe và để mắt nhìn. Tiếng chó sủa, tiếng trẻ khóc, con tàu chạy hối hả. Tôi nhớ Giono có nói về "sự say mê những cái vô ích". Ừ, phải công nhận rằng khi mình làm những cái vô ích, mình thấy tâm hồn thoải mái lạ. Từ trước đến nay và nhất là trong thời gian tôi yêu Mỹ Khuê, tôi đã chỉ chăm chăm làm những việc vô ích.Những việc có ích đó, cuối cùng, chẳng những đã biến thành vô ích mà còn có hại nữa. Rõ ràng là tôi đã mất Mỹ Khuê.
Ngày lễ Quốc Khánh năm nay trời mưa, không đi chơi xa được nên tha hồ cho tôi "say mê những cái vô ích". Tôi nằm trong giường đọc "Anh hùng Xạ điêu" để hồi hộp vui chơi với chú Quách Tĩnh và cô bé Hoàng Dung, can đảm lăn xả vào mọi hiểm nguy vì biết chắc là ông Kim Dung không dám để cho mình chết. Thật chỉ có trong tiểu thuyết mới có một người sung sướng như anh chàng Quách Tĩnh này. Không muốn học võ nghệ mà các danh sư lại tìm đến tận tâm truyền thụ võ nghệ, không chạy theo tình yêu mà tình yêu cứ bám riết theo mình. Xấu trai, chậm chạp, ít thông minh, anh chỉ nhờ tính tình đôn hậu mà thành người có hạnh phúc. Cô bé Hoàng Dung thì đẹp, kiến thức rộng, quyền biến, nhiều lúc tinh quái độc ác. Nhưng mà chung tình. Họ bổ túc cho nhau một cách hoàn hảo. Tôi theo dõi mối tình lý tưởng ấy và đôi lúc tưởng tượng rằng chính tôi và Mỹ khuê đã thay Quách Tĩnh-Hoàng Dung ngồi trên lưng con Tiểu hồng mã đi lục lọi khắp cả miền Giang Nam tìm tung tích của Hồng Bắc Cái. Tôi thấy tôi cũng xấu trai, chậm chạp, và Mỹ Khuê cũng đẹp, cũng thông minh quyền biến. Chỉ tiếc là Mỹ Khuê không chung tình nên trong cuộc phiêu lưu chỉ có mình tôi thui thủi một thân. Cha chả! Buổi chiều chủ nhật thật là buồn lạ. Tôi cứ nhớ giờ này tôi ngồi ở xa lông nhà Mỹ Khuê, ngồi vào cái ghế nhất định mà tôi đã chọn một lần và sau đó tôi nhất định không chịu di dịch. Bởi vì ngồi ở đó mắt tôi được nhìn khuôn mặt của Mỹ Khuê tràn đầy ánh sáng từ cửa sổ lớn hắt vào, đồng thời tôi còn được nhìn chậu hoa lan tím nở hoa suốt bốn mùa đặt ở góc phòng. Mỹ Khuê bao giờ cũng bắt tôi đợi năm phút trước khi nàng từ phòng riêng bước ra. Màu da tráng mát và đôi mắt đầy đặn nhờ một giấc ngủ trưa yên tĩnh. Mùi nước hoa thơm ngọt khiến trông nàng ngon như một cái bánh. Đó là ý nghĩ cộc cằn mà tôi đã lỡ có. Giờ này thì chắc chắn là Phan đang ngồi vào cái ghế của tôi và Mỹ Khuê lại cứ ngon như một cái bánh. Tôi nổi giận với Giono. Ham mê được cái vô ích là bởi vì ông đã có vợ, đã có nhà, có cây táo đầy quả trong vườn, có nhiều ly tách trong buffet. Tôi chưa có gì hết. Mới bắt đầu đã hỏng.
Tôi ngồi dậy lấy xe đi phố cho quên bớt sự bực mình. Vòm trời thấp. Gió chuyển thành lạnh. Vài bộ complet màu tối đi trịnh trọng. Những dáng đàn bà trông béo hơn những ngày trước đây. Sự nghiêm trang của thời tiết làm họ chậm chậm đếm bước. Mùa Đông đang đến, uy nghi trầm mặc như một vị quốc trưởng đạo đức và có tuổi. Tôi phải gặp nhiều người quen. Thật khó mà chào thân ái mọi người khi họ đi cả bọn. Gió lành lạnh ở vai. Tôi qua hiệu Chà, nhìn dãy áo len. Hôm nào lại phải đi mua cái áo len mới. Suốt đời chỉ toàn mặc áo len mua ở hiệu, chả có bàn tay nào đan cho mình. Giá Mỹ Khuê đợi hết mùa Đông hãy đoạn tuyệt cùng tôi thì ít nhất tôi cũng được mặc một cái áo len do bàn tay nàng đan. Phải mặc áo len dệt bày bán ngoài tiệm, thật là nỗi buồn của người đàn ông. Ở mỗi một mắc chỉ nơi chiếc áo của người yêu đan tặng, ta tưởng như còn thấy dấu vết của đôi mắt nàng nhìn, hơi thở ấm của nàng còn lưu luyến trong đó. Lạnh lẽo là mùa của nhớ nhung, của kỷ niệm, của sự trân trọng thâm hậu. Hôm qua thấy Viết và Huy mặc áo len mới tôi hỏi:
- Hai anh mà cũng mặc áo len mua sao?
Viết cười:
- Chứ anh bảo không mua thì đào ra đâu áo mà mặc?
- Đẹp trai như hai anh...
Huy hiểu ý tôi:
- Thời bây giờ con gái không chịu khó ngồi đan áo tặng người yêu. Áo của họ, họ còn phải ra hiệu mua.
Viết tiếp:
- Vả lại, có được tặng, mình cũng áy náy không dám nhận nữa.
- Chớ áy náy làm chi. Người đàn ông thời nay thường mặc đến cái áo len thứ tư thứ năm mới lấy vợ.
Tôi nghĩ vẩn vơ về chiếc áo len, vừa cho xe chạy xuống biển. Biển là người bạn cô đơn, của mọi người, thường trực và dễ tính. Ai nói gì biển cũng nghe, không phản đối. Trên đường Phan Bội Châu, Độc Lập, mỗi người đi đều có mục đích của họ. Tôi không nằm đúng vào mục đích của ai hết, nên tôi cảm thấy mình cô đơn và dư ra giữa đám người đông đảo.
Nước biển vàng đục. Lác đác có những bè rơm rác từ nguồn theo về, trôi phiêu lưu. Bầu trời ủ dột. Gần bờ, những con sóng đứng dựng lên, uốn cong đầu rồi đổ nhào xuống ầm ầm, toé nước tung bọt rào rào. Thât là vừa mạnh dạn vừa ngu sị Để làm gì? Y như một thằng điên. Gào to lên, nhào đập đầu xuống tự tử... nhưng có ai thèm để ý. Ở trên đường Yersin, người ta cứ thản nhiên sung sướng, tán tỉnh nhau, mời mọc nhau và người ta ngồi vào bàn ăn mỉm cười với bóng hình người yêu của họ lẫn lộn giữa những dĩa bát. Mặc kệ cho biển lồng lộn nhào lăn, gào thét. Cũng như hiện giờ Mỹ Khuê đang tiếp Phan ở phòng khách, cửa kính hạ xuống để che gió, âm nhạc rơi từng giọt nhẹ từ chiếc Hi Fi đặt ở góc phòng. Trong khi tôi ngồi độc thoại ở bãi biển màu xám này. Vắng người đi dạo. Một đoàn học sinh nội trú chạy nhảy vừa phải dưới sự trông chừng của hai sư huynh mặc áo dài đen. Một người đàn ông run lẩy bẩy từ mặt biển chạy thẳng lên bờ, chụp khăn lau rối rít và lật đật mặc quần áo. Chắc trong cuộc sống người này tham lam lắm. Không chịu bỏ sót một buổi tắm công cộng miễn phí. Từng nhóm năm ba binh sĩ mặc quân phục đi đi lại lại ở gần mép nước. Có mấy thiếu nữ ngồi ở trụ đá dưới tàn dừa nhìn ra bể. Mỹ Khuê có nghĩ rằng hiện giờ tôi ở đây không? Chắc là không. Hai người đang thủ thỉ cho nhau nghe những chuyện êm đềm.
Sương xuống mù mù, xóa nhòa đường nét của những hải đảo ngoài khơi xạ Mái tôn xám của dãy nhà dân chài nơi xóm Cồn chạy dài theo bãi cát, nằm sát mặt đất. Không thấy ánh đèn. Nhưng chắc chắn là có tình yêu trong những ngôi nhà sơ sài đó. Tình yêu không cần nệm mousse, khăn trải giường có vẽ hoa và một chồng sách dưới chao đèn.
Có tiếng chân đi loạt xoạt sau lưng tôi. Trong ví chỉ có nhiều nhất là một trăm bạc nên tôi không cần quay lại. Tiếng chân đến sát gần. Một người ngồi xuống chụp vào vai tôi.
- Anh ngồi làm gì ở đây?
Tôi giật mình quay lại.
- Annie!
Annie mỉm cười ngồi sà lại gần tôi.
- Em đến đây làm gì vào giờ này? Biển vắng và trời sắp tối.
- Anh làm như anh là thanh tra cảnh sát. Em đi xem biển nổi loạn. Cũng như anh vậy.
Tôi phì cười:
- Sao biết là "cũng như anh vậy"?
Annie mặc váy ngắn, áo len dài tay màu đỏ. Giày escarpin trắng. Tôi hỏi:
- Anh tưởng em đi Đà Lạt rồi. Ngày nào mới tựu trường?
- Mai mới có chuyến baỵ Còn tựu trường thì cũng một ngày như ở trường Việt.
- Chị Mỹ Khuê ở nhà làm gì?
- Peuh! -Annie nhún vai- nghe nhạc, nhai kẹo, chải tóc, gắt đứa ở...
- Anh bảo là giờ này có anh Phan đến chơi đằng nhà phải không?
- Cố nhiên là có. Tại anh lật đật ngắt lời em. Em chưa kể hết mà. Chị Khuê đang gắt đứa ở thì anh Phan đến.
Tôi ngồi thừ nhìn ra con đường chân trời, ngạc nhiên không biết lần thứ mấy rằng tại sao mà nó khéo thẳng như vậy. Annie lay vai tôi:
- Anh nhai kẹo này. Em biết anh thất tình phải không?
Tôi bỏ kẹo vào miệng:
- Nói nhảm. Anh hỏi chơi vậy thôi. À, Annie này, thế chủ nhật nào anh Phan cũng đến phải không?
- Nhiều hơn thế nữa. Có cả những chiều thứ năm, thứ tư, thứ sáu... enfin... những ngày trong tuần.
- Thế anh Phan đến chơi mỗi lần vậy có lâu không?
- Tùy theo. Hai giờ. Một giờ. Mười lăm phút. Ái chà, anh hỏi vẩn vơ, Annie không trả lời nữa đâu. Nói chuyện khác vui hơn.
- Chuyện gì bây giờ? -tôi ngượng nghịu hỏi lại.
Tóc Annie bay phất phơ theo gió tạt vào mặt tôi. Mùi nước hoa ngọt ngọt -à, mùi hoa violet, tôi sực nhớ ra rồi,- tỏa từ mái tóc, từ áo len.
Đôi mắt sáng. Cái mũi huếch lên một chút.
- Anh đã đọc Lolita chưa?
- Rồi.
- Anh cò thích truyện đó không?
Tôi gật đầu:
- Truyện hay. À, mấy hôm nay anh Phan có đưa dĩa hát đến cho chị Mỹ Khuê mượn không?
- Có. Anh kể cho em nghe truyện Lolita đi.
- Dài quá. Vả lại truyện không đứng đắn.
- Kệ nó. Truyện bắt đầu như thế nào?
Tôi gãi cằm, ngần ngừ một lát:
- Bắt đầu thì thật hay. Như là tiếng kêu thổn thức của một tâm sự: Lolita, ánh sáng của đời tôi, lửa của... chà chà khó nói quá: " feu de mes reins... "
- Em hiểu rồi, anh khỏi cần phải dịch. Anh nói tiếp đi.
- Tội lỗi của tôi, linh hồn của tôi. Lolita: đầu lưỡi nhảy ba cái nhẹ vào vòm khẩu cái, va chạm ba lần vào răng, Lolita .
- Anh kể nữa đi.
- Buổi sáng nàng là Lo Lo ngắn ngủi. Một thước bốn tám.
- Đố anh, em cao bằng Lolita chưa?
- Chắc còn thua.
- Bậy, em cao hơn. Tình yêu giữa Lolita và Humbert anh có cho là tội lỗi không?
Tôi ngạc nhiên quay nhìn thẳng Annie.
- Sao em biết?
Annie cười:
- Vì em đã đọc hết quyển Lolita rồi.
- Đó không phải là quyển truyện dành cho em.
- Người lớn đều có ý tốt ngăn ngừa như vậy. Người lớn kiểm duyệt phim ảnh và ghi rõ: "Cấm dưới 18 tuổi". Nhưng những buổi chiếu phim có khẩu hiệu cấm kỵ như thế thì khán giả đa số lại dưới tuổi 18. Lỗi đó chắc không phải do ở trẻ con. Như em. Nhưng mà thôi, em nói lạc đề. Em muốn hỏi anh điều này nhé.
- Gì?
- Humbert so với anh, ai lớn tuổi hơn?
- Cố nhiên là Humbert... lớn tuổi hơn anh nhiều.
Annie gật đầu.
- Anh trẻ hơn Humbert... Còn em thì lớn hơn Lolita... Annie ngừng lại không nói tiếp. Tôi mở to mắt nhìn Annie, ngạc nhiên vì câu hỏi vừa rồi.
- Đó là tiểu thuyết... Tôi chậm rãi nói.
Nhưng Annie không nghe tôi. Nàng đăm đăm nhìn ra chân trời xa. Sương đã xuống núi. Vài ánh đèn thuyền câu chói sáng. Dãy đèn nê ông chạy dài theo đại lộ Duy Tân, chạy vòng theo bãi biển xuống mãi đến xóm Chụt. Tôi lay vai Annie:
- Annie về đi. Tối rồi. Me và chị Mỹ Khuê đang đợi ở nhà.
- Anh có khinh Lolita không?
- Anh chưa nghĩ đến điều đó.
- Còn em thì em không trách Humbert. Ngồi trong ngục thất chờ ngày ra tòa đại hình để bị xử tử hoặc lãnh án khổ sai, người đàn ông đau khổ đó viết lại câu chuyện tình của mình và mong rằng nó sẽ in ra khi hai nhân vật chính đều đã chết. Ông ta có lương tâm.
- Ừ.
- Anh cũng là người có lương tâm.
- Có thể...
- Chị Khuê em không thích người đàn ông có lương tâm. Chị bảo: họ chậm chạp và nhiều khi vô ích.
Tôi ngậm ngùi:
- Cũng có lẽ đúng.
Annie chợt cười rồi bẹo má tôi:
- Trông bộ anh ngớ ngẩn, đúng là anh chàng thất tình. Sao ngày xưa anh vui vẻ nhanh nhẹn thế? À, đố anh biết tại sao em gặp anh ở đây?
Tôi lắc đầu:
- Chịu.
- Em lại đằng nhà tìm anh.
- ...?
- ... Thằng nhỏ ở bảo anh vừa đi xong. Em biết thế nào anh cũng lò mò ra biển. Thất tình mà. Quả nhiên thấy xe anh gác ở bờ đường.
Tôi gật đầu:
- Thầy bói đoán giỏi. Em lại tìm anh có việc gì?
- Để giã từ anh ngày mai đi Đà Lạt. Em biết anh không xuống nhà nữa, từ ngày anh thôi với chị Khuê. Tình yêu là thế đó. Anh có giận lây em không?
- Không.
- Vậy thì bắt tay em đi.
Tôi siết chặt tay Anniẹ Bàn tay mềm và ấm. Annie giữ tay tôi lại và không bỏ ra. Ngón tay trỏ và ngón tay giữa của nàng vuốt nhẹ trên lưng bàn tay tôi, gây một cảm giác êm êm rợn rợn.
- Anh nhớ viết thư cho em nghe. Ngay tối nay. Sáng mai anh bỏ thư ở nhà dây thép và sáng thứ hai thì em đọc được thư anh ở tại trường.
- Sao vội vàng thế? Từ bây giờ đến tối thì có chuyện gì đâu mà viết?
- Sao lại không? anh cứ ngồi lại bàn thì sẽ biết nên viết gì. Thôi bây giờ em về.
Nàng bỏ tay tôi ra rồi bấu vào vai tôi đứng dậy. Tôi đứng dậy theo.
- Anh không chúc em điều gì sao?
- Có chứ, -tôi vội nói. Chúc em đi đường bình an, học giỏi.
- Cám ơn anh. Còn em chúc anh sức khỏe, vui vẻ. Nhé? Mon péché... mon âme.
Nàng nói xong, thoăn thoắt đi. Ánh đèn đường chiếu nghiêng xuống mái tóc tỏa sáng. Váy ngắn. Áo len dài tay màu đỏ. Nàng bước lên một chiếc xích lô đậu gần đó, quay lại giơ tay vẫy tôi. Tôi cũng giơ tay vẫy theo. Chiếc xe vun vút chạy, mất hút sau dãy phi lao thấp.
Hai tiếng cuối cùng Annie nói cho ai? Tội lỗi của tôi. Linh hồn của tôi. Thật khó mà phân biệt nàng muốn ám chỉ tôi hay chỉ nhắc lại lời của Humbert. Tôi đứng lặng, ngẩn ngơ, ngờ vực, thậm chí không tin rằng điều vừa xảy ra là có thật. Tôi đưa bàn tay lên mũi: rõ ràng là mùi nước hoa violet từ bàn tay Annie chuyển sang. Annie, cô em bé nhỏ đang ở tuổi nhai kẹo sô cô la, ngậm đầu bút chì để nghĩ làm con toán và vỗ tay xem phim "Ba người ngự lâm pháo thủ". Annie! Đôi mắt sáng long lanh như hai giọt nước treo ở đuôi lá na lá mận được nhìn qua ánh sáng của khung cửa sổ. Đôi chân mảnh, nhảy thoăn thoắt như sơn dương. Annie! Nàng đột nhiên hiện đến chiều nay nhí nhảnh, bất ngờ như một dòng suối nhỏ hát róc rách giữa một vùng hoa lá, nhưng cũng đủ làm xáo trộn hồn tôi. Rồi thoáng chốc nàng vụt bỏ đi, để tôi trầm ngâm đứng giữa bãi bể vắng này như con suối đã bỏ xa một vũng nước sâu nằm lặng yên trên bờ lau sậy, mang nặng trong lòng nó những lớp lá úa và những dải rong rối ren chằng chịt./.
Sưu Tầm
- Bác gắng tăng thêm tốc độ.
- Dạ.
- Gắng tăng thêm nữa.
- Dạ.
Người tài xế bặm môi nhíu sát hai lông mày vào nhau. Những nếp nhăn hằn lên, khổ sở. Tôi chong mắt nhìn ra trước xe. Những cánh đồng trải rộng, trải dài, lác đác có thôn ấp nấp sau những lũy tre. Chúng nằm bất động, cản ngăn tầm mắt khiến tôi có cảm tưởng là xe vẫn còn chạy chậm. Tôi muốn giục thêm bác tài nhưng tự nhiên thấy mình khiếm nhã. Tôi đã giục nhiều lần rồi. Giục thêm, có khác nào bảo rằng bác ta thiếu thiện chí hay kém tài năng.
Tôi ngồi chồm ra trước, làm như tư thế đó giúp cho xe chạy mau hơn. Tôi rung những ngón tay tưởng như điều đó làm cho chiếc xe cũng sốt ruột mà gắng chạy nhanh hơn. Rặng núi thấp có những rẫy sắn rẫy đậu nằm bắc thang trên sườn, từ nãy giờ vẫn chưa vượt qua. Tôi muốn bất chấp xã giao lên tiếng giục bác tài chạy mau hơn nữa, nhưng chợt nhìn xuống cây kim đỏ chỉ tốc độ tôi phát hoảng : 110 cây số giờ. Đó là tốc độ nguy hiểm đối với đoạn đường này. Là đùa với Thần Chết và đi kề cái chết.
Tôi lẩm nhẩm nghĩ : "Đằng nào cũng trễ rồi. Hôm nay đã 16 tháng chín. Xe không thể chạy về đêm. Trưa ngày 17 là hết. Là xong hết..." Tôi cảm thấy nóng nơi khóe mắt. Tôi cảm thấy nước mắt đang tụ tập về điểm lệ nhưng tôi cố ngăn không chúng họp thành giọt. Tôi cắn răng, cầm chắc sự can đảm trong bàn tay trái nắm chặt.
Chợt xe phanh gấp một tiếng két nhức tai. Tiếng bánh xe lết trên mặt đường. Người tôi nhảy chồm lên, ngã nhào tới trước. Nhưng tôi hoàn toàn không có chút hoảng sợ. Tôi bình tĩnh đến mức độ lạ lùng. Tôi sửa lại tư thế ngồi, dựa lưng ra nệm và chậm rãi ra lệnh :
- Thôi bác chạy chậm lại. Tám mươi đến chín mươi cây số thôi.
Tôi không cần biết cái hãm phanh vừa rồi có nguyên do nào. Mọi nguyên do đều vô ích khi không sửa chữa được Thực tại. Tôi nhắm mắt lắng nghe hơi thở của mình. Trong trí óc tôi có tiếng kêu. "Chương ơi! Chương ơi!", tiếng kêu của tiềm thức tôi. Không có tiếng đáp lại. Vĩnh viễn từ nay sẽ không còn tiếng đáp lại.
Tôi lần mở xắc lấy ra tờ chương trình. Năm chữ "Đại giới đàn Phước Huệ" in màu chữ đỏ. Những danh từ xa lạ. Lật trang sau...
Điều kiện thọ giới Sa-di :
Thuộc hai thời công phu
Thuộc hai cuốn luật tiểu
Điều kiện thọ giới Tỳ-kheo :
Đã thọ Sa-di ít nhất hai năm
Đủ hai mươi tuổi đời.
Thuộc hai thời công phu và bốn cuốn luật tiểu.
Phải có đầy đủ y bát, tọa cụ và đãy lọc nước.
Những điều kiện này đang ràng buộc Chương. Đang thắt cột Chương vào một tập thể lớn có qui luật, nơi đó Chương xóa bỏ Quá Khứ của anh. Nơi đó Chương sẽ là một cái lá trong nhiều cái lá, một cành cây giữa những cành cây, một hạt bụi lẫn lộn trong hằng hà sa số hạt bụi. Và tôi, Trâm, người yêu của anh sẽ không còn chiếm nửa linh hồn anh, ba phần tư linh hồn anh, bốn phần năm linh hồn anh... mà tôi rút gọn lại chỉ còn là một chúng sinh xếp đồng đẳng với muôn triệu chúng sinh trước đôi mắt anh. Tôi tham lam hơn, Chương ơi! Tôi không chịu được ý niệm Dân chủ, tôi ghét cái cân của ngành Luật pháp bởi tôi không chịu đồng đẳng với ai, tôi phải chiếm chỗ cao hơn hoặc là tôi đoạn tuyệt.
Mà anh có đi tu thật không? Có thể là con Như nó lầm không? Em nhận được thư hỏa tốc của nó bảo đích xác là có tên anh trong danh sách những người nhận giới trong Đại giới đàn. Có thể có sự trùng tên không? Em không hi vọng lắm. Khó có hai người cùng mang tên Lại Tăng Chương.
Như nó gởi luôn cho tôi tờ chương trình. Ngày 17 tháng 9 Quí Sửu, sáu giờ : Hưng tác thượng phan, khai chung bản, khai kinh bạch Phật. Tôi chẳng hiểu nói cái gì trong đó. Đoán lờ mờ là có treo cờ, đánh chuông, tụng kinh. Chắc không sai mấy, 8 giờ : Tấn đàn Sa-di. Chắc có nghĩa là truyền giới cho mấy ông Sa-di. 12 giờ : Quá đường. Có phải nghĩa là đi qua phòng ăn để thọ trai? Có thể là không phải vậy. Mặc kệ. Chiều ngày 19 và sáng ngày 20 : Tấn đàn Tỳ-kheo. Lễ truyền giới cho Tỳ-kheo kéo dài lâu hơn chắc bởi cấp bực tu trì cao hơn. Chẳng biết Chương sẽ nhận giới ở cấp bực nào.
Tôi hỏi bác tài :
- Bác dự tính chạy hết tốc lực thì tối nay nghỉ ở đâu?
- Theo cái đà này thì chúng ta phải nghỉ đêm tại Sông Cầu.
- Sông Cầu là chỗ nào?
- Giữa Qui Nhơn và Nha Trang.
- Chỗ đó có khách sạn không?
- Không hi vọng có.
Tôi định hỏi thêm "Nếu không có khách sạn thì ngủ ở đâu và đậu xe ở đâu" nhưng trí óc tôi lười biếng quá rồi, tôi không muốn đặt câu hỏi nữa. Thà để trí óc trống rỗng, trắng bệch còn hơn là bắt nó nghĩ suy lấy lệ.
Con đường chạy dài, xe vượt quá một cánh đồng thì bắt gặp một xóm làng. Những ngôi nhà tranh đứng hiu quạnh bên cạnh những bụi chuối bụi sả trông thật buồn. Tưởng chừng như những ngôi nhà bỏ hoang nếu nhìn quanh quất đâu đấy không thấy một con chó đang nằm khoanh nơi cháy bếp, một con gà giò ốm lỏng khỏng đi thơ thẩn nơi vạt nước hay một bà lão gầy gò da mặt nhăn nheo đang nhíu mắt nhìn ánh nắng rung rinh.
Chương sống cô đơn từ những ngày nhỏ. Gia đình anh là một thảm kịch : Cha mẹ ly dị nhau, cha cưới vợ riêng và mẹ đi lấy chồng. Anh trở thành đứa trẻ mồ côi bởi vì về ở với cha thì không chịu được dì ghẻ, về ở với mẹ thì không chịu được dượng ghẻ. Cha và mẹ anh khi cùng ở với nhau thì điều khiển một nhà xuất nhập cảng lớn, khi ly dị nhau thì trở nên hai nhà xuất nhập cảng còn lớn hơn xưa. Trong việc tái lập gia đình, hai người đều tỏ ra gặp được hạnh phúc. Tóm lại chỉ có Chương mới là kẻ bất hạnh cho dù cha và mẹ anh đều nài nỉ anh về ở với mình, và ở với người nào thì anh cũng được chìu đãi sung sướng. Chương sống tự lập ngay khi vào Đại học. Khi ra trường, anh xin đi dạy học ở một tỉnh miền trung.
Gia đình tôi và gia đình Chương quen nhau từ nhiều năm vì Ba mẹ tôi cũng mở hãng xuất nhập cảng. Cảm tình giữa chúng tôi biến thành tình yêu và sóng gió trong gia đình Chương khiến tôi càng yêu anh nhiều hơn. Tôi thấy tôi có bổn phận đối với Chương, giúp đỡ và an ủi anh. Chương chỉ còn có tôi ở trên đời để yêu ngoài cái đam mê suy tưởng Triết học. Yêu tôi, nhưng khi ba mẹ tôi đề cập đến hôn lễ thì Chương tỏ vẻ ngại ngùng.
- Hôn lễ, đó là nghi thức cần thiết. – tôi nói.
Chương gật đầu :
- Đúng vậy,
- Nhưng sao anh...
- Tại vì... Tại vì...
Tôi đoán biết tại vì sao rồi. Ba mẹ tôi giàu lớn còn anh thì hiện thời đang đứng sắp hàng theo chỉ số. Phải đi nhích tới từng bước. Nếu không muốn để cho đồng tiền cám dỗ thì mắt phải chăm chăm nhìn lên những chữ Lễ nghĩa, Liêm sỉ, Đạo đức. Chương yêu tôi mà không dám cưới tôi. Ngoài ra, những hình ảnh của cuộc hôn lễ linh đình ngày cha anh đi cưới mẹ anh đã ám ảnh anh. Chính tôi đã được nhiều lần ngồi nhìn say mê những bức hình chụp đám cưới ấy. Cha anh mặc áo thụng gấm có thêu những cái hoa to bằng cái bát úp. Má anh đội khăn màu vàng như một nàng công chúa. Xung quanh hai người là cả một rừng áo gấm và một bầy công chúa xinh đẹp như nhau. Bây giờ thì những chữ Song Hỉ bị bẻ ra làm đôi, mỗi người cầm giữ một nửa. Chương không thuộc về một bên nào. Anh lửng lơ ở nơi biên giới, ở nơi ranh giới, ở no men’land , ở chỗ đáng lẽ không có người.
Tôi nói :
- Nhưng em không thể đến sống với anh mà không hôn lễ.
- Anh biết.
- Biết mà vẫn cứ để vậy?
- Anh không có lối thoát.
- Ba mẹ em không thể đợi anh lâu.
- Chắc là anh mất em.
Từ ngày anh ra miền trung, tôi làm gan không biên thư cho anh nữa. Tôi đợi sự hồi tâm của anh. Thì đột nhiên có bức thư khẩn cấp của Như.
- Bác liệu có thể chạy xa hơn Sông Cầu không?
- Thưa cô chắc không được. Giờ này mà mình còn leo đèo Cù mông thì không hi vọng đi vượt quá Sông Cầu.
- Cù Mông là cái gì?
- Cái đèo lớn nằm giữa tỉnh Bình Định và tỉnh Phú Yên.
- Sao mà lắm đèo lắm ải vậy?
- Miền Trung mà cô. Hết đèo đến ải.
Y như cuộc đời của Chương. Y như mối tình của chúng tôi. Người bình dân hát rằng : "Thương nhau tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội cửu thập đèo cũng qua". Đó là những sông những núi những đèo của Thiên nhiên, dẫu cao dẫu sâu dẫu trắc trở mà với quyết tâm người ta vẫn có thể vượt được. Chỉ cần thời gian. Với núi đèo do con người tạo ra thì vượt qua không phải dễ. Và Chương đang chọn một lối vượt qua của anh.
Tôi ngủ lại đêm ở Sông Cầu. Đêm thật đen và thật buồn. Thành phố nằm bẹp dí xuống mặt đất, nhà thấp và mặt biển liếm sát bờ cát. Không thấy một sự cố gắng vượt lên. Hạnh phúc xuề xòa. Hạnh phúc cao một thước năm ngang vòng tay ôm. Hạnh phúc cao một thước sáu ngang đôi môi hôn. Hạnh phúc trong giây phút hiện tại, trong đêm tối an nghỉ, giữa hai tràng đạn bắn vu vơ, giữa hai quả hỏa tiễn câu vu vơ... Chương ơi anh coi thường thứ hạnh phúc trần gian này, anh ngước nhìn lên cao hơn, anh rướn mình lên cao hơn.
Sau một đêm ngủ chập chờn, mới mờ sáng chiếc Falcon đã lại lướt gió, nuốt vội đường trường. Những cánh đồng còn chìm trong một biển sương trắng đục mênh mông. Những toán dân vệ đi thành hàng lặng lẽ trên những bờ ruộng thấp, mũi súng chĩa xuống đất. Một đêm tối bất trắc đã qua, mọi người đón nhận ánh sáng mặt trời, vui mừng như giữa những thời xa xưa loài người còn cư ngụ trong hang đá.
Xe nhẫn nại bỏ lui lại những xóm làng. Xe hớn hở lượn theo vòng đèo, xe mê mải bò lên những dốc cao. Ánh nắng đã lên, nhuộm hồng những tàu lá cau, nhuộm vàng những ruộng lúa. Tôi không có cách nào trì níu thời gian, chiếc kim đồng hồ cứ lặng lẽ quay vòng và khi xe tôi ngút hơi đậu lại chân núi nơi địa điểm của giới đàn thì mặt trời đã lên cao.
Trễ giờ rồi. Tôi không còn hi vọng nắm giữ lấy đôi tay Chương và đổ ra những giọt nước mắt để bắt anh lưỡng lự, khí giới của tôi chỉ có thế. Tôi hơ hãi leo lên triền núi, đặt chân bất kể lên những viên đá gập ghềnh. Những bụi me đất, những đám lá dang lá bìm bìm bò vô tư dưới chân những cây mít cao. Lối đi thoai thoải rải rác lá vàng, lẩn quất dưới những tàn cây âm u.
Leo được nửa dốc, tôi mệt quá ngồi bệt xuống một tảng đá. Đằng nào thì cũng đã trễ rồi. Bóng người lao xao ở đỉnh núi, di động rộn ràng. Tiếng tụng kinh chậm rãi, tiếng mõ gõ nhịp đều đều được máy phóng thanh chuyền vang xuống núi. Tôi gượng đứng dậy bước tiếp. Vài người lên xuống cùng chia với tôi lối đi hẹp. Tôi bước lên những bực cấp xây bằng đá. Tôi vịn tay lên đường lan can bằng xi măng. Tôi bước lên những bước cuối cùng.
Người đi dự lễ mặc áo dài nghiêm trang đứng nhấp nhô ỡ dãy nhà trù, ở hiên nhà khách, ở sân chùa chen chúc bụi trúc khóm tùng. Tôi len vào giữa những thân người, tôi luồn vào giữa những thân cây. Tôi đi lần tới chánh điện. Uy nghi lặng lẽ, một tượng Phật lớn thếp vàng ngồi tĩnh tọa trên đài cao. Phía dưới nhiều vị sư đắp y vàng ngồi nghiêm trang sau những chiếc bàn thấp sắp dàn ra hai bên. Nơi bàn giữa dưới chân tượng Phật, một vị Đại lão hòa thượng đang chậm rãi cân nhắc từng tiếng giữa cái im lặng mênh mông, cái im lặng mắc kẹt dưới những góc bàn chân ghế, cái im lặng rung rinh trên đầu người :
- Các giới tử ! Phật vì đại sự nhân duyên mà ra đời cho nên nói ra không lường pháp môn, tám vạn bốn ngàn diệu nghĩa ... (tôi đang nhích tới để nhìn cho rõ mặt vị Đại lão hòa thượng) ... tóm lại không ngoài ba môn học là giới, định, huệ. Song huệ do định mà phát, định nhờ giới mà sinh, công năng sinh ra giới ... Các bậc Thánh nhờ giữ giới mà chứng Bồ đề, chư Phật do nơi giới mà thành Chánh giác.
Tôi đưa mắt nhìn sang đám đông gần ba trăm vị sư trẻ đang quì trật tự trước lễ đài, cúi đầu lắng tai. Không cần hỏi ai tôi cũng biết đó là những ông Sa di. Tôi vội vàng rời chỗ đứng đi lần về phía giới trường đó.
Những ông Sa-di mặc áo tràng màu xám. Vì giới trường hẹp, họ sắp thành mười mấy hàng, mỗi hàng gần hai mươi ông. Tôi điểm mặt từng người một để tìm khuôn mặt của Chương.
Hàng đầu : một, hai, ba, tư, năm ... mười ba, mười bảy... Không có.
Hàng nhì : một, hai, ba, tư ... mười lăm, mười sáu. Không có.
Hàng ba : một, hai ... năm ... bảy ... mười hai ...
Hàng tư : một, hai ... tám ... chín ......
Tim tôi đập rộn ràng. Lạy Trời đừng có Chương. Sự thể sẽ không quá chậm đâu miễn là không có Chương trong đó. Tôi sẽ chấp nhận mọi điều kiện của Chương, tôi sẽ không cần đám cưới linh đình, tôi sẽ ở cạnh Chương giúp anh vượt qua những khổ não chập chùng đang bủa vây anh. Tôi sẽ quày xe lại đi ngay ra Trung tìm anh, tôi sẽ tự lái xe lấy và lần này kim tốc độ sẽ chỉ tám mươi cây số là cùng, bởi chưng tôi yêu đời, bởi chưng tôi quý trọng sự sống.
Hàng chín : một, hai... tám... mười bảy... Không.
Hàng mười : một, hai... mười bốn, mười lăm... Không.
Hàng mười một : Một... Tim tôi nhói lên. Mắt tôi hoa đi. Tôi vội bấu tay vào khung cửa. Chương đó. Rõ ràng là Chương đó. Tôi nhìn anh trừng trừng. Anh cúi đầu lắng nghe pháp ngôn của Hòa Thượng.
- Nay các vị nguyện bỏ thế tục theo phép xuất gia, vượt khỏi thường tình là không lạy cha mẹ. Song các vị phải nhớ bốn ân đức lớn trong giờ phút này phải chuyên tỉnh lễ tạ, về sau không còn lạy nữa.
Có tiếng phát ra từ loa phóng thanh :
- Giới tử xoay về hướng Bắc lễ tạ bốn ơn.
Những tấm lưng cúi xuống, quì lạy, đứng lên, rồi lại nhịp nhàng cúi xuống, cuồn cuộn như những lượn sóng nhấp nhô. Lạy Tạ cha mẹ! Phải lắm, cha mẹ "sinh thành chi đức", công lao như bể trời. Tôi nghe người ta nói "cát ái từ thân", nhưng cát ái từ thân đâu phải chỉ có cắt đứt tình thương đối với cha mẹ. Nơi những quả tim kia chỉ có tình thương cha mẹ thôi sao? Chương ơi, thế em không có một chỗ đứng nào trong trái tim của anh sao? Sao anh không lẩm nhẩm nói tiếp lời Hòa thượng rằng : "Còn riêng con, con xin lạy thêm một lạy để tạ từ..." Không, không, anh tha lỗi cho em, em không dám đòi hỏi một cái lạy của anh. Tình yêu không có nghĩa gì hết. Đối với cha mẹ, từ giờ phút này anh đã xin cắt đứt bổn phận rồi mà. Bốn cái lạy cuối cùng hướng về cha mẹ trả nghĩa sinh thành. Từ nay dù cha mẹ anh có từ trần, anh cũng không được quyền quì lạy trước bàn thờ nữa. Anh đã cắt đứt mọi dây liên lạc tìm cảm, cắt đứt mọi bổn phận riêng tư, như cái cây đã bứt lìa hết mọi lớp rễ chằng chịt bám vào lòng đất và thay vào đó, cây sẽ nhú ra những lớp rễ mới, bám vào những sinh môi mới. Em thuộc vào sinh môi cũ của anh. Đã cắt đứt lìa rồi. Hai giọt nước mắt lặng lẽ lăn trên má tôi.
Cùng với các vị Sa-di, anh vừa tụng niệm bốn lời thệ nguyện vừa quỳ lạy liên hồi:
Chúng sinh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Anh lạy vụng hơn mọi người, luôn luôn quỳ gối chậm hơn và đứng dậy cũng chậm hơn. Có hồi vướng víu gấp gáp, anh lúng túng sắp ngã. Nhưng anh đã gượng lại được. Nhìn anh quỳ lạy mà lòng em xót xa. Quỳ lạy là cái hình thái khiêm tốn cùng cực, hạ mình cùng cực, là xóa bỏ cái ngã mạn to lớn mà ngoài đời, trước kia anh đã dựng lên với tất cả niềm kiêu hãnh. Bây giờ, ở giữa chốn này, anh xếp lại đôi cánh đại bàng.
Giọng trầm trầm của Hòa thượng chủ lễ :
- Các giới tử, cái y này tiếng Phạn gọi là Ca sa. Mặc y này có thể giải thoát tham, sân, si... Tôi nay trao y này cho các vị, các vị phải gia pháp mà thọ trì.
Tiếng Hòa thượng vừa dứt, mỗi Sa-di lần mở chiếc y vàng mới tinh còn nguyên lằn xếp choàng vào người, choàng ra ngoài chiếc áo xám đang mặc. Gần ba trăm vị vươn tay duỗi vai, xốc cổ vuốt lưng... đã tạo ra một sinh hoạt rộn ràng. Nhiều vị lúng túng trong việc tháo cái dải áo và cột lại dải áo. Nhiều vị vội vàng, xỏ tay lộn ngược. Chương là một trong những người lúng túng. Ngoài đời anh vẫn vậy. Anh như con hải âu bay vượt trùng dương, thách thức bão tố, nhưng để đứng trên boong tàu thì chỉ làm trò cười cho lũ thủy thủ độc ác nhỏ nhen.
Một vị Tỳ kheo đứng cạnh đó đã tiến lại choàng chiếc y vàng lên vai anh. Vị đó còn ân cần buộc dải áo giúp anh và vuốt thẳng bâu áo. Xin cảm tạ vị Tỳ kheo rộng lòng lân mẫn. Chương hôm nay chỉ còn quý vị để giúp đỡ, để an ủi. Ngày trước đôi mắt tôi chọn ca-vát cho anh. Đôi tay tôi chọn bít-tất cho anh. Mũi tôi chọn nước hoa cho anh. Hôm nay thì những món kể trên trở thành kỷ niệm. Hòa thượng lúc nãy có trao giới tướng :
- Các ông suốt đời không đeo tràng hoa thơm, không xoa ướp dầu thơm vào người, không xem nghe ca múa hát xướng, không ngồi giường cao, không tham chứa vàng bạc...
Mọi giới cấm đều không nặng đối với Chương. Khi ở ngoài đời anh cũng chỉ bị nhuộm màu đời một cách lợt lạt. Luôn luôn anh là kẻ phong phú trong suy tưởng mà bần cùng trong hưởng thụ.
Khi các vị Sa-di đã tề chỉnh y vàng đứng sát cạnh nhau thì cái quang cảnh giới trường bỗng sáng rực hẳn lên. Màu vàng rực rỡ, màu của tâm niệm giải thoát, màu của Đông Nam Á Châu tràn đầy ánh nắng và tràn đầy khổ đau. Chương bây giờ đã hòa mình vào cái khối màu vàng kia rồi. Anh lẫn lộn trong đó, anh biến mất trong đó, không thể chỉ nhìn sau lưng mà biết được anh, không thể chỉ nhìn dáng đi mà biết được anh. Mà bây giờ cho dù có nhìn rõ mặt, thì anh cũng đã không còn là anh nữa rồi. Anh đã thay đổi khác rồi.
Tiếng chuông trống đổ hồi chấm dứt buổi lễ. Các Sa-di sắp hàng một đi vòng trước sân chùa, đi theo một hành lang dài để về các liêu. Từ một góc hoa viên, đoàn nhã nhạc bốn người mặc áo đen dài luân phiên nhau thổi những điệu kèn thật buồn. Tôi rời chỗ đứng, đi ra phía hành lang, ẩn mình dưới một gốc trắc bách diệp.
Đoàn Sa-di lần lượt đi qua, áo vàng rực rỡ, mắt nhìn xuống đất, chân bước khoan thai. Tiếng kèn thánh thót, tiếng kèn nỉ non như dẫn dụ gót chân, như nâng nhẹ gót chân, những gót chân trần chạm nhẹ trên nền xi măng.
Một vị Sa-di đi qua, gương mặt nông dân nặng và chắc. Tiếp tới một vị nét mặt ngây thơ, tuổi chưa đến 18. Một vị mày rậm và dài, mắt xếch như môn sinh của một Thiếu lâm tự. Một vị gầy gò mảnh khảnh tuổi có đến 30. Một vị đẫm thấp mập mạp dáng khoan dung yêu đời. Một vị da mặt đen đúa lấm tấm nhiều mụn. Chương lững thững đi tới kia. Luôn luôn nét mặt anh rạng rỡ và dáng dấp uy nghi. Không một cử động dư. Anh đi ngang qua chỗ tôi đứng. Ánh sáng nơi khuôn mặt bất động làm tôi bỗng nhiên bối rối kinh sợ. Tự nhiên tôi quỳ xuống.
Hành động bất ngờ khiến có người lao xao di chuyển gần tôi. Họ đoán một biến động, phòng ngừa một bạo động. Tôi phải giơ tay ra hiệu cho họ yên tâm. Tôi không muốn xáo động những bước chân của Chương. Lúc nãy tôi có ý định đợi khi anh đi qua tôi sẽ khẽ gọi tên anh. Tiếng gọi sẽ khua động cả tâm thức anh, sẽ chấn động cả tâm linh anh, sẽ phá đổ cả cái mặt biển bình lặng của tâm hồn anh hiện tại. Tôi tự tin bởi tôi biết tôi ngự trị nơi cái vùng trời Quá Khứ của anh. Nhưng khi nhìn ánh sáng nơi khuôn mặt bất động của anh, tôi vụt thấy tôi là kẻ bại trận. Vô nghĩa, phù du là tình yêu của một người đàn bà, là chính ngay người đàn bà. Trời ơi! Một con phù du vừa có ảo vọng ngông cuồng là vỗ cánh lên để làm giật mình một con sư tử.
Bóng của Chương đi khuất, nối tiếp theo là những bóng khác, cũng chậm rãi đều đặn theo một nhịp điệu êm êm, mê hoặc của giọng kèn nỉ non. Tôi vẫn cứ quỳ đó bất động, bất lực, cảm thấm thía lần đầu tiên thân phận phù du của mình ./.
Bạn không có quyền gửi bài viết Bạn không có quyền trả lời bài viết Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn Bạn không có quyền tham gia bầu chọn