Gửi: Tue May 14, 2013 6:54 pm Tiêu đề: BÉ HỌC LÀM THƠ - VÕ HỒNG
BÉ HỌC LÀM THƠ - VÕ HỒNG
"Lộc Bắc Tặng Hậu Duệ Duy Tân"
Bài 1: Thể thơ Lục Bát
Nguyễn Thị Hạ Uyên là cô bé láng giềng ở kề sát nhà tôi. Một hôm ngày tháng Mười, cô bé từ bên sân nhà nói với sang:
- Thầy ơi! (tôi vốn làm nghề thầy giáo nên thường được tặng không tiếng Thầy) cô giáo Như Nguyện bắt bọn con làm báo tường nhân ngày 20 tháng 11. Phải làm văn, làm thơ, viết truyện.
- Làm thơ nữa hả ? Nếu muốn, qua đây thầy bày cho.
Tôi giảng cho em thế nào là Bằng (những chữ không có dấu giọng & chữ có dấu huyền), thế nào là Trắc (những chữ có dấu sắc, hỏi, ngã, nặng), thế nào là hiệp vần (ví dụ: Heo, Mèo hiệp với nhau, Lương, Trường, Phường hiệp với nhau). Tôi viết lên tấm bản đen nhỏ:
b B t T b B (hiệp vần 1)
b B t T b B (hiệp vần 1) t B (vần 2)
b B t T b B (hiệp vần 2)
b B t T b B (hiệp vần 2) t B (hiệp vần 3)
Tôi giảng:
Chữ B và T viết hoa thì phải tuân theo răm rắp, còn chữ b và t viết thường thì không bắt buộc y theo. Ðể dễ nhớ có thể mượn câu này "Nhất tam ngũ bất luận. Nhị tứ lục phân minh" nghĩa là chữ thứ 1-3-5 thì sao cũng được, còn chữ thứ 2-4-6 thì phải thật đúng. Trong câu Bát (câu 8 chữ), tuy cùng Bằng nhưng một chữ có dấu huyền và một chữ không dấu :
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ Tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau
....
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Tôi bảo Hạ Uyên lấy tên các bạn trong lớp mà lắp vào dưới các chữ Bằng (B) và Trắc (T).
- Dễ lắm! Cứ Trâm là Bằng, Hải là Trắc. Khoa hiệp vần với Thoa với Hòa với Tòa .... Nào, em chép tên các bạn lên tờ giấy này. Gắng nhớ và chép cho đủ.
Hạ Uyên ngồi lặng lẽ ghi. Nơi trán khoảng giữa hai mắt hằn lên một nếp nhăn. Sau mươi phút em trao cho tôi tờ giấy. Tôi lẩm nhẩm đọc. Rồi nói :
- Thầy chọn giúp em mấy cái tên hiệp vần với nhau:Trang hiệp với Hoàng. Chương hiệp với Tường và Hường. Còn những tên khác thì hễ Trắc thì ghi dưới T, Bằng thì ghi dưới B. Nhớ: dưới chữ t và b thì không bắt buộc phải đúng Bằng Trắc.
Kết quả sau 15 phút lắp ghép:
b B t T b B (vần 1)
Ân Bình Cảnh Chức Dung Trang
b B t T b B (vần 1) t B (vần 2)
Danh Ða Gia Huấn Hiệp Hoàng Hội Chương
b B t T b B (vần 2)
Kim Khôi Lan Mạnh Nam Tường
b B t T b B (vần 2) t B (vần 3)
Oanh Phùng Quý Toản Xuân Hường Vũ Uyên
Trước khi chia tay tôi mới cho em biết rằng em vừa làm thơ Lục Bát. Ông Nguyễn Du cũng làm vậy. Chắc chắn cô bé không dám tin rằng đó là sự thực. Nếu bài này làm ở lớp thì khi đọc lên cả lớp sẽ thích thú vỗ tay reo liền. Nhưng không phải là học sinh của lớp thì đọc lên rời rạc vô nghĩa. Nên tôi ra thêm một đề khác " những trái cây bày bán trong chợ". Kết quả chắc chắn sẽ vui hơn.
Hôm sau em trao cho tôi kết quả:
b B t T b B (vần 1)
Hành Ngò Ớt Tỏi Tiêu Dừa
b B t T b B (vần 1) t B (vần 2)
Mít Cam Quít Ổi Chuối Dưa Kiệu Hành
b B t T b B (vần 2)
Gừng Riềng Nghệ Sả Bưởi Chanh
b B t T b B (vần 2) t B (vần 3)
Sầu riêng Vú sửa Cam sành Chôm chôm
Rõ ràng là kết quả rất ... ngon miệng.
Bài 2: Bài thơ Lục Bát đầu tiên gửi Ba
[Võ Hồng - Bé học làm thơ ]
Trên tờ báo tường của lớp Năm A trường Tân Lập kỷ niệm ngày Hiến chương các nhà giáo có đăng bài thơ Lục bát của Hạ Uyên:
Tình thầy trò đẹp huy hoàng
Như bông hoa Huệ, hoa Lan thắm màu
Phận trò luôn nhớ làu làu
những lời cô dạy trước sau nằm lòng
Tôi khen:
- Hay quá há. Hiệp vần đúng. Chữ dùng chính.
.....
Thấy Hạ Uyên yên lặng, tôi nói:
- Ðó như em thấy đó, làm thơ cũng không nổi quá khó. Câu nhập đề em có thể viết bằng nhiều cách, chẳng hạn "Tình thầy trò đẹp muôn màu ... tình thầy trò đẹp mhư hoa..." Có thể viết cách khác "Nhân ngày kỷ niệm Hiến chương " hoặc "Nhớ ơn cô giáo dạy mình" hoặc "Công cha nghĩa mẹ ơn thầy" ... Các câu sau cũng vậy. Biết bao nhiêu cách đặt câu, miễn đúng Luật Bằng Trắc và câu sau phải hiệp vần với câu trước. Cái khó là tìm cho được ý hay, chọn cho được lời hay. Làm thơ thiệt hay mới khó chớ làm thơ cho có thì dễ.
Hôm sau tôi bảo Hạ Uyên:
- Ba em đang làm vườn ở mãi Long Khánh. Em thường viết thư thăm. Lần này em hãy viết thư dưới dạng thơ Lục bát đi.
Hạ Uyên le lưỡi:
- Ai dám! Con biết gì mà dám làm thơ ?
Tôi khuyến khích:
- Thì cứ bắt đầu làm ... dở dở. Cứ viết như thường. Sau đó mình ngắt ra làm 4 câu. Chú ý chữ thứ 2-4-6-8 phải Bằng. Rồi chữ thứ 6 của câu Lục và chữ thứ 6 của câu Bát phải hiệp vần với nhau. Nào, bắt tay ngay. Em viết thư ngắn cho Ba em đi. Muốn thăm, muốn chúc, muốn hứa gì, tùy ý, như em vẫn viết.
Hạ Uyên nghe lời, - tánh dễ thương ở chỗ đó, - cầm giấy bút hì hục ngồi viết. Sau mười phút trao cho tôi tờ giấy. Nội dung:
Nay con kính gởi lời thăm ba thân thương được mạnh giỏi.
Cầu mong vườn cà - phê xanh tốt và đàn heo gà phát triển.
Năm qua con có cố gắng siêng học.
Cuối niên khóa được lên lớp thẳng và conđược tuyên dương toàn trường.
Tôi chỉ lên tấm bản đen nhỏ, nơi đó có Luật Bằng Trắc còn ghi rõ, chưa xoá. Góp ý với Hạ Uyên bỏ bớt đôi chữ. Ðổi chữ "phát triển" (T) bằng chữ "bình yên" (B) cho đúng vần Bằng. Lộn chữ "siêng học" thành "học siêng" để hiệp vần: yên và siêng. Thay chữ "tuyên dương" bằng chữ "khen" cho hiệp đúng vần (siêng và khen). Kết quả cuối cùng:
Nay con kính gởi lời thăm ba thân thương được mạnh giỏi.
Cầu mong vườn cà phê xanh tốt và đàn heo gà bình yên.
Năm qua con có cố gắng học siêng.
Cuối niên khóa được lên lớp thẳng và con được khen toàn trường.
Hạ Uyên lẩm nhẩm đọc lại rồi hít mũi, có vẻ như mắc cỡ . Riêng tôi thầm nghĩ: chắc chắn là ở Long Khánh, ông Nguyễn Hanh, cha của Hạ Uyên sẽ nghi ngờ đôi mắt mình khi đọc bài thơ, bởi không biết đây là sự thật hay là chuyện giả, chuyện chiêm bao. Vì thật khó mà tin rằng con gái nhỏ của mình đã làm được ... như vậy. Nó mới mười một tuổi thôi mà. Mới nhõng nhẽo bắt mình ẵm chạy quanh sân đây mà.
***Tự Thực Tập nhé !
good job !
1 2 3 4 5 6 7 8
b B t T b B (hiệp vần 1)
b B t T b B (hiệp vần 1) t B (vần 2)
b B t T b B (hiệp vần 2)
b B t T b B (hiệp vần 2) t B (hiệp vần 3)
"Nhất tam ngũ bất luận. Nhị tứ lục phân minh" nghĩa là chữ thứ 1-3-5 thì sao cũng được, còn chữ thứ 2-4-6 thì phải thật đúng .
Chúc Hậu Duệ Duy Tân Thành Công .
Được sửa bởi MAI THO ngày Thu May 16, 2013 11:17 pm; sửa lần 1.
Gửi: Thu May 16, 2013 10:37 pm Tiêu đề: BÉ HỌC LÀM THƠ - VÕ HỒNG
BÉ HỌC LÀM THƠ - VÕ HỒNG
"Lộc Bắc Tặng Hậu Duệ Duy Tân"
Bài 3: Thể Tứ Tuyệt (luật Bằng vần Bằng)
Hôm nay Hạ Uyên tập làm thơ Tứ Tuyệt, luật Bằng vần Bằng.
Nhắc lại: Căn cứ vào chữ thứ 2 của câu đầu, nếu là Bằng thì gọi là luật Bằng, nếu là Trắc thì gọi là luật Trắc.
Chẳng lẽ cứ Gà Vịt Heo Bò lôi ra hoài, tôi đề nghị lấy tên những loài hoa cho nó ... nên thơ một chút. Kết quả:
b B t T T B B (vần)
Sen Ðào Huệ Cúc Trúc Mai Lan
t T b B t T B (vần)
Vạn Thọ Hồng Nhung Thược Dược Trang
t T b B B T T
Mỏm sói Tầm xuân Lài Cẩm Chướng
b B t T T B B (vần)
Phù dung Dạ lý Bụt Ngâu Xoan
Coi vậy chớ kiếm cho ra 3 tên hoa có cùng vần "an" để hiệp vần không phải dễ, nên không thể không khen Hạ Uyên.
Ðã quen làm hai lần, lần này Hạ Uyên cũng tự động làm bài "Chân dung em bé Nu". Bé Nu là em bé láng giềng lên một tuổi rưỡi, đang tập đi, mới tập nói.
Cũng lại bắt đầu viết bằng văn xuôi: "Bé Nu thấp lùn, chân cụt ngủn, cái bụng tròn vo. Mới một tuổi rưỡi mà bé thuộc được chữ O. Bé ưa vặn cái khóa cửa, ưa ngồi vọc cát, ưa ăn mứt gừng rồi hít hà. Người bé yếu nên trở trời là hay sốt với ho". Sau đó tới việc sắp xếp, lật tới trước, lộn ra sau, bớt chữ thêm chữ sao cho hợp với luật Bằng Trắc và luật hiệp vần. Cuối cùng tạm thoả thuận với nhau rằng:
Tả bé Nu:
Bé Nu chân ngắn bụng tròn vo
Tuổi rưỡi mà đã thuộc chữ O
Rất thích mứt gừng, ưa vặn khóa
Trở trời hết sốt lại ngồi ho.
Nghe cũng được! Tôi bảo Hạ Uyên:
- Thể thơ này gọi là Tứ Tuyệt. Ông Lê Thánh Tôn cũng làm y vậy.
Cố nhiên là em chẳng biết Lê Thánh Tôn là cái ông nào, làm gì, ở đâu. Chỉ biết có đường Lê Thánh Tôn chạy thẳng từ Ngã sáu Nhà Thờ xuống biển. Vậy thì ông này ắt cũng làm chức lớn.
Bài 4: Thể Tứ Tuyệt (luật Trắc vần Bằng)
[Võ Hồng - Bé học làm thơ ]
Tôi viết cấu trúc 4 câu Tứ Tuyệt, luật Trắc vần Bằng và bảo Hạ Uyên lấy tên những con vật lắp vào dưới những chữ B chữ T.
Nhắc lại: những chữ không dấu hoặc có dấu Huyền là Bằng (B), có dấu Sắc, Hỏi, Ngã, Nặng là Trắc (T). Chữ thứ 2 của câu đầu, nếu là Bằng thì gọi là luật Bằng, nếu là Trắc thì gọi là luật Trắc.
Ðể thêm thích thú, tôi đề nghị:
Câu 1: Những con thú sống trên rừng
Câu 2: Những con vật nuôi trong nhà
Câu 3: Những con chim bay trên trời
Câu 4: Những con vật sống dưới nước
Hạ Uyên làm y theo. Và sau đây là kết quả:
Trong vườn Ðịa đàng:
t T b B t T B (vần 1)
Gấu Sói Nai Voi Cá Cọp Beo
b B t T T B B (vần 1)
Trâu Bò Chó Chuột Ngựa Dê Heo
b B t T b B T
Vịt Gà Ngan Ngỗng Cu Cò Cút
t T b B t T B (vần 1)
Cá Ốc Cua Tôm Cá Mực Mèo
Thật thoải mái khi tìm tên các loài chim bay thú chạy. Nhưng sang phần những con vật sống dưới nước thì kiếm hoài chẳng thấy tên con nào hiệp vần "eo". Bí quá đành lấp ẩu con ... mèo! Hy vọng trong tương lai khoa học sẽ phát hiện một giống Mèo nước như đã từng có: Ngựa nước (Hà mã), Chó nước (Hải cẩu).
Rút kinh nghiệm lần trước làm bài thơ Lục Bát gởi thăm cha, lần này tôi đề ra đề "chân dung tự họa" bằng cách lắp chữ vào cái sườn Bằng Trắc tôi đã bày.
Chân dung tự họa:
Mới đó mà tôi đã lớn hung
Nhớ hồi năm tuổi chạy lung tung
Tết đi theo mẹ ra coi chợ
Tiếng nói inh tai, pháo nổ đùng
Thú thật là tôi cũng có "viện trợ". Nhưng cũng chủ cỡ mười lăm phần trăm.
Bài 5: Thể Tứ Tuyệt vần Trắc
[Võ Hồng - Bé học làm thơ ]
Một hôm sau tôi bảo Hạ Uyên:
- Luôn trong mấy kỳ, em thấy hợp vần thì phải là vần Bằng. Thông thường là như vậy chớ không nhất thiết. Vẫn có thể hiệp vần Trắc, như bài sau đây mà nhiều người thuộc
Nùng Nhị từ xưa mở đất cõi
Nghìn năm vượng khí nơi đô hội
Người đủ hạng người, trò đủ trò
Ðua nhau thanh lịch cũng lắm lối
Người ta gọi thể này là Luật Trắc (Nhị) Vần Trắc (Cõi)
Tôi liền viết cấu trúc một bài Tứ Tuyệt Luật Trắc vần Trắc và mời Hạ Uyên lắp chữ. Hai hôm sau em luồn qua khe cửa trao tờ kết quả:
Chị thân thương của em:
Chị cả ở nhà quen gọi Trúc
Học về chịu khó lo bếp núc
Cơm, canh, xào, nấu, luộc, quay, ram ...
Bưng lên anh Hải tha hồ xúc
Anh Hải hoàn toàn không ngờ con em tinh nghịch đang "chọc quê" mình. Cứ tay rỉa ghi-ta miệng ê a hát "em ơi nếu mộng không thành thì sao ..."
***Phần thực tập :
Thơ Tứ Tuyệt, luật Bằng vần Bằng
b B t T T B B (vần)
t T b B t T B (vần)
t T b B B T T
b B t T T B B (vần)
Thơ Tứ Tuyệt (luật Trắc vần Bằng)
t T b B t T B (vần 1)
b B t T T B B (vần 1)
b B t T b B T
t T b B t T B (vần 1)
(cố gắng, cố gắng, cố gắng & Có công mài sắt, có ngày nên kim)
Gửi: Sun May 19, 2013 4:48 pm Tiêu đề: Thất ngôn bát cú Ðường Luật & Song Thất Lục Bát
BÉ HỌC LÀM THƠ - VÕ HỒNG
"Lộc Bắc Tặng Hậu Duệ Duy Tân"
Bài 6: Thất ngôn bát cú Ðường Luật
và Song Thất Lục Bát
Ðã trót đa mang, đã lỡ sanh sự bày làm thơ Lục bát và Tứ tuyệt rồi thì - phóng lao phải theo lao, - đành bày tiếp thể Thất ngôn bát cú. Chớ không thì sao nó cứ ấm ức, làm như mình mắc nợ. Vả chăng cứ biết "Heo là Bằng Chó là Trắc" rồi thì có thể loại nào dám tự xưng là khó? Cái khó là chọn được ý hay, chọn được lời hay chớ với cái lối tiếp xúc làm quen thô thiển này thì đến các thể Sớ, Tấu, Cáo, Biểu... e rằng Hạ Uyên cũng chẳng ngán.
Nghĩ vậy, tôi liền lặng lẽ viết b B t T theo cấu trúc một bài Thất ngôn bát cú Ðường luật rồi trao cho Hạ Uyên. Kèm theo trái xoài. Có chú thích, nhưng chỉ chú thích phần trái xoài: "Xoài Cát đó, ngọt lắm". Còn phần thơ văn thì cứ coi theo tờ giấy mà lắp chữ, mà thực hiện. Cứ theo đơn đặt hàng - dựa theo chú thích bên tay phải - "Các món nàng ăn, những thức uống... " mà tùy nghi lắp chữ Bằng hay Trắc.
Như do một phép lạ nho nhỏ, hai ngày sau, tờ giấy được đưa lọt qua khe cửa. Tôi đọc:
Nghĩ về một người
b B t T T b B (vần 1)
Chiên Xào Kho Nướng Luộc Cơm Canh (Các món nàng ăn)
t T b B t T B (vần 1)
Bia rượu Cà Phê Nước đá chanh (Những thức uống)
t T b B B T T
Son phấn Nước hoa Keo xịt tóc (Món trang sức)
b B t T T B B (vần 1)
Thun Len Xoa xuýt Lụa tơ Lanh (Hàng may mặc)
b B t T b B T (vần 1)
Xi nê Nhạc hội Ban khiêu vũ (Món tiêu khiển)
t T b B t T B (vần 1)
Tứ sắc Bài cào Xóc dĩa sành (Môn bài bạc)
t T b B B T T
Nói tục Ăn hàng Chôm Chỉa Chửi (Những tật xấu)
b B t T T B B (vần 1)
Ngu Khờ Khôn Dại Láu Tinh ranh (Ðủ loại tính nết)
Thừa thắng xông lên, hôm sau tôi lại đưa một bản b B t T nữa. Và khi hồi âm, tờ giấy mang nội dung này:
Ngôi nhà em
B b T t B b T (vần 1)
Ðường vô xóm có con mương nhỏ
b B b T T (vần 1) b B (vần 2)
Hai bên đường mọc cỏ cùng cây
b B t T b B (vần 2)
Nhà em mái ngói cổng xây
b B t T b B (vần 2) t B (vần 3)
Trong sân vịt chạy thành bầy thiệt vui
Tôi vuốt tóc em, khen:
- Giỏi lắm. Thầy định không nói, sợ làm rộn óc em, nhưng cuối cùng không giữ được. Ðó là: bài "Nghĩ về một người" là theo thể Thất ngôn bát cú Ðường luật. Bài "Ngôi nhà em" là theo thể Song thất lục bát. Nghe có oai không? Nhưng thôi, biết đại khái cho vui vậy thôi, để lên lớp 9, lớp 10 em sẽ học.
Gửi: Fri May 24, 2013 4:45 pm Tiêu đề: Thể thơ Ngũ ngôn & Tam ngôn
Bài 7: Thể thơ Ngũ ngôn
BÉ HỌC LÀM THƠ - VÕ HỒNG
"Lộc Bắc Tặng Hậu Duệ Duy Tân"
Hạ Uyên kêu tôi:
- Thầy ơi, có cái bài thơ này đây, trong cuốn Giảng văn cũ của má con. Thơ gì mà ngó ốm nhách.
- Sao lại có thơ ốm nhách? Thơ hay thơ dở chớ sao lại có thơ mập ốm?
Mỗi câu chỉ có 5 chữ nên bài thơ ngó dài ngoẵng. Ðây con đọc cho thầy nghe:
Giỏi thay Trần Quốc Toản
Tuổi trẻ dư can đảm
Dốc bụng báo hoàng ân
Cả gan bình quốc nạn
- À, biết rồi. Tại mỗi câu chỉ có năm chữ. Ðây thầy hỏi em: bảy chữ, chữ Nho gọi là Thất ngôn, vậy năm chữ gọi là...?
- Tứ ngôn.
- Trật lất. Tứ mới có bốn. Ngũ mới là năm. Thể thơ vừa rồi là thơ Ngũ ngôn.
Hạ Uyên nài nỉ:
- Thầy bày cho con đi! Thầy dạy con...
- Không dạy cũng biết. Dễ lắm. Cứ bài Thất ngôn, con cắt bỏ hai chữ đầu của mỗi câu. Thử lấy bài "Heo... Gà" làm thí nghiệm.
Hạ Uyên chạy lục kiếm bài thơ. Rồi dõng dạc đọc:
Trong vườn Ðịa đàng: NGŨ NGÔN (Trong vườn địa đàng)
Gấu Sói Nai Voi Cá Cọp Beo Nai Voi Cá Cọp Beo
Trâu Bò Chó Chuột Ngựa Dê Heo Chó Chuột Ngựa Dê Heo
Vịt Gà Ngan Ngỗng Cu Cò Cút Ngan Ngỗng Cu Cò Cút
Cá Ốc Cua Tôm Cá Mực Mèo Cua Tôm Cá Mực Mèo
Tôi không ngờ kết quả hấp dẫn hơn tôi đã nghĩ, nên tôi bảo: Ngũ ngôn hóa nuôn bài tả bé Nu.
Hạ Uyên không đợi nài:
Tả bé Nu: NGŨ NGÔN ( Tả bé Nu )
Bé Nu chân ngắn bụng tròn vo Chân ngắn bụng tròn vo
Tuổi rưỡi mà đã thuộc chữ O Mà đã thuộc chữ O
Rất thích mức gừng, ưa vặn khóa Mức gừng, ưa vặn khóa
Trở trời hết sốt lại ngồi ho. Hết sốt lại ngồi ho.
Sang bài "Trăm hoa khoe sắc". Ðang ở thể Thất ngôn luật Bằng vần Bằng mà cắt thành Ngũ ngôn thì hoá thành luật Trắc vần Bằng. Hạ Uyên đọc:
Trăm hoa khoe sắc NGŨ NGÔN (Trăm hoa khoe sắc)
Sen Ðào Huệ Cúc Trúc Mai Lan Huệ Cúc Trúc Mai Lan
Vạn Thọ Hồng Nhung Thược Dược Trang Hồng Nhung Thược Dược Trang
Mỏm sói Tầm xuân Lài Cẩm Chướng Tầm xuân Lài Cẩm Chướng
Phù dung Dạ lý Bụt Ngâu Xoan. Dạ lý Bụt Ngâu Xoan.
Không bỏ lỡ bài thơ tặng, Hạ Uyên cố ý đọc to cho chị và anh nghe:
Chị thân thương của em NGŨ NGÔN (Chị thân thương của em)
Chị cả ở nhà quen gọi Trúc Ở nhà quen gọi Trúc
Học về chịu khó lo bếp núc Chịu khó lo bếp núc
Cơm, canh xào, nấu, luộc, quay, ram... Xào, nấu, luộc, quay, ram...
Bưng lên anh Hải tha hồ xúc. Anh Hải tha hồ xúc.
Sau một giây im lặng, tôi nói:
- Vậy đó, muốn làm thơ Ngũ ngôn thì cứ theo cái cấu trúc Thất ngôn, cắt bỏ 2 chữ đầu. Hôm nay thầy thêm 3 cách hiệp vần khác, do ảnh hưởng của cách hiệp vần trong thơ Pháp. Ðó là:
1: Chữ chót của câu 1 hiệp vần với chữ chót của câu 2
Chữ chót của câu 3 hiệp vần với chữ chót của câu 4
2: Chữ chót của câu 1 hiệp vần với chữ chót của câu 3
Chữ chót của câu 2 hiệp vần với chữ chót của câu 4
3: Chữ chót của câu 1 hiệp vần với chữ chót của câu 4
Chữ chót của câu 2 hiệp vần với chữ chót của câu 3
Nghe thì rùm beng. lộn đầu. Áp dụng ngay thì thấy dễ. Nào, nói là làm. Em làm 4 câu Ngũ ngôn, hiệp vần theo cách thứ nhất (tạm gọi là Vần liền). Ðề: "Tả em Cuội".
Tả em Cuội
Da trắng và mắt trong
Tóc nâu và môi hồng
Nhỏ mà ưa chải chuốt
Chữ O đọc không thuộc.
Áp dụng hiệp vần theo cách thứ hai (tạm gọi là Vần chéo). Ðề:
"Tả con chó nâu".
Con chó nâu của em
Vừa sủa vừa chạy lui
Giữ nhà cái kiểu đó
Tối: xó bếp ngủ vùi
Vậy cũng lãnh chức chó.
Áp dụng hiệp vần theo cách thứ ba (tạm gọi là Vần ôm). Ðề: "Ngày rằm lên chùa". Kết quả:
Ngày rằm lên chùa
Rằm theo Ngoại lên chùa
Nghe tiếng kinh tiếng mõ
Xạc xào nghe tiếng gió
Chốc chốc tiếng chuông khua.
Khi sắp chia tay Hạ Uyên bảo tôi:
- Thầy bày luôn cho con thể Tam ngôn.
- Là cái gì?
- Tam nghĩa là ba. Thơ Thất ngôn cắt đi 2 chữ thành Ngũ ngôn. Nay thơ Ngũ ngôn ta cắt đi 2 chữ thì ắt thành Tam ngôn.
Tôi cười:
- Em có ý hay đó. Nhưng tổ tiên mình thì gọi nôm na nó là Hò vè bình dân. Như ở quê thầy trẻ nhỏ thường hát:
Tập tầm vông Chị ăn cá Chị mút mật
Chị lấy chồng Em ăn xương Em nút ve
Em ở vá Chị nằm giường Chị ăn chè
Em nằm đất Em liếm chén
Nhìn xuống đồng hồ thấy đã năm giờ rưỡi, tôi liền cười vừa cuối đầu chào:
Gửi: Wed May 29, 2013 1:26 pm Tiêu đề: Bài 8: Thể thơ mới
Bài 8: Thể thơ mới
Bài 8: Thể thơ mới
BÉ HỌC LÀM THƠ - VÕ HỒNG
"Lộc Bắc Tặng Hậu Duệ"
Lần này thì không phải là Hạ Uyên, mà là Trúc, người chị rất thân thương của Hạ Uyên. Trúc rụt rè trao tôi tờ giấy, vừa nói:
- Thầy coi dùm, bài thơ kiểu gì vậy?
Tôi chuẩn bị để đọc một lời đe dọa "khát máu", kiểu thách đấu gươm của thế kỷ thứ 16. Nhưng không. hiền hòa. thơ mộng:
Mình nhớ hoài: một buổi sáng tàn Ðông
Ai đó đơn sơ màu áo len hồng
Mái tóc xỏa dài, ngồi đùa với cháu
Sau lưng, vạn thọ chớm nở vài bông
Ðợi tôi ngẩng lên, Trúc hỏi:
Bài thơ kiểu gì vậy thầy? Thể gì vậy? Con có hỏi con Hạ Uyên, nó lên mặt khôn, nói: "Ðường luật đây chớ gì. Thất ngôn luật Trắc (nhớ) vần Bằng (Ðông). Nhưng khi đếm lại thấy lòi dư một chữ. Bà nhỏ nghẹn họng.
Tôi không nén được tiếng cười "hà hà" vừa nói:
- Tưởng nó đính chính ngay: "thơ Bát ngôn chớ gì". Chuyên viên đếm chữ đặt tên là nó.
Vẻ mặt Trúc trầm ngâm:
- Con muốn hiểu cách đặt loại thơ này.
- Ðể chi? Thi tốt nghiệp trung học đâu có đòi hỏi?
- Nhưng mà con muốn làm.
- À, biết rồi. Bài này của "ảnh" chớ gì. Muốn họa lại ảnh chớ gì. Ðược. Chắc Hạ Uyên đã bày lại cho em căn bản luật thơ rồi. Chữ chót của câu 1-2-4 hiệp vần với nhau: Ðông, Hồng, Bông. Mỗi câu thường được ngắt làm 3 nhịp như ở thơ Thất ngôn. Nhưng khác là số chữ ở mỗi nhịp không bắt buộc (khi thì 3, khi thì 2) miễn sao mỗi câu có đúng 8 chữ.
- Sao có loại thơ "khỏe" vậy?
- Nó chịu ảnh hưởng ở thơ Pháp, mà chặng 1940 ta gọi là thơ Mới. Tiếng Pháp không có thanh Bằng thanh Trắc, chỉ cần hiệp vần ở thanh chót của mỗi câu. Như đen (chandelle: cây đèn) hiệp với ben (belle: đẹp). Như lăng (filant: kéo sợi) hiệp với giăng (émerveillant: ngạc nhiên) (1). Các chữ ở giữa câu thì tha hồ, chỉ cần đếm đủ 12 âm hay 8 âm (họ gọi là chân: pied).
- Nhưng đọc luôn một hơi 12 tiếng thì mệt lắm, hụt hơi. Phải ngắt nhịp chớ.
- Ðúng vậy. Tiếng ta giàu âm thanh nên ta giữ cái ưu điểm của ta, ta ngắt làm 3 nhịp. Và thường là .. B.. T.. B (vần) hoặc... T.. B.. T (vần). Uấy, nói ra thì nó dài dòng, lôi thôi, rối rắm. Bắt tay cụ thể thì dễ hơn. Nào, em làm bài trả lời. Ðặt câu đầu: 8 chữ. Ngắt làm 3 nhịp. Chữ chót vần Bằng.
Vẻ mặt Trúc nghiêm trang. Ngồi xoay qua trở lại. Ngần ngừ rồi rụt rè xoá bỏ. Ngó ra sân rồi ngó xuống sàn nhà. Một lát sau, bẽn lẽn đọc:
- Xuân đang về chậu Cúc đã đơm hoa
- Hay đó. "hoa" vần oa. Nếu kiếm không ra thì dùng vần a cũng được.
Trúc tiếp liền:
- Thược dược rung rinh trước những hiên nhà
- Hay lắm, câu thứ 3 thì dễ hơn vì không cần phải hiệp vần. Nào...
Trúc loay hoay. Lạ. Không cần hiệp vần, bất chấp Bằng Trắc, chỉ kiếm đủ 8 chữ nói về chuyện Tết chuyện Xuân. Dễ quá mà. À, có thể vì dễ quá mà con người không thích. Phải tìm cho ra cái khó để có nét độc đáo. Nhưng kìa, Trúc trao tờ giấy cho tôi. Có viết câu thơ thứ 3: Tết sẽ đem về niềm vui phấn khởi.
- Tuyệt! Có thể thay chữ phấn khởi bằng chữ rộng khắp chẳng hạn. Cho nó giản dị, bớt công thức: Tết sẽ đem về niềm vui rộng khắp. Chữ khắp cũng bắt đầu bằng KH như chữ Khởi.
Biết tôi chọc quê, Trúc mĩm cười, tôi dục:
- Còn câu chót?
- Vui ở thôn gần, vui mãi làng xa
Bỗng có tiếng chuông gọi cổng. Tôi vội vàng đứng dậy.
- Vậy là em hiểu đại cương. Áp dụng ngay đi. về hỏi Hạ Uyên 3 cách hiệp vần (vần liền, vần chéo, vần ôm) rồi em làm theo. Ðề tự chọn (cũng như đánh số Ðề vậy mà!). Rồi em đưa thầy coi. Bây giờ để thầy đi mở cổng tiếp khách.
(1) Bài thơ à Hélène của Ronsard:
Quand vous serez bien vieille, au soir, à la chandelle
Assise auprès du feu, devidant et filant
Lisant, chantant mes vers en vous émerveillant
Ronsard me célébrait du temps que j'etais belle
Tạm dịch: Khi em già đi, buổi tối dưới ánh đèn
Ngồi cạnh lò sưởi vừa quay tơ kéo sợi
Em đọc thơ anh, ngâm nga và ngạc nhiên
Ronsard đã ca tụng ta khi ta đang đẹp.
Bài 9: Thể thơ mới (tiếp theo)
Võ Hồng - Bé học làm thơ
Buổi chiều Hạ Uyên được chị phái cầm tờ kết quả (lại y như kết quả xổ số kiến thiết). Tôi đọc:
Hai người bạn nhỏ (vần liền)
Sát nhà tôi, có Thanh Hải, Nhật Thành
Ðứa mập, đứa gầy, nhưng rất thông minh
Sáng sáng đèo xe đem gởi nhà trẻ
Mặt mày buồn thiêu vì phải xa mẹ.
Nhớ Ba (vần chéo)
Con nhớ lắm, con nhớ nhiều... Ba đó
Ở nơi xa, Ba có nhớ con không?
Những buổi trưa mưa, những chiều lộng gió
Con nhớ Ba, nhớ quá, nhớ vô cùng
Dòng sông quê hương (vần ôm)
Sáng hôm nay em đứng lặng nhìn sông
Dòng nước trắng mênh mông im lặng chảy
Hai bên bờ, gió lay hàng lau sậy
Nằm xa xa, xanh mướt những ruộng đồng
Tôi nói vói qua rào:
- Vậy là Trúc đã giàu rồi. Biết 4 cách để làm thơ Mới. Mà phàm cái gì đã gọi là Mới thì nó có quyền và có bổn phận phải mới hoài. Như có một cách này ông Xuân Diệu hay dùng: chữ chót của câu 4 vần Trắc sẽ hiệp vần với chữ chót câu 1 của đoạn thơ tiếp sau. Ðây:
Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây
Ðể linh hồn ràng buộc với muôn dây
Hay chia xẻ bởi trăm tình yêu mến
.....
Ðây là quán tha hồ muôn khách đến
......
Có ông đặt câu thơ chỉ 2 chữ:
Sương rơi
nặng trĩu
trên cành
dương liễu
......
Có ông xếp bài thơ thành hình thoi:
Mưa
Lưa thưa
Ai khóc tả tơi
Giọt lệ tình đau xót
.....
Long lanh trong tim hoa
Ai ươm mơ sầu
Ôi mong manh
Trong tim
Ta
- Nhưng thôi, biết chơi đại khái vậy là đủ rồi.
Im lặng một giây. Chợt giọng Trúc bên kia rào:
- Thầy này. .... Khi tìm chữ để hiệp vần, nhiều ý mình định nói thì chữ dùng lại không chịu hiệp đúng vần, nên con chắc người làm thơ nhiều khi đành nói sai sự thiệt. Buổi sáng chia tay nghe tiếng bìm bịp kêu, nhưng vì câu trên là "lệ buồn hoen mắt người đi", phải hiệp vần i nên đành lấy con chim họa mi thay con chim bìm bịp: "Thôn xa vẳng tiếng họa mi đổ dồn". Ði trong vườn phải vạch lách nhánh lá, nhưng vì cần vần Bằng mà đành đổi lại là nâng niu cành hoa! Do vậy khi đọc thơ, con khen tác giả có tài, khéo lựa chữ hay, tạo dựng hình ảnh đẹp chớ con chưa tin đó là sự thấy thiệt, cảm xúc thiệt.
Tôi thật không ngờ cô bé giỏi Toán giỏi Lý mà lại cũng tinh tế về văn chương như vậy. Cô Hélène trong bài thơ của Ronsard, khi già ngồi bên lò sưởi dưới ánh đèn, có thể vừa quay tơ vừa đập muỗi, nhưng vì chữ đập muỗi trong tiếng Pháp chiếm tới 3-4 âm chẳng hạn mà số âm còn thiếu chỉ có 2, nên ông phải dùng chữ kéo sợi, 2 âm để thay.
Nhìn Trúc hôm nay làm dáng có băng đô hồng, tôi đùa:
- Nhưng khi làm thơ tặng "ảnh" thì không được vì kẹt vần, dùng chữ vụng mà làm ảnh buồn. Chẳng hạn:
Yêu anh, em nhớ giọng hò
Nghe du dương tựa... tiếng bò đòi rơm
Trúc và tôi cùng cười. Tôi tiếp:
- Chỉ vì kẹt vần thôi, nhưng mà "ảnh" đâu có chịu hiểu dùm. Em muốn ví giọng "ảnh" du dương như giọng Ngọc Sơn, giọng Tú Trinh, nhưng âm ƠN (Sơn) âm INH (Trinh) đâu có hiệp vần được với O (hò)? Khổ quá!
Trúc mắc cỡ:
- Thầy thiệt!
TB:
Hết phần "Bé Học Làm Thơ"
Đây là tâm huyết của Lộc Bắc & Mai Hữu Thọ đối với HẬU DUỆ
Mong rằng Hậu Duệ cố gắng học & hành để trở thành những Thi Sĩ rạng danh trong tương lai .
Gửi: Sat Jun 01, 2013 1:34 pm Tiêu đề: DS, THI SĨ LỘC BẮC
XIN GIỚI THIỆU VỚI ĐẠI GIA ĐÌNH DUY TÂN VÀ THÂN HỮU, CHÂN DUNG CỦA "DS KIÊM THI SĨ LỘC BẮC", NGƯỜI QUAN TÂM RẤT NHIỀU ĐẾN HẬU DUỆ CỦA CHÚNG TA . (NGƯỜI ĐỨNG GIỮA TRONG HÌNH).
MHT
Gửi: Wed Jun 26, 2013 4:45 pm Tiêu đề: BÉ HỌC LÀM THƠ
I. TIẾNG BẰNG, TIẾNG TRẮC
Theo chữ Quốc Ngữ , thì Tiếng BẰNG là những tiếng có giọng êm dịu và có thể đọc kéo dài ra được, như chữ không có dấu huyền (bằng cao), và chữ có dấu
huyền (bằng thấp) . Tiếng TRẮC là những tiếng có giọng ngắn ngủn , không đọc dài ra được, như những tiếng có chữ C , CH , P , T đứng ở cuối tiếng và
những tiếng có dấu sắc, ngã , hỏi, nặng . Vì âm hưởng tiếng Bằng và tiếng Trắc , khác nhau như thế cho nên phải xếp những tiếng ấy cho khéo thì mới tạo
thành ra một thứ âm điệu nghe hay và dễ đọc . Nếu không, khì đọc lên sẽ sượng và nghe chướng tai .
II. TIẾNG BỔNG TIẾNG TRẦM
Trong những tiếng bằng và tiếng Trắc , tiếng nào cũng có thứ tiếng BỔNG và tiếng TRẦM .
1. Tiếng BỔNG trong tiếng Bằng là những tiếng KHÔNG có dấu
Ví dụ: chữ La
Tiếng TRẦM là những tiếng Có dấu huyền.
Ví dụ: chữ Là
Khi ta đọc chữ La và chữ Là tuy hai chữ cùng là tiếng bằng, song hai chữ đó có âm giọng khác nhau, chữ Là nghe thấp giọng hơn chữ La
2. Tiếng BỔNG trong tiếng Trắc là những tiếng có dấu sắc và dấu ngã
Ví dụ: Lá , Lã
Tiếng TRẦM là những tiếng có dấu hỏi và đấu nặng
Ví dụ: Lả , Lạ
Nếu chúng ta biết sắp xếp đúng tiếng Trầm và tiếng Bổng thì bài thơ nghe du dương hơn . Dầu vậy khi làm thơ Lục Bát . Nếu trong câu Bát chữ thứ 6 là tiếng
Trầm thì chữ thứ 8 phải là tiếng Bổng và ngược lại.
III. VẦN
1. Làm thơ thì phải có vần thì đọc nghe êm và trôi chảy . VẦNnghĩa là tiếng này với tiếng kia có cùng âm-hưởng.
Tiếng bằng vần với tiếng bằng, tiếng trắc vần với tiếng trắc, khi hai tiếng đồng một giọng phát âm thì thành vần được.
Hai tiếng không đúng vần với nhau thì âm điệu sẽ lạc như vậy là trái luật thơ
- Những tiếng có chữ nguyên âm như: a, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư đứng ở cuối tiếng, thì theo tiếng bằng tiếng trắc mà vần với tiếng khác cũng có một chữ nguyên-
âm đồng loại đứng ở cuối tiếng
- Những tiếng có chữ phụ âm như: c, ch, m, n, ng, nh, p, t đứng cuối tiếng, thì nhất định phải vần với tiếng khác cũng có phụ-âm đồng loại đứng ở cuối tiếng
2. Mỗi loại vần ấy lại chia ra làm hai thứ vần, là vần chính và vần thông
a.Vần chính
• Vần chính của vần bằng - là những tiếng cùng đồng một âm vần với nhau như: ơ vần với ơ, ân vần với ân hay uôn vần với uôn
Ví dụ:
Hôm nay tôi học làm thơ
Ðọc xong đường luật muốn mờ mắt luôn
Khi làm thơ phải cho suông
Luật thơ Bằng Trắc vô khuôn Âm Vần
• Vần chính của vần trắc- là những tiếng cùng đồng một âm vần trắc với nhau như : ở vần với ở , ước vần với ước
Ví dụ:
Nhìn cúc tím vàng tươi chợt nở
Giống tình anh mới trở cơn say
Anh ở đó luôn chờ đợi ước
Mùa Thu nào sẽ bước bên nhau
b. Vần thông
Vần thông là những tiếng tuy không cùng một âm như các vần chính , nhưng có thể hợp để vần với nhau , do nơi sự vận dộng của môi và lưỡi khi phát âm
nghe gần như giống nhau nên người ta gọi là vần thông .
Sau đây là những vần ta có thể thế vô cho vần để được linh hoạt hơn trong khi làm thơ .
• Vần thông của vần bằng
- Những vần thông có chữ nguyên-âm đứng ở cuối tiếng
Vidụ a, ơ --> thông với nhau được
Vần thông ghép chữ như là
Đi chung được với chữ tờ này đây
Ví dụ: ơ, ư
Ơ Ư cũng dễ lắm cơ
Bây giờ bạn ráp chữ thư được mà
Ví dụ: e, ê, i
Nhờ E có nghĩa là nhe
Gờ hÌ ta có ôm ghì đầu thôi
có ai nhức đầu hong vậy ?
Thêm câu hỏi cái chữ gì ?
Vì vô đây học nhớ về vần thông
Ví dụ: o, ô, u
Hôm nay trời có mưa to
Nhớ mở nắp hồ cho nước chảy vô (lục bát biến thể )
Đầy rồi thì hứng thêm lu
Phòng khi cúp nước khỏi lo sợ gì
Ví dụ: ai, ay
Mong rằng trời nắng ngày mai
Bao nhiêu bạn đến hăng say làm bài
ai, oi, ôi, ơi, ươi, ui
ao, eo, êu, iêu, iu, ưu
- Những vần thông có phụ âm đứng cuối tiếng
am, ơm --> đi chung với nhau được
ăm, âm
êm, im
an, ơn
ăn, ân, uân
en, in, iên, uyên
on, ôn, uôn
on, un
ang, ương --> nhưng không đi được với uông
ăng, âng , ưng
ong, ông, ung
uông, ương
anh, ênh, inh --> đi chung với nhau được
• Vần thông của vần trắc
é, ị --> đi chung với nhau được
ổ, ũ
ọ, ủa
ĩa, uệ
áo, iễu
ói, ủi
ác, ước
ấc, ực
ạm, ợm
ặn, ẩn
óng, úng
ật, ắt
ật, ứt
út, uốt
** Có bốn điều hệ-trọng nên nhớ trong sự gieo vần quốc-ngữ
1.- Trong sự gieo vần quốc-ngữ, có ba âm: a, ă, â ghép với một phụ-
âm (c, m, n, p, t) thành một âm ghép như:
ac, ăc, âc
am, ăm, âm
an, ăn, ân
ap, ăp, âp
at, ăt, ât
Những vần ghép ấy chỉ thông được với nhau khi có cùng một phụ âm đứng trước
ví dụ:Bát thông được với bắt, bất mà không thông được với cắt , cất,
mắt, mất
Lam đi với lăm, lâm, nhưng không thông với băm, bâm, trăm, trâm
Quan đi với quăn, quân, nhưng không thông với chăn, chân, nhăn, nhân v.v... Đó là do cách hiệp vận do âm-điệu điều-hoà mà thành lệ
2. . Khi có vần ghép bằng hai hay ba chữ nguyên-âm với một phụ-
âm đứng cuối như: iên, uyên, uân, uôn, thì người ta lấy hai chữ cuối cùng làm vận căn mà gieo vần, cho nên
en, in vần với yên, uyên
ân vần với uân
ơn vần với oan
on vần với uôn
. khi có vần ghép bằng hai chữ nguyên-âm với hai chữ phụ-âm đứng cuối như ương, thì người ta lấy ba chữ cuối cùng làm vận căn mà gieo vần, cho nên
ang thông với ương, uông thông với ương nhưng không thông với ang, vì a không thông được với ô
3.- Khi có vần ghép bằng hai hay ba nguyên-âm đứng cuối thì người ta theo âm điệu mà lấy một hay hai chữ nguyên âm làm vận căn, như:
oa, oe, uê, uy thì vận căn ở chữ a, e, ê, y, cho nên
oa vần với a
oe vần với e
uê vần với ê
uy vần với i
uây vần với ây
Những vần ia, uya, ua, ưa , thì vận căn lại ở chữ i, y, u, ư (uu tien hon van a) mà chữ a đứng ở cuối tiếng không có ảnh-hưởng gì cả .
4.- Hai tiếng đồng âm và đồng nghĩa thì không vần được với nhau, song hai tiếng tuy đồng âm mà khác nghĩa, tức là hai tiếng khác
Bạn không có quyền gửi bài viết Bạn không có quyền trả lời bài viết Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn Bạn không có quyền tham gia bầu chọn