Cacao hay Cocoa? Hơi đâu mà thắc mắc!
Nguyên liệu mới hái, chưa biến chế: cacao
Sau khi đã được biến chế: cocoa
Chocolat, tốt cho sức khỏe?
Chocolat được sản xuất ra từ chất cacao và có chứa flavonoid. Đây là chất chống oxy hóa antioxidant nằm trong hạt cacao. Rất tốt để bảo vệ sức khỏe tim mạch. Flavonoid cũng được thấy hiện diện trong rượu chát đỏ, trà xanh và các loại dâu berries.
Vấn đề nói chocolat tốt hay xấu cho sức khỏe cũng còn phải tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Nếu quy trình biến chế càng kéo dài thì flavonoid càng bị giảm đi, và chocolat cũng mất đi giá trị của nó đối với sức khỏe.
Bởi những lẽ trên, nên chocolat đen chứa nhiều flavonoid nên được xem là tốt nhất.
Nói chung các khảo cứu khoa học giá trị đều nhìn nhận chocolat đen rất tốt cho bệnh tim mạch, giúp giảm áp huyết và cholesterol xấu LDL.
Chocolat cũng tốt cho sức khỏe tinh thần. (phsychological well beeing). Ăn chocolat thường xuyên sẽ cảm thấy được vui sướng hơn (?). Người gõ nghĩ rằng đây chỉ là quảng cáo mà thôi.
Thế nào là ăn quá nhiều kẹo chocolat?
Thật ra các nhà khoa học không thể ấn định được một số lượng tối hảo cho sức khỏe. Tuy rằng khoa học đã đưa ra những kết quả rất khích lệ về chocolat nhưng cần nên nhớ nó là nguồn calorie, chất béo và đường. Vậy chỉ nên ăn “vừa phải” mà thôi.
Chocolat đen hay chocolat sữa?
Thông thường chocolat đen chứa từ 56% đ ến 70% cacao. Chính nồng độ cacao quyết định độ đắng của chocolat
40gr sản phẩm chocolat đen (loại có 70% cocoa dark chocolate) có chứa
- calories 213
- chất béo fat 16 gr
- chất béo bão hòa saturated fat (xấu) 11 gr
- đường 12 gr
Nhiều nhà sản xuất chocolat trong mùa Giáng sinh không sử dụng chocolat đen thuần túy, nhưng thay vào đó bằng những loại chocolat sữa chứa rất nhiều đường.
Chocolat đen chứa ít calorie hơn hai loại chocolat sữa và chocolat trắng.
Chocolat trắng là gì?
Đây là dẫn xuất (derivatives) của chocolat. Chocolat trắng rất giàu bơ cocoa (cocoa butter), đường và sữa rắn (solid milk). Chocolat trắng có màu vàng lợt, hay màu ngà ngà (ivory appearance).
Độ tan (melting point) của bơ cocoa (một thành phần chính cụa hạt) rất cao để có thể giữ cho chocolat được cứng trong nhiệt độ bình thường và cứng vừa đủ để tan trong miệng.
Cách chế biến chocolat trắng.
Chocolat trắng không có chứa các phần cứng của hạt cocoa. Đây là dưỡng chất chính của rượu chocolat (chocolate liquor).
Phần chất rắn sậm màu của hạt được tách ra khỏi phần chất béo. Khác với các loại chocolat bình thường (conventionnal chocolate), ở chocolat trắng các phần chất rắn không được kết hợp trở lại.
Bởi lẽ này mà chocolat trắng không có chứa tính chống oxy hóa..
Thông thưòng, phần bơ cocoa được khử mùi để loại bỏ ra những hương vị khó chịu.
Tại Anh quốc, thí dụ điển hình là chocolat trắng mang tên Milkybar.
Mặc dù được sản xuất theo cách chocolat sữa và chocolat đen nhưng chocolat trắng không có chứa chất rắn (cocoa solids).
Môt số sản phẩm trên thị trường có thể tạo sự ngộ nhận với chocolat trắng. Các sản phẩm nầy được sản xuất ra từ những chất rắn rẻ tiền, hoặc từ các loại chất béo thực vật được thủy phân hóa hoặc từ mỡ động vật (hydrogenated vegetable and animal fat). Đây là những chất béo xấu. Chúng đều có màu trắng nhưng không có ánh ngà ngà (ivory shadow) như loại chocolat trắng thật sự được. Đồng thời chúng cũng không có hương vị của bơ cocoa (cocoa butters flavor).
Kể từ 2004, Hoa kỳ ấn định chocolat trắng phải có chứa ít nhất 20% bơ cocoa, 14% sữa rắn (milk solids), 3, 5% chất béo sữa, và không được chứa hơn 55% đường hay các chất ngọt khác.
Liên Âu cũng áp dụng theo tiêu chuẩn Hoa Kỳ ngoại trừ họ không giới hạn tỉ lệ đường cho thêm vào sản phẩm. (Viết theo tài liệu White chocolate. Wikipedia).
Làm sao biết được một chocolat tốt?
Hãy đọc kỹ nhãn hiệu và nhìn bản nguyên liệu ingredients sử dụng. Chữ cocoa solid hay cocoa mass phải được liệt kê trước tiên chớ không phải là chất đường.
Nên chọn những thỏi chocolat nào có chứa 70% cocoa hay nhiều hơn.
Cẩn thận với những chocolat tinh chế, áo đường bên ngoài (high processed, sugar coated). Đây chỉ toàn là calories rỗng empty calories không bổ dưỡng vì chứa quá ít cocoa và flavonoid.
Caffeine và Chocolat
Theo tài liệu của công ty chocolat Hershey, caffeine là một chất kích thích tự nhiên của hạt café và hạt cacao. Số lượng caffeine trong sản phẩm chocolat thay đổi tùy theo nguyên liệu có chứa caffeine.
Bột xay ra rừ hạt cacao chứa một tỷ lệ caffeine cao nhất tiếp theo là bột chocolat không đường để làm bánh (unsweetened baking chocolate). Các thỏi chocolat (chocolate bar) chứa những tỷ lệ caffeine rất thay đổi tùy theo loại sản phẩm. Chocolat sữa tương đối chứa rất ít caffeine. Thí dụ thỏi chocolat sữa Hersheys loại 1, 55 ounces chứa 12mg caffeine tương đương với 3 tách café loại decaffinated coffee.
Nói thêm về caffeine và sức khỏe.
Nên nhớ là caffeine không những chỉ thấy trong café mà còn được thấy hiện diện trong một số nước giải khát và trong các loại bánh, kẹo có chứa chocolat...
Đối với các bà trong thời kỳ mãn kinh cũng cần nên hạn chế cà phê, vì nó có khuynh hướng làm tăng nguy cơ bệnh loãng xương. Nếu uống nhiều cà phê và uống thường xuyên, caffeine có thể làm tăng cholesterol trong máu, gây nhức đầu, tim đập nhanh và đập không đều, hồi hộp, bồi hồi, lo âu, mất ngủ, tăng huyết áp, tăng nhịp thở, tăng chất acide chlorhydrique làm xót bao tử, ợ chua, tiêu chảy và có thể tăng nguy cơ bị sạn thận (kidney stone), v. v...
Cà phê và trà là chất lợi tiểu, kích thích thận khiến đi tiểu nhiều. Có người còn cho rằng trà hiệu“Thái Đức” là đặc biệt nhất vì tối mà lỡ uống nó thì phải thức dậy giữa đêm để đi tè thường xuyên hết còn ngủ nghê gì được!
Caffeine có khuynh hướng làm tăng nhu động ruột, bởi vậy sáng sớm sau khi làm một ly cà phê thì một hồi là mắc... ị ngay.
Nhưng uống cà phê nhiều quá cơ thể sẽ bị mất nước gây táo bón. Caffeine cũng kích thích não giúp chúng ta tỉnh táo hơn và giúp chúng ta bớt buồn ngủ. Các nhà khoa học cho biết là trong cơ thể, về mặt hóa học caffeine thuộc nhóm xanthine. Để có thể tác động, khi vào cơ thể caffeine liền chiếm cứ các thụ thể (receptors) của chất adenosine cũng thuộc nhóm xanthine và chất nầy lại do não tiết ra, khiến adenosine không thể hoạt động được. Bình thường adenosine dự phần trong việc tổng hợp ATP là nguồn năng lượng của cơ thể.
Ngoài ra, adenosine còn là chất làm êm dịu (neuromodulator) hệ thần kinh trung ương và gây buồn ngủ. Bởi vậy khi uống cà phê vào buổi tối thì thường hay bị mất ngủ là vì lẽ adenosine bị mất tác dụng. Cà phê làm tăng công suất của các bắp cơ, nhờ vậy giúp giảm một cách tạm thời cảm giác mệt mỏi. Các tác dụng vừa kể của cà phê cũng có thể thay đổi tùy theo mỗi cá nhân. Có người chỉ cần uống một tách cà phê là bị mất ngủ, nhưng cũng có người khác thì dù có làm hai ba tách cũng chưa thấy nhằm nhò gì.
Kết luận
Tránh mua các loại sản phẩm rẻ tiền chứa toàn đường, chất béo xấu, dầu dừa, chất bảo quản hóa học nhưng không có hoặc chứa rất ít bơ cacao... Nên chọn những loại chocolat chất lượng và phẩm chất cao cho dù phải trả một giá hơi đắt một tí.
Qua cách đó, chúng ta hy vọng có thể đóng góp được phần nào vào sự xoa dịu bớt nỗi thống khổ của người dân Châu Phi. /.
Nguyễn thượng Chánh, DVM