TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG :: Xem chủ đề - THẦY DẠY NĂM XƯA
TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG
Nơi gặp gỡ của các Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Phan Rang - Ninh Thuận
 
 Trang BìaTrang Bìa   Photo Albums   Trợ giúpTrợ giúp   Tìm kiếmTìm kiếm   Thành viênThành viên   NhómNhóm   Ghi danhGhi danh 
Kỷ Yếu  Mục Lục  Lý lịchLý lịch   Login để check tin nhắnLogin để check tin nhắn   Đăng NhậpĐăng Nhập 

THẦY DẠY NĂM XƯA

 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Truyện Ngắn, Bút Ký, Tạp Ghi...
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Người Post Đầu Thông điệp
Thanh Dao
Cựu Giáo Sư Duy Tân


Ngày tham gia: 18 Jul 2008
Số bài: 1201

Bài gửiGửi: Thu Aug 16, 2012 4:00 pm    Tiêu đề: THẦY DẠY NĂM XƯA
Tác Giả: THANH ĐÀO



     
    THẦY DẠY NĂM XƯA
                            THANH ĐÀO
 
 

     Chuyến du lãm năm nay sang miền Nam Cali thăm con gái, thân hữu và tham dự Picnic Duy Tân Hè 2012, cũng như Đi Tour Sea World rất thú vị và bổ ích. Chúng tôi may mắn liên lạc qua đường dây điện thoại với một sồ Thầy, từng dạy Trung Học Duy Tân Phan Rang năm xưa. Tình cờ chúng tôi gặp GS Tôn Nữ Nộn Ngân, dạy tại đây từ năm 1960- 64, sau đó cô thuyên chuyển về công tác tại Đà Nẵng- Quảng Nam cho gần nhà. Nhờ cô cho địa chỉ và số điện thoại của quý Thầy Lê- văn –Tâm và Dương Đức Phương. Thầy Tâm năm nay đã qua niên kỷ “ Bát thập cổ lai hy”. Thầy là cựu sĩ quan Quân Lực VNCH. Thầy bị thương hai lần. Do vậy, hiện nay sức khỏe tàn tạ, đi lại khó khăn. Con Thầy ngụ tại Miền Bắc Cali. Còn Thầy ở Westminster, Miền Nam cùng tiểu bang. Thầy cho biết mới xuất viện vài hôm. Thầy yếu lắm, nên không thể tham dư Đại Hội THDT. Trước kia Thầy dạy môn Việt Văn lớp Đệ Lục 2, có tôi theo học, niên khóa 1956-57, mặc dù Thầy học Ban Toán. Lúc đó có nhiều Thầy từ Huế vào dạy như Thầy Phương, hai Thầy Sơn, Thầy Thứ, Thầy Hiến, Thầy Lê Văn Tâm, Thầy Nguyễn Thanh Tâm
( Thầy này là nhà văn nổi tiếng, có tác phẩm xuất bản.  bút danh Nhị Thanh Nguyễn Hà. Thầy từng chỉ tôi quy luật thơ 8 chữ ). Lúc ấy hai Thấy Tâm và Thầy Thứ thuê nhà Ông Nguyễn Sĩ Ngạc, công chức Tòa Hành Chánh PR. Họ cư ngụ tại Cầu Nước Đá. Còn Thầy Nguyễn Khắc Ngữ, GS Toán, nhà văn, nhà biên khảo, nhà sử học, chỉ tôi qui luật của thơ Thất Ngôn Bát Cú. Những Thầy dạy thể dục lúc bấy giờ như Thầy Lang, người Nam, đô con, Trưởng Ty Thanh Niên Thầy Hùng, người Bắc. Thầy này hiền khô, dạy rất tận tình Học sinh mến thương Thầy vô cùng Thầy là nhân viên Ty Thanh Niên lúc ấy. GS Nguyễn Xuân Giễm, gốc Bắc, đẹp trai dạy Anh Văn và Pháp Vặn Sau Thầy trở thành Kỹ Sư Công Nghệ. Thầy se duyên với nữ GS dạy TH Võ Tánh Nha Trang con Thầy Bửu Cân . GS Trần Dưyệt, lai Pháp, dạy Anh Văn . Sau Thầy Duyệt chuyển về làm việc tại Sài Gòn . GS Khiêm, Quảng Nam, dạy Lý Hóa, Vạn Vật. Bạn của anh Phan Văn Hòa, học cùng lớp với tôi lúc bấy giờ .
                          ooo
   Sau này Thầy Nguyễn Thanh Tâm thi đỗ kỹ sư công nghệ. Thầy Lê Văn Tâm về Huế thi đậu ĐHSP. Thầy cho biết mình đậu cả hai ban. Ban Thường Xuyên 3 năm và Ban Cấp Tốc 1 năm. Nhưng Thầy bỏ Ban Thường Xuyên, theo học Ban Cấp Tốc vì có bạn thân là Thầy Thứ thi đỗ ban này. Vì thân hữu mà Thầy hy sinh mình. Sau khi ra trường Thầy về dạy THDT, rồi Thầy động viên đi Thủ Đức như bao thanh niên khác trong thời chiến tranh tương tàn ý thức hệ Bắc- Nam. Thầy Phương cũng dạy THDT như Thầy Tâm dù không dạy tôi. Thầy cho biết dạy anh em Văn Kỳ Chương- Văn Kỳ Nam. Hai người này thông minh học giỏi sau trở thành BS. Hai Thầy Sơn, một Thầy giỏi nhạc và đàn Violon sau thi đỗ vào trường Kỹ Sư Công Nghệ Sài Gòn như Thầy Tâm nói trên. Còn Thầy Sơn kia có nước da ngăm, sau theo học Đại Học Khoa Học khi biệt phái về Bộ QGGD, Thầy cho biết vậy. Thầy Ngữ sau tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm, Ban Sử Địa. Thầy dạy TH Phan Bội Châu Phan Thiết rồi Võ Trường Toản SG. Một số GS gốc Bắc Hà. ngoài Thầy Nguyễn Quãng Tuân, Hiệu Trưởng và Thầy Ngữ,  như Thầy Đặng Hữu Kha, Thầy Trần Nho Mai, Thầy Nguyễn Thúc Hội, Thầy Nguyễn Đức Thai, Thầy Bùi Hữu Soái ( học trò cũ của Thầy Tuân )  Cô Nhâm, Thầy Nguyễn Thế Văn, Thầy Trụ, Cô Nam ( vợ Thầy Dương. Thầy Dương sau làm Quận Trưởng Quận Hàm Thuận, Phan Thiết) Tôi chỉ nhớ những Thầy dạy mình hay bạn bè cùng cấp lớp từ năm 1955 đến 1959.  Sau đó, tôi chuyển đi học trường xa, ngoài tỉnh Ninh Thuận. Một số GS tốt nghiệp Trường Quốc Gia Sư Phạm SG, về dạy từ năm 1958 như GS Nguyễn Ngọc Lâm, GS Khánh, GS Phan Thị Lệ Hoa., GS Phan Văn Thanh.. Thầy Đinh Minh, gốc Bình Định, dạy Pháp Văn và Việt Văn sau làm Tổng Giám Thị.
Trước đó có GS Trần Trọng Khoái,  người Huế, dạy Việt Văn. Thầy Tôn Thất Ái Huyên, Thầy Trương Thành Khuê cũng Huế, dạy Anh Văn. Sau đó những GS này chuyển đi nơi khác. Đặc biệt Thầy T. người Huế dạy Toán lúc bấy giờ . Thầy có chiếc lỗ mũi to quá cỡ thợ mộc. Mặt Thầy luôn đò ngầu như say rượu. Học sinh trông thấy Thầy là tức cười rồi . Tuy nhiên Thầy thích tếu . Thầy thường  đưa hai tay vỗ bàn cái rầm dù lớp học im lặng, kể cả lúc học sinh đang làm bài thi.  Sau này chúng tôi khám phá ra, sở dĩ thầy làm thế là vì Thầy đang đánh rấm cái bốp. Nếu không làm thế thì học sinh biết liền, xấu hổ, mất mặt bầu cua cá cọp ông giáo Thế là học sinh cười ngặt nghẽo mỗi lần Thầy T vỗ bàn . Thầy T ơi! Chúng em thương nhớ Thầy lắm đó ! Hiện tại Thầy ở đậu ? Kính chúc Thầy T an vui khỏe mạnh tếu như xưa nhé!
Ngoài ra còn có các Thầy  Nguyễn Tiêm (sau làm Giám Học THDT)  , Thầy Nghiêm, Thầy Trần Văn Điền, Thầy Võ Hinh, quê Nha Trang. Thầy Bùi Bổng, Huế. Thầy Duyên, thân phụ của anh Phạm Hoàng Chương ( Chương là bạn học cùng cấp lớp với tôi lúc ấy, sau là GS TH Đệ Nhị Cấp, dạy DT ) là GS dạy môn Sử Địa nổi danh của các trường DT,  Nguyễn Công Trứ và Lê Lợi trước kia. Thầy Duyên cũng dạy các môn khác như Toán... Thầy có trí nhớ tuyệt vời. Thầy thường giảng thuộc lòng bài học cho học sinh ghi chép.
   Về sau có một số GS về dạy THDT tôi được biết như các GS Thủy Tiên, chồng là Dược Sĩ Hà, quê PR. GS Thủy Tiên là em vợ của GS Ngậc. GS Sự, dân Bắc, dạy Toán .  Sau này,  GS Sự se duyên với cô Hòa, dân PR, học trò mình .  Hòa cũng là học sinh tôi dạy các lớp 11 và 12. THDT  GS Thái Nguyệt Tâm, GS Lương Thị Quyên, vợ của GS Lê Ngọc Giáng, chánh Sự Vụ Sở GD Ninh Thuận. GS Trần Văn Chương, GS Cao Đình Đãi, GS Nguyễn Văn Ron dạy Triết, GS Trần Phụng Tường quê Phan Thiết, dạy nhiều môn, sau làm Phát Ngân Viên  GS Nguyễn Văn Sáu, GS Nguyễn Thị Huệ, GS Nguyễn Văn Thiện ( từ 1957-1963) GS Nguyễn Hữu Hồng, GS Lưu Quang Sang, GS Nguyễn Hữu Tánh, GS Nguyễn Lễ Nghĩa, GS Trấn Tiếu, GS Nguyễn Văn Tý đều dạy Pháp Văn. GS Nguyễn Duy Phiên và GS Nguyễn Văn Anh dạy Hán Văn.  Dạy Lý Hóa phải kể thêm các GS Nguyễn Quý, Nguyễn Thị Ngẫm, Đỗ Hữu Giảng, Mai Văn Liễu, Mai Nam, Nguyễn Ngọc Thành, Nguyễn Văn Thi . Dạy môn Toán còn có quý GS Võ Ngọc Tư, Vĩnh Ba, Nguyễn Ngọc Bảo, Đoàn Lu, Nguyễn Sơn, Bùi Thanh Trang . Các GS phụ trách môn Vạn Vật còn có Hoàng Hữu Ân , Nguyễn Ngọc Mai, Lê Thị Ngọc Hạnh, Phan Hồng Châu . Dạy Công Dân và Toán có GS Phạm Minh Tâm  .Anh này là gia đình cách mạng. Cha mẹ đã hy sinh trên núi nên chỉ cải tạo có vài tháng dù anh là Trung Úy chế độ cũ . Anh được lưu dụng nhưng không cho cầm phấn đứng bảng . Anh đổi họ thành Trần Minh Tâm . Anh là thi sĩ Chu Trầm Nguyên Minh, có tác phẩm xuất bản nổi danh một thời . Dạy môn Công Dân còn có GS Trịnh Quang Bình . Dạy Hội Họa, Âm Nhạc có các GS Đỗ Cường, Nguyễn Hữu Hồng, Vương Cát Hanh, Nguyễn Thanh Sơn . Dạy Nữ Công Gia Chánh có các GS Phan Thị Bạch Tuyết, Đặng Thị Hoàng Yến, Nguyễn Thị Rỡ, Nguyễn Thị Hoàng Yến . 

                 Đáng kể thêm, sau này cò các GS như Dư Tế Xuân người Bắc, dạy Toán, GS Tôn Thất Liệu, GS Nguyễn Ngọc Lưu, GS Hồng Dzang, GS Lê Thị Minh Sương, GS Phan Văn Ngậc, GS Lê Cảnh Em, GS Đoàn Mậu ( dạy Nhạc) , GS Vui, phu quân của GS Phan Thị Lệ Hoa, GS Võ Minh Khai, GS Trương Tấn Lực, GS Nguyễn Văn Quý, quê Nha Trang dạy Toán ,  GS Tôn Thất Vân , GS Quỳnh Uyển, GS Lộc ( quê Mỹ An), GS Phạm Đăng Phụng, GS Đào Trường Khánh, GS Phan Thị Minh, em bà con với GS Nguyễn Tiêm và GS Nguyễn Đình Xinh, GS Trần Công Phi, GS Đinh Hoàng Dũng ( con Thầy Đinh Minh) GS Phan Trần Trước, GS Nguyễn Huệ Khai,  GS Đào Viết Châu ( cựu Đại Úy QLVNCH,  sau này bị  bịnh chết trong Trại A, Tổng Trại Tù Binh 8 Sông Mao, Bình Thuận) .  GS Quốc, gốc Huế, dạy Lý Hóa, sau chuyên ngành Hóa .  GS Võ Tấn Khanh, Nữ GS Tươi, GS Đặng Vũ Hoãn, Hiệu Trưởng, GS Tạ Văn Phúc, GS Đan Ngọc Quế, GS Nguyễn Di, dạy Việt Văn, quê Phú Yên GS Tôn Thất Đài,, GS Hiệp, Hiệu Trưởng THDT, tiền nhiệm, trước GS Hoãn, GS Liêm ( Tiệm Tấn Lợi, anh của Tân, của GS Mai, GS Tuyết ( Cô này là vợ GS Chương cũng dạy THDT), GS Yến dạy Nữ Công Gia Chánh Cô Yến bà con với GS Phan Thị Mịnh . GS Hồ Văn Mẫn, GS Đào Thanh Tâm, GS Ngô Thị Ngân, GS  Nguyễn  Xuân Hạnh ( Gốc Bắc, dạy Việt Văn) GS Trần Thị Phụng,  GS Sửu ( nữ) GS Sửu ( nam), GS Tường Nga, GS Vui ( nữ), GS Phan Văn Nhượng, bạn học cùng lớp với tôi ở Trung Học suốt 4 năm liền Nhựợng là em anh Phan Văn Hòa, học cùng lớp, làm Lớp Trưởng, dân Quảng Nam Anh em Nhượng như Kỉnh, Huy, Tri.. đều thông minh học giỏi . Chị của Nhượng là phu nhân của GS Đại Học Văn khoa SG, Phạm Văn Diêu nổi danh một thởi với tác phẩm " Văn Học VN". GS Lê Văn Tư quê Hòa Đa, dạy Vạn Vật, rể của Bác Ngac. GS Bùi Hạnh đồng hương với GS Tư, dạy Sử Đia. GS Duận dạy Việt Văn, em GS Chánh nhà ở cạnh thánh đường  PR. Họ là con cụ Nghị, công chức Tòa Hành Chánh, GS Đặng Hoàng Yến, GS Nguyễn Đình Xinh, Nữ GS Hương, Nữ GS Nhung, GS Phan Khắc Hưng đều dạy Anh Văn.  GS Dương Bá Đồng dạy Toán, GS  Phan Thuận dạy Lý Hóa, GS Trần Ngọc Quy dạy Toán... ( Xin lỗi bà con,  tôi không thể nhớ và kể hết các Thầy Cô từng dạy THDT năm xưa,  kể từ niên khóa 1959- 1960 và về sau, vì lúc ấy tôi đã rời trường, như đã nói trên )
Đặc biệt có một GS người Bắc, tốt nghiệp ĐHSP Ban Việt Hán, quản thủ  thư viện của Trường THDT ( Tôi quên tên anh ta). Sau đổi đời anh bị giết một cách thê thảm trên đường lẫn trốn gần Sông Pha, Ninh Thuận. Thân hữu cho biết thế . Thật tội nghiệp cho người hùng hiểu quá rõ chế độ độc tài toàn trị của chính quyền XHCN . Vì vậy GS bị sát hại một cách tàn bạo dã man. Điều này khiến tôi nhớ đến câu nói nổi tiềng của Nhạc Sĩ Thiên Tài quê Quảng Nam , tác giả bản tình ca bất hủ " Nắng Chiều" Lê Trọng Nguyễn , trong thời kháng chiến chống Pháp, ông có hoạt động cho Liên Khu 5, Việt Minh  . Sau đổi đời ông vẫn trung thành với chế độ, dù bạn ông, nhạc sĩ cộng sản Nguyễn Xuân Khoát,  từ Bắc vào Nam, khuyên ông:
  _ Cậu hãy đi đi! Cậu sống không nổi trong chế độ này đâu
 Tuy nhiên ông vẫn ở cho tới năm 1983. mới vượt biên thành công sang định cư tại Úc, Ông  tuyên bố với  nhà báo Nguyễn Phúc, đài BBC phỏng vấn ông:
    - Sống với mơ ước bình thường, đơn giản nhất cũng không nổi với Việt Cộng.
                         ooo
Hoài niệm thân thương của chúng tôi với quý Thầy Cô năm xưa khá nhiều. Thầy Thai dạy Pháp Văn rất tuyệt vời. Từ lớp Đệ Ngũ Thầy đã nói tiếng Pháp như gõ cây. Học sinh đã làm luận văn tiếng Pháp. Thầy Thai ở Sài Gòn. Thầy đã quy Tiên lâu rồi. Thầy Kha, đẹp trai, dạy học nghiêm túc tận tình. Sau 1975, vì Thầy là cháu của  cựu Tổng Bí Thư Đảng CSVN, Đặng Xuân Khu, người từng đấu tố cha mẹ mình. Hơn nữa, Thầy Kha khôn ngoan khai mình là Trung  Sĩ, dù Thầy là Trung Úy chế độ cũ, nên Thầy được chế độ mới lưu dụng tiếp tục dạy Anh Văn. Thầy từ trần năm 62 tuổi tại PR. Con gái Thầy, Cô Mai, tiếp tục nghề cha. Thầy Nguyễn Khắc Ngữ, nhà khảo cổ học nổi danh, sau này vể dạy TH Võ Trường Toản SG. Thầy làm Tổng Thư Kỳ Đại Học Minh Đức. Khi Miền Bắc thống trị Miền Nam Thầy vượt biên qua Mỹ. Sống tại xứ người nhiều năm. Thầy  từ trần vì bị bịnh hiểm nghèo. Thầy Văn, sau tốt nghiệp Đai Học SP Ban Việt Hán về dạy tại Trường TH Biên Hòa. Thầy nhập ngũ trở thành SQ Quân Cảnh. Cảm động nhất lúc tôi biệt phái về Bộ GD tại Sài Gòn. Tôi cắp sách theo học Đại Học Văn Khoa. Bất ngờ tôi gặp Thầy đang đứng gác giữ trật tư tại Bến Xe Buýt gần Chợ Bến Thành. Tôi chào Thầy. Thấy người học sinh cũ đang đến trường, Thầy vui vẻ nhìn tôi khen ngợi khích lệ:
 - Học thêm, tốt lắm em à!
- Xin cảm ơn Thầy.
Sau này không rõ Thầy có sang Mỹ định cư theo diện cựu tù nhân chính trị HO không.
Thầy Bùi Hữu Soái dạy Lý Hóa lớp Đệ Tứ 2, niện khóa 1958-59. Thầy cũng gốc Bắc. Thầy là học trò cũ của Thầy Tuân. Thầy có dáng gầy cao. Sau này Thầy chuyển về dạy tại TH Phan Bội Châu (PBC). Thầy Soái là ân nhân của tôi. Lúc đó tôi là giáo viên tiểu học dạy tại Trường Nam Phan Thiết. Thầy giới thiệu người học trò hiếu học với bào huynh của Thầy, GS Bùi Hữu Huân ( GS Huân gốc Y Tá, tự học đỗ Tú Tài II ban D cổ ngữ, chuyển sang dạy THPBC. Thầy rất thông minh, hiếu học có trí nhớ tuyệt vời. Thầy tự học đỗ cử nhân, chuyển sang ngạch GSTHĐ2C.  Thầy chấm hộ môn Luận Triết cho tôi. Thầy Soái còn nhờ Thầy Hịệp ( Huế ) cấp chứng chỉ cho tôi dự thi bằng Tú Tài I và cả Bắng Tú Tài 2, năm sau. Ngoài ra, Thầy còn giới thiệu với GS Thuận ( người Nam) chấm hộ môn Luận Pháp Văn cho tôi. Nhờ vậy, tôi thi đỗ Tú Tài 2 Ban C, và sau này tốt nghiệp Đại Học Văn Khoa SG  
                         “ Tạ ơn Thầy cũ hết lòng
                          Nhờ Thầy giúp đỡ. bao dung tận tình.
                          Em đây cảm động hết mình
                          Cầu mong hạnh phúc gia đình Thầy Cô”.
  Sau Thầy Soái động viên đi Thù Đức. Thầy trở thành Sĩ Quan Hải Quân. Nghe nói thầy cô hiện ở Hoa Kỳ, diện HO. Tôi có gọi điện thoại ghi trên đặc san Liên Trường nhưng không ai trả lời. Tiếc quá, không liên lạc được với Thầy, ân nhân của tôi.
  Thầy Trần Nho Mai dạy Lý Hóa, Vạn Vật dễ hiểu,  hấp dẫn lôi cuốn học sinh vô cùng. Thầy se duyên với người đẹp DT, quê PR, học trò Thầy, cô Oanh. Sau Thầy tốt nghiệp ĐHSP Sài Gòn Ban Vạn Vật. Thầy dạy TH Trần Hưng Đạo, Đà Lạt. Thầy động viên học khóa 24, Võ Bị Thủ Đức. Thầy tốt nghiệp sĩ quan về dạy tai Trường Võ Bị QG Đà Lạt. Sau đổi đời đầy bi thảm tang thương. Dù được lưu dụng, nhưng Thầy vuợt biên thành công, định cư tại Hà Lan cùng gia đình vợ con. Thầy đã ra đi vĩnh viễn. Vợ con đưa xác Thầy về an táng tại quê nhà. Thầy Minh, Thầy Hội, Thầy Bổng. cũng đã an giấc ngàn thu.
Nhiều Thầy Cô giờ này đã trở nên lão hạng, cao niên. Học trò cũ của quý Thầy Cô cũng lực tàn sức kiệt,  bảy bó, nhò nhất cũng “ Lục thập giả an chi”, mái tóc điểm sương.
          Xin cầu chúc quý Thầy Cô, các bạn đồng môn, đồng lớp, đồng nghiệp năm xưa luôn an vui hạnh phúc, khỏe mạnh, nhiều may mắn, mọi sự như ý, con cháu ngoan hiền,  học hành thành công, vươn lên nơi xứ người, gia đình êm ả, cuộc sống sung túc phổn vinh.
                                         Mong lắm thay,

                    “ Thầy xưa nay đã già rồi
                      Học trò giờ cũng da mồi tóc sương.
                      Gặp nhau chia sẻ vui buồn
                      Cuộc đời giả tạm, vô thường trần gian
                      Chúc cho tất cả khang an
                      Ở/ đi tự tại, tuổi vàng vô ưu.”

                                   THANH ĐÀO                                      
Về Đầu Trang
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Truyện Ngắn, Bút Ký, Tạp Ghi... Thời gian được tính theo giờ GMT - 4 giờ
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn

    
Powered by phpBB © 2001, 2005 phpBB Group
Diễn Đàn Trung Học Duy Tân