(Cảm tác theo giáo lý Đạo
Phật. Thận tặng Thi Sĩ Lão
Thành Sung Trương và thân hữu)
Niết Bàn cõi tâm bốn loại
“Hữu Dư” cảm khái an vui.
Cõi lòng tuyệt vời lắng lại
An nhiên, tự tại sống đời.
“Hữu Dư” vì thân Tứ Đại
Tấm thân chờ đợi vô thường.
Dù tâm, tịnh thanh đạt tới
Cõi lòng sầu não xả buông.
“ Vô Dư Niết Bàn” cõi tịnh
Chỉ còn bất biến pháp thân.
Chánh niệm trụ trong vắng lặng
Người tu chứng quả Thanh Văn.
“ Vô Trụ Xứ Niết Bàn “ đó!
Niết Bàn bất kể nơi đâu.
Tâm bình, nhiệm mầu hoa nở
An vui hạnh phúc dạt dào.
Hận thù, thêm dầu vô lửa
Tham, si quá cở khổ đau.
Não phiền ào ào gõ cửa
Ấy là Địa Ngục ra vào.
“Niết Bàn Bản Lai Thanh Tịnh. ”
Ấy là Tự Tánh chúng sanh.
“ Nhân chi sơ, tánh bổn thiện”
Con người vốn sống hiền lảnh.
Phật Tánh, tấm gương bụi phủ
Thất tỉnh, lục dục sum sê.
Bao tử lê thê kêu cứu
Miếng cơm manh áo đi về.
Tịnh tu: chùi gương tâm đó!
Bản lai diện mục hiện hình
Giác Tánh lung linh sáng rỡ
Niết Bàn Trần Tục long lanh.
Niết Bàn nhân sinh bốn tính:
“Thường, Lạc, Ngã, Tịnh” tùy duyên.
Tụ do ưu tiên cuộc sống
An vui hạnh phúc êm đềm.
Niết Bàn, không làm gì cả
Thanh tịnh vắng vẻ cõi lòng.
Phiền não đau thương chẳng có.
An nhiên, tự tại, thong dong.
Niết Bàn, lá vàng rơi rụng
Vô thường biến chuyển không ngừng.
Lẽ “Thường” tuần hoàn chuyển động
Xa rời luyến tiếc, vấn vương
Niết Bàn bao hàm “phi tác” (1)
Không thêm, không bớt, không mòn.
Vĩnh viễn, trường tồn, bất diệt
Chân Tâm Phật Tánh bản môn.
Niết Bàn cũng không thí dụ
Do nơi cảm nhận từng người.
Tam Độc xa rời, buông xả
Niết Bàn Trần Tục reo vui.
Niết Bàn trú trong các pháp
Bản lai thanh tịnh Niết Bàn.
Biến chuyển do tâm bất ổn
Lo âu phiền muộn mơn man.
Niết Bàn Cõi Tâm thắp sáng
Bao dung, nhẫn nhục nhân sinh.
Đi, đứng, nằm, ngồi, chánh niệm
Thiên Đảng trần cảnh hiện hình.
(1) Aimlessness. There is nothing
to be realized.
THANH ĐÀO |