Gửi: Tue Jun 11, 2024 8:32 pm Tiêu đề: Trang sưu tầm của "PHÚ LAN"
Trang sưu tầm của "PHÚ LAN"
* Lời Cáo Biệt Tốt Đẹp
Lời Cáo Biệt Tốt Đẹp
Tác giả Quỳnh Giao
Lời Cáo Biệt Tốt Đẹp
(Phú Lan sưu tầm)
Nữ sĩ Quỳnh Dao nhà văn, nhà biên kịch với các tác phẩm điện ảnh nổi tiếng được chuyển thể như " Mùa thu lá bay", "Xóm vắng", "Hải âu phi xứ", "Dòng Sông Ly Biệt", "Hoàn Châu Cách Cách"... Mới đây, bà đã có một tâm thư dặn dò con trai và con dâu lo lắng cho chuyện hậu sự sau này của bà.
Ở độ tuổi 79 gần đất xa trời, nữ sĩ Quỳnh Dao cho biết, gần đây bà đọc được một bài viết mang tên "Lời cáo biệt tốt đẹp dành cho bản thân" và nhận ra rằng pháp luật có một thứ gọi là "Quyền được quyết định của người bệnh"
Quỳnh Dao viết thêm: "Năm nay mẹ 79 tuổi, năm sau đã là 80. Sống đến tuổi này đã là sự ban ơn của thượng đế đối với mẹ. Chính vì lẽ đó, từ giờ trở đi, mẹ sẽ đón nhận cái chết với nụ cười trên môi. Mong muốn của mẹ chỉ là:
1. Dù mẹ có lâm trọng bệnh thế nào, nhất quyết không được phẫu thuật, hãy để mẹ ra đi nhanh chóng. Chừng nào mẹ còn minh mẫn làm chủ được mọi thứ thì hãy để mẹ làm chủ, bằng không thì phải nghe theo ý nguyện của mẹ.
2. Không được đưa mẹ vào phòng điều trị hồi sức cấp cứu đặc biệt.
3. Bất luận là chuyện gì, tuyệt đối không được lắp ống thở cho mẹ. Bởi vì một khi mẹ đã mất khả năng nuốt, tức là cũng mất đi niềm vui ăn uống. Mẹ không muốn sống cuộc sống như vậy.
4. Thêm một điều nữa, dù có chuyện gì, cũng không được đặt ống truyền chất bổ cho mẹ. Kể cả ống thông, ống thở,... đều không được.
5. Mẹ đã từng nhắc nhở rồi, những biện pháp cứu sống như điện giật, các loại máy móc, tất cả đều không được dùng. Mẹ muốn ra đi nhẹ nhàng, điều này còn quan trọng hơn việc để mẹ sống trong đớn đau.
Mẹ đã từng nói: "Khi còn sống, nguyện là ánh lửa, cháy hết mình tới phút cuối cuộc đời. Lúc chết đi, nguyện là hoa tuyết, lất phất rơi, hóa thành cát bụi".
Nữ sĩ quyết định bà không muốn mai táng theo nghi thức tôn giáo truyền thống mọi người vẫn hay làm. Bà dặn con không đăng cáo phó, không làm lễ truy điệu, không đốt vàng mã,... Bà muốn mọi việc diễn ra lặng lẽ, đơn giản, không phô trương. "Cái chết là việc riêng, đừng làm phiền người khác, càng đừng làm phiền những người yêu mến mẹ. Nếu thật lòng yêu mẹ, họ sẽ hiểu cho mẹ...", "sau này, tiết Thanh Minh cũng không cần cúng bái, vì mẹ đã không còn tồn tại".
Bà còn dặn con cháu rằng: "Trái đất đang ngày càng ấm lên, đốt giấy đốt hương đều đang phá hoại quả địa cầu này, Chúng ta có nghĩa vụ giữ gìn môi trường sống sạch sẽ cho những sinh mệnh mới đang nối tiếp nhau chào đời".
Mỗi phận người là một dòng trôi, khi lặng lờ, khi cuộn sóng, thủy triều bao nỗi xuống lên.
Vào tuổi xế chiều, bạn và tôi đã từng là những viên đá, lăn lóc qua bao khe suối cuộc đời, để rồi các góc cạnh bị mài mòn theo năm tháng.
Nay còn lại gì? Phải chăng vẫn còn là viên đá nhưng là viên đá cuội nhẵn tròn, ẩn mình nơi sông suối.
Cho đến một ngày, chúng ta không được “xin làm viên đá cuội” mãi nữa, vì tới lúc, nó cũng phải tự “Rớt vào lòng biển khơi”*
Cái đẹp nhất của tuổi tà huy là cái đẹp của sự buông bỏ tất cả trong Pháp của Phật:
“Ta về cởi áo mù sa, trút quần phong nhuỵ cho tà huy bay” BG.
Đời tôi, nhịp tim thai đã đập trong lòng mẹ vào năm giữa thế kỷ hai mươi, một trái tim chưa hề tình nguyện, nhưng rồi cũng phải đi ra bằng tiếng khóc, lên đường hành cuộc biển dâu.
Giải đất đỏ chạy dài từ vùng trung du Cồn Tiên băng qua Dốc Miếu, Lan Đình rồi bình địa thành vùng hạ du, đó là đất chợ Cầu, Gio Linh. Là rẻo đất ba zan cuối cùng tiếp giáp vùng duyên hải. Hai màu đất đỏ cát trắng, chỉ cách nhau có một con rào, bên kia là rú sim.
Nơi đây tôi đã chập chững những bước chân đầu nguồn của một dòng trôi, lớn dần lên trong vòng tay yêu thương của mẹ và bà. Không hề thấy mặt cha.
Đất miền Trung nghèo, sông không chảy nỗi thành dòng, gọi là rào, cây không cao nỗi thành rừng gọi là rú: “Rào rú ngái ngân mồ nỏ chộ, mô rào mô rú, chộ mô mồ”. Rào rú xa gần đâu chẳng thấy, đâu rào đâu rú thấy đâu nào. Dân quê một đời lam lũ, bán mặt cho đất, thí lưng cho trời.
Cứ thế, cả một tuổi thơ êm đềm lớn lên theo lời ru à ơi của mẹ:
Chợ Cầu, Gio Linh, là một trong bốn địa danh nằm trong câu hát đó, đã cùng tôi đi suốt một đời theo giấy khai sinh.
Bạn bè cùng thế hệ tôi sinh ra trước sau 1950 đều rơi vào những điểm giữa: Giữa thế kỷ 20, giữa đôi bờ Nam Bắc, giữa hai vùng đất đỏ, cát trắng và sống một cuộc đời giữa hai chế độ.
Là vùng đất lịch sử, đặc biệt nằm gọn trong khu Phi Quân Sự, DMZ (Demilitarized Zone). Ngoại trừ cảnh sát súng ngắn, quân đội chính quy cả đôi bên không được phép đồn trú cách hai bờ vỹ tuyến 10km.
Kể từ 1960, vùng nầy mất an ninh, dân ở bờ Nam, ngày theo bên này, đêm thì che chở cho bên kia, như là một trò chơi cút bắt.
Cứ như thế, chúng tôi lớn lên trong một thân phận trốn tìm.
Con đường cút bắt đã biến lũ chúng tôi thành một thế hệ mộng du, đi giữa đôi bờ hư thực. Trốn tìm một chân lý mà nó luôn nằm bên kia dãy núi Pyrénées.
Mai Hữu Thọ chọn ảnh trang trí cho bài đăng
1975, chế độ đổi thay. Vừa mới bước chân vào ngưỡng cửa đời thì cũng là lúc chúng tôi ở bờ Nam phải đặt cược đời mình cho một dòng bị trôi và đánh đu số phận theo đất trời.
Khi tàn chinh chiến, bạn bè về từ hai phía, bên thắng thì vinh quang, bên thua chịu khổ ải.
Tôi chẳng bên nào, nên tự liệt mình về bên chịu trận xa quê.*
Cuối cùng, dầu ở bên nào thì khi tóc đã bạc màu sương rồi đều cũng về chung một lối, cuối trời mây bay.
Nay ở độ tuổi ngủ quên trên dốc đời hư ảo, lạc giữa vô thường, mộng hết tầm tay, nên tự đi tìm về lại nơi mình đã bắt đầu như một hành trình quán chiếu tự thân.
Về lại chốn xưa, lòng cứ bồi hồi nhớ tuổi thơ, nhớ mẹ, nhớ bà, nhớ bạn bè, đứa còn đứa mất...
Mối cảm hoài trong ngày về nói sao hết được thành lời, xin gởi trọn vào thơ như một lời kết, may ra mới giải bày được đôi chút nỗi lòng mình.
Gửi: Wed Aug 07, 2024 7:43 pm Tiêu đề: Sợi dây đắt nhất thế giới
Sợi dây đắt nhất thế giới
Ảnh minh họa
Sợi dây đắt nhất thế giới: Có thể khiến chiếc máy bay chiến đấu nặng 20 tấn dừng lại trong 3 giây!
(Phú Lan sưu tầm)
Khi một máy bay trên tàu sân bay hạ cánh trên boong tàu, nó sẽ cần một sợi dây để giúp dừng lại, nếu không nó sẽ dễ dàng lao ra khỏi boong tàu.
Sợi dây đắt nhất thế giới không phải được làm bằng vàng hay bạc, nhưng trên thực tế, nó còn đắt hơn cả những sợi dây vàng đắt nhất thế giới hiện nay. Nó là sợi dây hãm được sử dụng trên boong tàu sân bay để giúp máy bay trên tàu sân bay hạ cánh và giảm tốc về 0 trong tích tắc - có thể làm cho một chiếc máy bay chiến đấu nặng 20 tấn dừng lại chỉ trong 3 giây.
Ảnh minh họa
Sợi dây hãm không chỉ đắt đỏ vì vật liệu mà còn bởi vai trò quan trọng và công nghệ cao cấp trong quá trình chế tạo.
Sợi dây hãm này có giá lên tới 1,5 triệu USD, được chế tạo bằng những loại vật liệu công nghệ cao tiên tiến và phương tiện khoa học công nghệ hiện đại hàng đầu trên thế giới. Và chỉ có 3 quốc gia trên thế giới có thể chế tạo được sợi dây đắt giá này, cụ thể là Trung Quốc và Hoa Kỳ và Nga.
Tại sao một sợi dây này lại đắt đến vậy? Là một thiết bị đặc biệt được lắp đặt trên tàu sân bay, dây hãm cho phép máy bay trên tàu sân bay cần hạ cánh trên boong tàu giảm tốc nhanh chóng và an toàn và hoàn thành việc hạ cánh trong khoảng cách rất ngắn. Loại dây này được làm bằng thép đặc biệt, có độ bền, độ dẻo dai và độ bền kéo cao, có thể nhanh chóng phá vỡ động
năng khổng lồ do máy bay hạ cánh tốc độ cao gây ra.
Được lắp đặt trên boong tàu sân bay, sợi dây này giúp máy bay hạ cánh và giảm tốc độ một cách nhanh chóng và an toàn, hoàn thành việc hạ cánh trong một khoảng cách rất ngắn.
Phía trước đường băng trên boong tàu sân bay sẽ lắp đặt 4 sợi dây hãm để tạo thành hàng rào. Khi máy bay chuẩn bị hạ cánh xuống tàu sân bay, tốc độ hạ cánh của máy bay chiến đấu trung bình là khoảng 200 km/h và có trọng lượng hạ cánh là 20 tấn, giả sử móc đuôi không móc được dây hãm thì sẽ xảy ra tai nạn bất ngờ.
Việc dừng và hạ cánh máy bay trên boong tàu sân bay chỉ trong vài trăm mét là một thách thức lớn do tác động từ tốc độ và trọng lượng của máy bay. Trên đường băng sân bay trên mặt đất, máy bay cần lăn dài vài km để giảm tốc độ về 0. Tuy nhiên, trên tàu Được lắp đặt trên boong tàu sân bay, sợi dây này giúp máy bay hạ cánh và giảm tốc độ một cách nhanh chóng và an toàn, hoàn thành việc hạ cánh trong một khoảng cách rất ngắn.
Phía trước đường băng trên boong tàu sân bay sẽ lắp đặt 4 sợi dây hãm để tạo thành hàng rào. Khi máy bay chuẩn bị hạ cánh xuống tàu sân bay, tốc độ hạ cánh của máy bay chiến đấu trung bình là khoảng 200 km/h và có trọng lượng hạ cánh là 20 tấn, giả sử móc đuôi không móc được dây hãm thì sẽ xảy ra tai nạn bất ngờ.
Việc dừng và hạ cánh máy bay trên boong tàu sân bay chỉ trong vài trăm mét là một thách thức lớn do tác động từ tốc độ và trọng lượng của máy bay. Trên đường băng sân bay trên mặt đất, máy bay cần lăn dài vài km để giảm tốc độ về 0. Tuy nhiên, trên tàu sân bay, sự hỗ trợ từ sợi dây hãm là rất quan trọng để đạt được mục tiêu này.
Khi máy bay trên tàu sân bay chuẩn bị hạ cánh, nó không sử dụng mũi để chạm vào dây hãm, mà thay vào đó, nó sẽ thả móc đuôi trước. Khi máy bay chạm boong, móc đuôi sẽ khóa thiết bị cáp hãm. Lực kéo lớn của cáp hãm sẽ kéo máy bay dừng lại trong 3 giây.
Vì vậy, yêu cầu chế tạo loại dây này rất cao, Trung Quốc, Mỹ và Nga đều có thể sản xuất dây hãm chất lượng cao, trong khi các nước khác lại phải nhập khẩu dây hãm tàu sân bay.
Nếu không có cáp hãm hoặc hạ cánh không chính xác, phi công cần nâng độ cao của máy bay, bay vòng lại và hạ cánh lần nữa. Tuy nhiên, việc hạ cánh thêm một lần sẽ tăng nguy cơ tai nạn, do đó, hạ cánh chính xác với dây hãm là lựa chọn tốt nhất.
Trên boong tàu sân bay, có bốn sợi dây hãm được lắp đặt để tạo thành hàng rào.
Chiều dài của dây hãm hiện được lắp đặt trên tàu sân bay là khoảng 15 mét. Thông thường, bốn dây cáp hãm được lắp đặt lắp đặt trên tàu sân bay, mỗi dây cách nhau khoảng 12 mét. Dây hãm thứ hai và thứ ba thường có lực kéo hơn 100 tấn, đủ để ngăn chặn máy bay nặng hàng chục tấn.
Khi máy bay nhắm vào tàu sân bay để hạ cánh, nó sẽ thả móc đuôi trước. Khi chạm boong, móc đuôi sẽ nhắm vào dây hãm để nhanh chóng cập bến và móc vào. Hệ thống thủy lực sẽ hấp thụ động năng mạnh của máy bay, giúp nó giảm tốc độ trong khoảng cách ngắn và hạ cánh an toàn.
Sau khi máy bay dừng thành công, dây hãm và móc đuôi sẽ tách ra, chuẩn bị cho lần hạ cánh tiếp theo. Trong tình huống khẩn cấp, nếu dây hãm không kết nối thành công, sẽ có một dây hãm khác và lưới đánh chặn để dừng máy bay.
Dây cáp thép làm hãm đà phi cơ phản lực khi hạ cánh
Ảnh minh họa
Hệ thống dây hãm không chỉ bao gồm sợi dây mà còn có các thiết bị hỗ trợ khác như hệ thống thủy lực để hấp thụ động năng, thiết bị đặt lại cáp chặn và lưới chặn máy bay. Khi máy bay chạm vào dây hãm, hệ thống thủy lực sẽ nén và hấp thụ động năng từ máy bay, giúp giảm tốc độ nhanh chóng và an toàn.
Việc chế tạo dây hãm rất khó khăn. Đây không chỉ là sợi dây có lực căng lớn mà là một bộ thiết bị hoàn chỉnh, bao gồm thiết bị chặn, thiết bị đệm thủy lực, thiết bị đặt lại cáp chặn và lưới chặn máy bay. Tất cả các thành phần này kết hợp thành một hệ thống giúp máy bay hạ cánh an toàn.
Sợi dây hãm, dù khiêm tốn, đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong việc giúp máy bay dừng lại trên boong tàu sân bay. Công nghệ và kinh nghiệm chế tạo dây hãm đòi hỏi sự tinh tế và chính xác, đảm bảo việc cất cánh và hạ cánh của máy bay diễn ra an toàn và hiệu quả trên tàu sân bay.
Gửi: Wed Aug 14, 2024 12:18 am Tiêu đề: Tình cuối đời !
Tình cuối đời
Ảnh minh họa
Tình cuối đời
(Phú Lan sưu tầm)
Con dâu xách giỏ bước ra khỏi nhà còn nhắc lại:
– Má kho cá nhớ mang ra sân sau nha. Con cả ngày ở tiệm nail ngửi mùi hóa chất về nhà mùi cá kho nữa chịu sao thấu!
Nó đi khuất tôi lẩm bẩm:
– Con dâu mà bày đặt chỉ huy làm như má tao. Mai mốt tao đi khỏi cho biết mặt.
Con dâu là người cuối cùng ra khỏi nhà, con trai và hai cháu nội đã đi làm đi học từ sáng sớm. Chồng tôi qua đời 3 năm nay, hai vợ chồng ăn tiền già, ở nhà housing mỗi tháng chính phủ phụ trả tiền nhà, nay chỉ còn mình tôi trả chi phí tiền nhà hao tốn quá, thằng con trai duy nhất kêu về ở với vợ chồng nó, mang tiếng ở nhờ nhà con nhưng mỗi tháng tôi tự động đóng góp nửa tiền già, phụ giúp cơm nước và hầu hạ hai đứa cháu vậy mà con dâu có lúc còn làm tôi bực mình khó chịu.
Tôi sắp có một tình cuối đời, chiều nay gặp mặt nhau tôi sẽ làm một quyết định lớn lao nếu đồng ý về chung sống với người ấy, ông có nhà cửa sẵn sàng đợi tôi. Con dâu sẽ trắng mắt ra về cái tội không biết nâng niu tôn trọng mẹ chồng.
Tôi tìm bạn bốn phương trên báo quen ông Sung, hai tâm hồn cô đơn đồng điệu gặp nhau. Ông Sung bất mãn con cái, tôi chẳng ưa gì con dâu, hai chúng tôi trao đổi hình ảnh thấy hạp nhãn, gọi phone chuyện trò qua lại thân tình thắm thiết nên hẹn gặp mặt để tính tới chuyện cùng dìu nhau đi nốt quãng đường đời còn lại như lời ông đã âu yếm rao tìm bạn. Ông Sung sẽ từ tiểu bang Texas bay tới quận Cam Cali gặp tôi.
*
Tôi đến nhà hàng Tri Kỷ gặp ông Sung, ông 75 tuổi không khác trong hình là bao vừa gặp mặt là tôi chấm liền. Sau phút giây hội ngộ bối rối tôi và ông Sung mau chóng thân thiện nhau hơn, vừa ăn vừa nói chuyện. Ông Sung cũng thích tôi, khen tôi trẻ hơn tuổi 70. Tôi mỉm cười nhún nhường:
– Em trẻ là nhờ mái tóc mới nhuộm hôm qua đó.
Nụ cười chưa kịp tắt bỗng chuyển sang nhăn nhó vì cơn đau lưng bỗng ập đến, đau từ lưng trên bên phải xuống đến lưng dưới, bác sĩ bảo tôi bị viêm dây thần kinh gì đó, cơn đau đến rồi đi trong 5, 10 phút và tôi phải sống với bệnh suốt đời.
Ông Sung lo lắng hỏi:
– Em sao thế?
– Chứng đau lưng mãn tính, thường thì đi đâu em cũng mang theo thuốc giảm đau mua over counter hôm nay em quên mất. Trời ơi, đau quá! Phải chi có một viên thuốc.
Thấy tôi cúi gập người xuống cho bớt đau ông Sung vội đứng dậy đến bên tôi đỡ vai tôi nhưng ông bỗng lạng quạng xuýt ngã nếu không nhanh tay vịn vào một cạnh bàn. Đến phiên tôi lo lắng hỏi:
– Anh sao thế?
Ông Sung đành... khai:
– Anh bị đau hai khớp gối đi phải chống gậy, nhưng chẳng lẽ đi gặp em mà anh chống gậy thì quê quá nên anh không mang theo. Trời ơi, ước gì bây giờ có cây gậy thì đỡ khổ biết mấy.
Dù đang đau lưng tôi cũng ráng dìu ông Sung ngồi trở lại ghế cho an toàn. Trong đầu óc tôi làm ngay một bài toán nếu tôi về sống chung với ông sẽ phải thường xuyên hầu hạ như thế này, đường dài chưa biết tính nết ông ra sao, không lẽ tôi lại vác mặt trở về với con cháu? Ngay lúc này tôi biết mình phải quyết định thế nào rồi.
Tuổi già thật vô duyên, hai người đang hẹn hò lãng mạn thì bệnh hoạn lù lù xuất hiện không ai giấu ai được. Ông Sung kể lể:
– Anh đã cẩn thận mang theo đủ thứ thuốc, nào cao mỡ, cao máu, đau bao tử, trào thực quản, tiền tiểu đường nhưng quyết không mang theo cây gậy giờ mới ra nông nỗi.
Tôi cũng trút nỗi niềm:
– Em cũng cao mỡ cao máu ngoài ra còn phải nhỏ mắt cườm ướt Glaucoma nữa cơ. Anh nhớ đi bác sĩ mắt hằng năm xem có bị Glaucoma hay Cataract không nhé.
– Em nhớ theo dõi đo huyết áp hằng ngày nhé.
– Anh cũng nhớ đi bộ mỗi ngày một tiếng cho khỏe nhé.
Tôi và ông Sung bỗng trở thành hai bạn già tâm sự kể lể chuyện thời tiết trở trời, chuyện ốm đau và dặn dò nhau kinh nghiệm thuốc men cho đến khi không còn gì để than thở thêm tôi mới giật mình kêu lên:
– Ôi trời, sắp đến giờ em phải về nấu cơm chiều cho con cháu rồi. Mấy con cá đang chờ em về kho tiêu.
Tôi vẫn nhớ đến bổn phận, nghĩ đến con cháu, vậy mà có lúc sôi máu vì ghét con dâu tôi đã muốn dứt áo ra đi.
– Ủa... mình chưa đi đến quyết định cuối cùng mà.
– Em vội quá quên mất, em đã quyết định rồi...
Ông Sung chặn lời tôi:
– Để anh nói trước. Anh là người định đoạt trước...
– Chưa gì mà anh đã lộ mặt gia trưởng rồi, thêm một lý do để em không tiếc khi quyết định. Chúng ta dừng lại ở đây.
Ông Sung thẳng thừng:
– Anh cũng muốn thế. Vì anh vừa nhận ra em đau lưng kinh niên, nay đau mai đau, rước em về anh lại phải hầu hạ, chưa kể bệnh mắt Glaucoma của em mai mốt lỡ... có bề nào càng khổ thân anh.
Tôi tự ái đùng đùng:
– Anh trù ẻo tôi đấy hả? Chưa biết ai phải hầu hạ ai, chân anh đi không vững đó. Nãy dìu anh trở về ghế ngồi tôi mệt hụt hơi, chưa kể tiền tiểu đường của anh nay mai thành bệnh tiểu đường mấy hồi, rồi... biến chứng phải lọc thận ai mà hầu nổi.
Ông Sung mai mỉa:
– Anh chỉ lỡ lời lo xa thế thôi, em đanh đá ghê gớm nhỉ, hèn gì tối ngày chê trách con dâu.
Thấy tình hình căng thẳng tôi vội hạ giọng cho xong để còn kịp về nhà nấu cơm:
– Thật may cơn đau lưng của em xuất hiện và chân anh đau đúng lúc, là tín hiệu nhắc nhở chúng ta đừng vội vàng quyết định, chúng ta đang mỗi ngày mỗi già đi, sức khỏe mỗi ngày mỗi kém đi nếu lấy nhau biết vui hưởng hạnh phúc được bao lâu hay chỉ là gánh nặng cho nhau. Anh có căn nhà riêng thì cứ ở tới khi nào không tự chăm sóc bản thân mình được nữa thì sang tên nhà cho con cái, chúng sẽ lo cho anh, còn em tiếp tục về hầu hạ con cháu mai sau có ốm đau nằm một chỗ ít nhiều gì chúng cũng phải hầu hạ lo cho em. Em đã tìm ra tình cuối đời rồi, là tình với con với cháu chứ tìm đâu xa.
Ông Sung cũng “hạ nhiệt”:
– Ừ, em nói vậy còn nghe được.
Lát nữa về nhà tôi sẽ nghe lời con dâu mang nồi cá ra sân sau kho thật ngon lành. Hơn lúc nào hết tôi thấy mái nhà của con cháu vẫn đẹp vẫn ấm cúng hơn bất cứ nhà ai, dù con dâu có những lúc cãi mẹ chồng, dù con trai có lúc gắt gỏng mẹ ruột, dù hai cháu nội có những lúc làm tôi bận rộn.
Khi chia tay ông Sung ở cửa nhà hàng tôi dặn dò có chút mỉa mai:
– Anh nhớ ra tiệm Family Dollar ở góc đường kia mua cây gậy để chống chân đi cho vững vàng khỏi té và bay về Texas an toàn nha.
Ông Sung cũng chẳng vừa đáp lại:
– Từ giờ trở đi em đừng lên báo, lên mạng tìm tình yêu, tìm chồng bốn phương nữa nhé. Lo mà hầu con cháu đi.
Chuyện thuở giao thời Tháng 3, rồi tháng 4 năm 1975, thiên hạ chạy di tản rần rần từ miền trung vào trong nam, rồi từ đất liền “chạy” ra biển, nhốn nháo hỗn loạn chẳng biết “trời trăng” gì hết, chỉ có một ý nghĩ rõ rệt ở trong đầu là “Ở lại với tụi nó là chết! ”. Vậy rồi giai đoạn di tản đó chấm dứt vào ngày 30 tháng 4...
... Giữa tháng 4, một thằng bạn gọi điện thoại cho tôi, nói: “Mầy đừng đi di tản. Ở lại đi! Không có sao hết! Tao bảo đảm”. Thằng nầy làm lớn trong “Tổng Nha”, nó nói “chắc như bắp”! Lại một thằng bạn khác - thằng này người Pháp, làm việc ở sứ quán Pháp - nói trong điện thoại, giọng rất bình thản: “Mầy đừng đi đâu hết! Mọi việc đều đã thoả thuận trước rồi! Yên tâm! ”. Riêng tôi, tôi nghĩ: “Mình làm việc cho hãng dầu ngoại quốc trực thuộc hãng quốc tế SIPC (Shell International Petroleum Company – Anh Quốc) chắc không sao! ”. Vậy là tôi quyết định ở lại...
... Ngày 30 tháng tư năm 1975! Việt cộng vào “đớp” hết, công tư gì cũng đớp hết, thượng vàng hạ cám gì cũng đớp hết. Họ gọi hành động đó bằng một danh từ nghe cũng... văn chương:”Tiếp Quản”. Không biết hai thằng bạn tôi kể ở trên có... tức hộc máu hay không khi thấy mình bị gạt dễ dàng như con nít? Riêng tôi, tôi thấy như tôi từ trên trời rơi xuống, thấy những gì xưa nay mình học, mình hỏi, mình hiểu biết, mình suy luận v.v... đều sai bét đối với “cái gọi là cách mạng”!
Hãng dầu tôi làm việc bị tiếp thu bởi... “ê-kíp” có bí số K7. Những người nầy mặc đồ đen đội mũ tai bèo đen. Mấy tay có vẻ “xếp” mang túi dết ngang hông và bao súng lục nằm... sau đít! Họ chiếm kho dầu Nhà Bè và văn phòng trung ương ở đường Thống Nhứt. Hai hôm sau, có tin bộ đội vào kho Nhà Bè “vít” K7 ra ngoài, vì kho dầu không thuộc quyền quản lý của mấy cha K7. Vậy là trong cái tổ chức rất là... “cách mạng” nầy, cái “đầu não” của công ty không còn dính với cái thân mình là kho dầu nữa! Phải nói thiệt: tôi làm việc cho hãng dầu hơn 19 năm, đã đi thăm viếng nhiều hãng dầu ở các quốc gia khác, nhưng chưa thấy một tổ chức hãng dầu nào... khùng như vậy!
Qua sáng ngày thứ ba, tôi được chở xuống kho Nhà Bè để hướng dẫn một ông tướng VC đi viếng kho (Có lẽ mấy tên “nằm vùng” đã cho bọn “cách mạng” biết rằng tôi... rành kho dầu này lắm!). Đến kho, tôi được “ông” bộ đội xếp kho cho biết ông tướng là “xếp” cục hậu cần. Tôi tưởng tượng sẽ gặp lão ta với bộ quân phục thẳng nếp và một ngực mề đai như thường thấy ở mấy tướng các nước cộng sản!
... Xe ông tướng đến. Bước xuống là một người cao lớn mặc bộ đồ “xá xẩu” tàu bằng lụa màu ngà, đội nón Panama trắng, miệng ngậm ống đót có điếu thuốc đang cháy dở. Được giới thiệu, ông ta không bắt tay tôi, chỉ gật nhẹ đầu, nói:”Ta đi thôi! ”. Tôi lưu ý ông ta đừng hút thuốc trước khi vào kho. Ổng gạt bỏ mẫu thuốc nhưng vẫn ngậm ống đót trên môi...
Kho Nhà Bè lớn lắm. Ngoài bốn cầu tàu chiếm hết mặt sông, trên bờ có khu bồn chứa và các khu nhà máy trộn nhớt, trộn hoá chất, sản xuất thùng thiếc 20 lít đựng dầu hôi, châm dầu vào thùng 200 lít, nhà máy nhựa đường.v.v...
“Phái đoàn” đi viếng gồm có ông tướng, hai người hộ vệ và xếp kho. Vì kho dầu không làm việc, nên tôi chỉ đưa họ đi... phớt phớt vòng ngoài các khu nhà máy. Tôi có ý đợi họ đặt câu hỏi, nhưng không nghe cha nào nói một tiếng. Sau nầy, tôi mới biết rằng ngoài bắc không có những gì chúng tôi có ở trong nam, cho nên họ không biết... khỉ gì để mà hỏi!
Đến khu bồn chứa, bỗng ông tướng chỉ một cái bồn, hỏi: “Cái bể nầy bao nhiêu khối?”. Tôi trả lời: “Mười lăm ngàn m3”. Hỏi: “Mỹ nó làm cho các anh đấy à?”. Trả lời: “Không có thằng Mỹ nào vô đây hết! Toàn là dân Việt Nam thực hiện”.
Nghe vậy, lão ta cười khẫy: “Làm gì có! Ở ngoài ta, trên 2000 khối là phải ông Liên Xô hay ông Trung Quốc thực hiện cơ! ”. Cái cách thằng chả nghi ngờ lời tôi nói đã chạm mạnh tự ái của tôi, đồng thời cũng cho tôi thấy rằng miền bắc của mấy chả nó dở ẹc hà! Tôi nhấn mạnh: “Tất cả ba mươi mấy cái bồn nầy, lớn nhỏ gì cũng do nhà thầu thực hiện với thầy thợ hoàn toàn người Việt”. Tôi đưa mấy người đến xem cái bồn mới làm xong cách đây mươi hôm. Đó là cái bồn lớn nhứt kho Nhà Bè, 30000 m3, do nhà thầu Việt Nam EVS thực hiện, nó lớn bằng nửa cái sân banh!. Từ đó, mấy chả làm thinh luôn cho đến về văn phòng để họp với mấy anh em cấp chỉ huy cũ theo ý muốn của ông tướng!
Sau khi nghe mấy anh em lần lượt trình bày lý lịch, cấp bậc, phần việc và lương bổng của mình, ông tướng nói: “Các anh yên tâm: Đảng và Nhà Nước sẽ trả lương các anh y như cũ. Cứ yên chí phục vụ! ”. Nghe giọng ông ta rất tin tưởng vào những gì ổng nói, mình cũng thấy tin tưởng theo...
... Thời gian sau, hãng dầu đường Thống Nhứt được mang tên “Công Ty Xăng Dầu Khu Vực Hai”. Hỏi “Khu Vực Một” ở đâu thì được trả lời “Chưa có, nhưng đã có Tổng Công Ty ở Hà Nội”! Cách mạng có khác!
Rồi là “xếp thang lương”, nghĩa là mỗi ngành mỗi nghề đều được xếp cấp bậc trên từng thang lương, từ đó lãnh lương mổi tháng 2 kỳ, mổi kỳ nửa lương. Tôi được xếp “ kỹ sư bậc 2 trên 6 “, nghe... khoẻ re. Thang lương có 6 bậc mà mình nằm gần trên đĩnh rồi, họ cũng biết... chấm điểm đó chớ! Ai dè khi lãnh lương mới... té ngửa: mấy chả xếp thang lương ngược, hạng nhứt là bậc 6 nằm trên hết, rồi tuột lần xuống dưới chót là hạng một. Tôi bậc 2 trên 6, là hạng... áp chót! Mẹ!...
Tôi lãnh 80 đồng tiền mới (Vậy là thằng cha tướng Tổng Cục Hậu Cần đã nói láo!). Bực mình, chạy đi gặp thủ trưởng, ảnh nói: “Trời đất! Bác Hồ chủ tịch nước mà chỉ lãnh có 200 đồng. Còn anh, anh lãnh tới 80 đồng còn muốn gì nữa?”. Thấy thằng chả đem “Bác Hồ” ra... làm chứng, tôi biết có cãi cũng vô ích. Rồi tôi nhớ ra là anh tài xế cũ của tôi bây giờ lãnh 90 đồng, tôi... đánh đòn chót: “Vậy thôi anh cho tôi làm tài xế, đi! ”. Thằng chả cười, thấy như tôi sao quá khùng, nên vừa lắc đầu vừa trả lời: “Đâu được! Anh là Kỹ Sư đâu làm tài xế được! ”. Tôi làm thinh, bước ra khỏi văn phòng thủ trưởng mà thấy như mình từ trên trời rơi xuống!
... Tôi “chịu trận” với cái gọi là “cách mạng” hết ba năm. Vượt biên thất bại hết ba lần, qua lần thứ tư đi thoát, để bây giờ - ba mươi mấy năm sau - ngồi viết mấy dòng nầy nhân ngày 30 tháng tư thứ 37... mà thấy không phải tôi đã từ trên trời rơi xuống, chính mấy thằng cha “cách mạng” mới là từ trên trời rơi xuống!
Mẹ tôi thường ngồi một mình trong phòng khách, ôm chiếc hộp sắt và lẩm bẩm điều gì đó một mình. Nhìn thấy tôi hoặc con dâu, bà chỉ khẽ cười. Đôi khi tôi hỏi mẹ đang nói gì vậy thì bà trả lời: “Mẹ có nói gì đâu! ”
Vợ tôi thường phàn nàn: “Em sợ cái cảnh này quá”!
Thậm chí có những đêm, vợ tôi thức dậy đi vệ sinh, bất chợt nhìn thấy một cái bóng đen đen lù lù trong phòng khách, thì sợ đến nỗi hồn bay phách lạc. May đúng lúc đó, tôi cũng tỉnh dậy, ra bật điện, thấy mẹ đang ngồi đó không nói năng gì. Tôi hỏi: “Mẹ ơi, sao mẹ lại ngồi đây thế?” Bà đứng dậy, lắc đầu, đến bản thân bà cũng không biết vì sao mình lại ngồi đây.
Quay về phòng, vợ tôi vẫn thao thức. Cô giận dỗi: “Ngày nào cũng như thế này thì làm sao mà sống nổi đây”. Nói xong, cô đề nghị: “Hay chúng ta gửi mẹ vào viện dưỡng lão đi, trong đó có nhiều người già, mẹ cũng có thêm bạn. Còn vợ chồng mình một tuần vào thăm mẹ một lần, như vậy cũng không thể coi là bất hiếu”.
Tôi suy nghĩ mãi rồi vẫn phải lắc đầu, thở dài, quyết định thế nào cũng không xong.
Từ nhỏ tôi đã mồ côi cha, chỉ có mẹ tôi một mình tần tảo nuôi tôi nên người. Tôi nhớ khi ấy có rất nhiều người đến mai mối, khuyên mẹ nên đi bước nữa, và đó đều là những đàn ông tương xứng với mẹ tôi. Nhưng mẹ tôi nhất quyết cự tuyệt, mẹ tôi sợ rằng lấy người khác rồi thì tôi sẽ chịu ấm ức.
Mẹ tôi hàng ngày bán rau kiếm cơm nuôi tôi, một đời ngậm đắng nuốt cay, chặng đường vô vàn gian nan khó bước. Rồi mẹ tôi cũng nuôi tôi học đến đại học, dạy tôi thành trang nam tử, cho tôi kĩ năng phấn đấu trong sự nghiệp. Đến nay mẹ tôi vẫn chưa được hưởng ngày vui nào trọn vẹn, vậy mà chẳng lẽ tôi lại nhẫn tâm đưa mẹ vào viện dưỡng lão sao? Vợ tôi thấy chồng nói vậy thì thôi không nói gì, nhưng trong tâm thì không hài lòng, thường quay mặt tránh nhìn tôi.
Hôm sau khi nấu cơm, bà lại để xảy ra chuyện. Cơm đã chín, nhưng bà lại ấn nút nấu thêm một lần nữa, kết quả cả nồi cơm cháy đen thui. Vợ tôi vừa nhìn nồi cơm vừa trách: “Mẹ, sao mẹ lại ấn nút hai lần?”
Bà nín nhịn hồi lâu, cuối cùng nói một câu: “Mẹ quên”.
Lần khác, mẹ tôi ra ngoài, khi về thì vào nhầm nhà, may mà người ta đưa về.
Sự việc này sau khi xảy ra nhiều lần, trong tâm tôi cũng bắt đầu dao động. Tôi nghĩ: “Hay cứ để mẹ vào viện dưỡng lão xem sao, có khi sẽ tốt hơn cho mẹ, trong đó nhiều người già, mẹ sẽ không còn cô đơn nữa... ” Hôm đó, nhân lúc tâm trạng của mẹ vui vẻ, tôi bèn nói ra suy nghĩ trong lòng.
Mẹ tôi ngồi lặng thinh, không nói lời nào.
Vợ anh ngồi bên, được thể nói: “Mẹ, mẹ đến đó rồi, nếu thực sự không quen, thì chúng con lại đón mẹ về nhà mà”.
Bà thở dài gật đầu, tối đó bà thu dọn. Đồ đạc được chuẩn bị cũng rất đơn giản. Bà còn mang theo chiếc hộp sắt, trên đó có một chiếc khóa nho nhỏ. Mẹ tôi ôm chặt nó vào lòng. Vợ tôi nói: “Mẹ, để nó ở nhà đi”. Bà đáp trả: “Không, mẹ phải mang nó theo! ”
Từ khi mắc bệnh thì cái gì mẹ tôi cũng quên. Chỉ có chiếc hộp sắt là không lúc nào bà quên mang theo bên mình. Đôi khi vợ lôi tôi ra, chỉ vào trán hỏi: “Anh có ngốc không? Có biết có cái gì trong hộp không”? Tôi lắc đầu, từ trước tới giờ tôi thấy mẹ tôi luôn coi chiếc hộp đó như một bảo vật, tôi chỉ biết có vậy thôi.
Vợ tôi nói: “Cả đời người, ai chả có một bảo vật, hay chút tiền vàng trong tay. Trong chiếc hộp của mẹ anh chắc chắn là những thứ đó”.
Tôi vừa nghe vậy, tự nhiên thấy động lòng. Tôi biết, nhà ngoại tôi trước kia là địa chủ giàu có. Nếu thực sự trong hộp có thứ gì đáng giá, đưa mẹ tôi mang theo rồi bị mất hay bị kẻ trộm lấy thì thật đáng tiếc.
Cho nên tôi vô tình đưa tay ra nói: “Mẹ, mẹ đưa hộp đây con xem được không?”
Bà lắc đầu, giữ khư khư bên mình và nhất quyết không đưa cho tôi. Vợ tôi nhìn thấy vậy thì lầm bầm vài câu. Hôm đó vợ chồng tôi chưa đưa mẹ tôi đến nhà dưỡng lão. Đến đêm khi mẹ tôi đã ngủ say, tôi và vợ mới nhẹ nhàng mở hộp ra, bất chợt tôi nhìn thấy những vật trong đó mà tuôn trào nước mắt. Hôm sau, vợ chồng tôi cũng không đưa mẹ tôi đến viện dưỡng lão, và kể từ đó về sau chúng tôi cũng không bao giờ nhắc đến chuyện đó nữa.
Trong chiếc hộp sắt không phải cất giữ tiền, cũng không phải vàng, mà là một nhúm tóc tơ và vài chiếc răng sữa. Bên trong còn có một tờ giấy ghi lại thời gian tôi thay răng và lần đầu tiên cắt tóc. Ở quê tôi có một phong tục, đó là răng sữa và tóc tơ của con cái thì không được phép vứt đi mất, nếu không giữ cẩn thận, đứa trẻ đó sẽ ốm yếu triền miên và chết yểu...
Mẹ có già, có lẫn, mẹ có thể quên đi hết mọi thứ trên đời, quên đi cả chính bản thân mình nhưng tình yêu dành cho con thì vẫn luôn hiện hữu trong trí nhớ của mẹ. Con chính là cả cuộc đời của mẹ.
Gửi: Wed Oct 09, 2024 1:19 am Tiêu đề: QUAY NHÌN LẠI MỘT ĐOẠN ĐỜI
QUAY NHÌN LẠI MỘT ĐOẠN ĐỜI
Mai Hữu Thọ chọn ảnh minh họa
QUAY NHÌN LẠI MỘT ĐOẠN ĐỜI
Phan Xuân Sinh
(Phú Lan sưu tầm)
Lâu lắm tôi không trở lại Huế, bởi nhiều lý do nhưng có lẽ lý do chính đáng nhất, tôi thường né tránh là tôi sợ nhìn lại những gì đã đánh mất. Thật tình thì những nơi chốn tôi dừng lại lâu ngày đều có ít nhiều mất mát. Thế nhưng với Huế thì lại khác đi, bởi lẽ cái khung cảnh trầm lặng cố hữu gây cho người đến một cái buồn mang mác, rưng rức. Huống gì trước đây đã sống ở Huế một thời gian khá lâu như tôi, lại có một vài kỷ niệm thật buồn nên chuyện trở lại thăm Huế làm cho tôi có cảm giác vừa hăm hở nhưng cũng vừa sờ sợ, vừa mong muốn nhưng cũng vừa hối tiếc. Nghĩa là tâm trạng của tôi thật bất ổn và đối nghịch nhau khi nghĩ về Huế.
Ngày xưa khi đọc câu:”Học trò trong Quảng ra thi...” tôi rất bực mình, mấy ông Quảng Nam của tôi mê gái nên mới ra nông nổi nầy, chứ còn tôi cứng cựa không ai hớp hồn được mình, tôi nhủ thầm như vậy. Thế nhưng rồi tôi cũng một phường như các bậc tiền bối Quảng Nam của tôi, té còn nặng hơn và cái đau còn thấm tới bây giờ. Những bài thơ tôi làm thuở đó, có ý như đay nghiến, như mĩa mai, vừa choc giận họ nhưng cũng vuốt ve họ: “Ta chết điếng một thời em Thượng Tứ / Bởi nụ cười môi mỏng gái thâm cung / Bởi lòng em thay từng hồi từng chặp / Mà sao ta vẫn nhớ Huế vô cùng... ”. Thế mà có người khi đọc họ biết ngay được cái đùa giỡn của tôi, họ thấy khó chịu và nổi giận. Một chị bạn người Huế, sau khi đọc mấy bài thơ về Huế kiểu nầy, chị ấy tức mình quá đòi gặp cho được tôi để hỏi ra lẽ:
“Anh Xuân nè, con gái Huế của tụi tôi có làm chi anh buồn, mà anh cho tụi tôi nào là lừa Thượng Tứ với ngựa Thượng Tứ không vậy anh Xuân hè?”
Tôi nhã nhặn trả lời với chị ấy:
“Dạ thưa chị, tôi yêu Huế bởi vì Huế có một thứ ngựa Thượng Tứ mà hễ thằng nào sớn sa sớn sát leo lên là bị té lăn cù, chứ tôi không có buồn chi gái Huế hết chị ạ. Họ dễ thương quá làm sao mình ghét cho được”.
Chị ấy lườm tôi:
“Miệng mồm chi mà lanh lẹ quá”.
Tôi đến Huế sau tết Mậu Thân. Huế lúc ấy thật tan nát, những căn nhà sụp đổ và những vết đạn loang lỗ trên tường. Đường phố vắng lạnh, những khuôn mặt vẫn còn thất thần lo âu chưa tan hết, những người lính chiến tuần tiểu trên đường phố súng ống lăm le sẵn sàng trong tư thế nhả đạn. Huế vẫn chưa thực sự thức dậy sau cơn bệnh ngăt nghèo đó, nên thấy Huế càng thê thảm và càng buồn thêm. Mỗi buổi chiều tôi hay ra ngồi ngoài quán café gần chợ Đông Ba nhìn ra cầu Tràng Tiền mới bị gãy. Chiếc cầu mà người dân Huế rất tự hào, họ ví nó như chiếc xương sống của Huế. Tất cả xe cộ đều đổ dồn trên cầu Bạch Hổ, người đi bộ muốn qua sông phải dùng bến đò Thừa Phủ. Ngồi ở đó để ngắm một góc sinh hoạt của thành phố thật tuyệt vời. Các trường học có nơi đã bắt đầu tựu trường trở lại, những tà áo trắng của nữ sinh cũng bắt đầu thấy thấp thoáng trên đường phố. Áo dài của nữ sinh các trường học của Miền Nam ngày xưa nơi nào cũng có, thế nhưng chiếc áo dài của nữ sinh Huế có cái gì đó khang khác, vừa đài các nhưng cũng vừa nghịch ngợm, vừa kiểu cọ nhưng cũng vừa thâm trầm, hình như họ cất dấu cái chất lãng mạng trong vóc dáng dịu hiền đó. Thằng con trai nào tới Huế cũng bị hớp hồn bởi cái nét tưởng chừng như ngây thơ, nhưng rất liếng thoắng, và đều chết điếng trước cách làm dáng của họ.
Tôi ở nhà một người bạn tên là Kim. Anh lớn tuổi hơn tôi nhiều và đã lập gia đình. Nguyện là cháu gọi vợ anh Kim bằng Dì, nhà Nguyện ở ngoài thành Mang Cá Lớn, Cha của Nguyện vừa mới bị mất tích trong tết Mậu Thân. Nguyện học trường Bồ Đề Thành Nội, mỗi lần Nguyện tới nhà anh Kiếm đều đi thẳng một mạch mặc dù có tôi ngồi chần dần trước cửa, chẳng thèm chào hỏi, chẳng thèm liếc nhìn tôi. Tôi nghĩ trong bụng: “Con nhỏ nầy lối thật, làm cao”. Và ngược lại tôi cũng làm bộ không thèm để ý tới cô ta.
Một lần tôi nghe tiếng xe solex ngừng trước sân, tôi không thèm ngó ra ngoài và cũng không xê dịch chiếc ghế đặt giữa cửa ra vào, mắt tôi dán chặt vào tờ báo. Nguyện bước tới đứng sau lưng tôi không thèm mở miệng để cho tôi nhường lối đi.
Anh Kim ngồi trên ghế phía trong, cười cười nói vói ra:
“Chú Xuân làm khó cháu tôi quá rồi, đứng dậy nhường lối cho cháu tôi đi chứ”.
Lúc ấy tôi giả đò, giật mình quay lui thấy đôi má của Nguyện đỏ hồng. Tôi xê chiếc ghế cho Nguyện bước vào. Lần đầu tôi thấy Nguyện e thẹn và đẹp lạ lùng.
Trong một buổi chiều ngồi ăn cơm với vợ chồng anh Kiếm. Không biết anh nói đùa hay nói thật:
“Có chú Xuân ở đây, nên con Nguyện vài ba ngày ghé qua thăm Dì Dượng nó. Trước đây cả tháng chưa thấy mặt con nhỏ”.
Chị Kim giật mình:
“Đúng rồi, anh nói bây giờ em mới để ý. Lạ thật sao lúc nầy nó hay tới nhà mình vậy hè?”.
Chị nhìn tôi như có vẻ dọ hỏi, tôi tỉnh bơ ăn uống tự nhiên như không để ý tới chuyện của hai người. Ăn xong, tôi về phòng đóng cửa lại, trong lòng tôi lúc ấy sướng chi lạ. Chẳng lẽ Nguyện để ý tới tôi như vậy sao? Bắt đầu bữa đó khi nào Nguyện tới nhà anh Kiếm tôi cũng gật đầu chào, rồi dần dần về sau tôi lân la hỏi chuyện. Lúc đầu thì Nguyện cũng trả lời nhát gừng, sau thì thân thiện và không còn bẻn lẻn như trước đây. Tôi biết Nguyện cũng có cảm tình với tôi, vì trong cử chỉ và lời nói đôi lúc mang một chút săn sóc cho tôi. Thú thật tôi cũng mang bệnh nhát gái nên sự tấn công của tôi cầm chừng, không mấy ồ ạt. Tôi thường bị bí, không biết gì nói với Nguyện nên thường rút vào phòng trước, sau vài câu bâng quơ. Khi có Nguyện tôi vào phòng thường mở he hé cửa để thỉnh thoảng tôi nhìn trộm Nguyện đứng dưới bếp. Và cũng thỉnh thoảng tôi bắt gặp Nguyện liếc nhìn vào phòng tôi. Tôi cảm thấy như mình đang bị dò xét và quả thật trong lòng tôi lúc ấy nôn nao khó tả.
Tết năm đó tôi về Đà Nẵng với gia đình. Tôi thường đi uống café với mấy thằng bạn buổi tối, thường nói chuyện vui vẻ. Nhưng bây giờ ngồi với tụi nó, tôi ít nói hơn và có vẻ đăm chiêu.
Một thằng bạn ngồi cạnh hỏi tôi:
“Ở ngoài Huế, có con nào hớp hồn mi, mà sao tau thấy mấy bửa rày mi có vẻ thẫn thờ?”.
Tôi giật mình, chuyện thầm kín của tôi có người đã nhìn thấy rồi sao? Tôi lắc đầu, nói trớ qua là mấy bữa nay trong người tôi muốn bị cảm. Thế mới hay cái ngớ ngẩn đã hiện trên nét mặt, khó có thể lẫn tránh được. Tôi tự nhủ với lòng mình là sau tết trở ra Huế, tôi sẽ tấn công Nguyện trước chứ không thể để tình trạng nầy kéo dài, mệt mỏi quá. Và tôi nghĩ đã đến cái lúc tôi phải dỏng dạc nói với Nguyện những điều hệ trọng nầy chứ không thể ấp ủ mãi trong lòng. Tết đó sống với gia đình nhưng trông cho hết tết tôi lên xe đò ra Huế ngay.
Tôi mang một số đặc sản của quê tôi để làm quà cho anh chị Kiếm và cho Nguyện. Quà thật ra cũng chẳng quan trọng, nhưng đây là cái cớ để đến nhà Nguyện và cũng thầm nói lên sự quan tâm của tôi với Nguyện. Tôi khệ nệ mang gói quà, gỏ cửa nhà Nguyẹn, tôi hồi hộp như đứng chờ trước khi vào thi vấn đáp. Nguyện ra mở cửa, mắt Nguyện tròn xoe vừa mừng rở vừa ngạc nhiên, chạy lại nâng gói quà trên tay tôi. Tôi nhìn vào trong nhà không thấy ai, tôi kéo Nguyện sát gần, nâng cằm ngước lên tôi hôn ngay trên môi Nguyện. Tôi làm chuyện nầy quá nhanh, Nguyện không kịp phản ứng, trên tay ôm gói quà không bỏ xuống được, chỉ biết trân người chịu trận. Thế là từ giây phút đó tôi đã chiếm được Nguyện. Sau nầy hai đứa kể lại chuyện nầy, Nguyện nói với tôi là: “Không ngờ anh bạo thật, Nguyện nghĩ là anh sẽ nói cái gì với Nguyện trước, rồi sau đó mới hôn. Đằng nầy anh hôn trước rồi mới nói yêu em sau. Anh gan thật”. Đó là người tình mà tôi nôn nóng đốt tất cả giai đoạn tiến tới tình yêu, chọn một con đường nhanh nhất, bạo nhất.
Tôi không còn nhớ năm nào phát hiện được những hố chôn tập thể, hình như là năm 1970 gì đó. Người dân Huế bàng hoàng trước những hố chôn tập thể mà Quân Giải Phóng đã giết những quân nhân, công chức của Miền Nam bị bắt trong tết Mậu Thân. Nghe tin phát hiện nơi nào đã chôn họ, tôi đều chở Nguyện đi tìm xác của người cha. Nhận dạng bằng cách nhìn áo quần họ mặc trước khi bị bắt hoặc một cái gì đặc biệt chỉ có người trong gia đình mới nhận ra v.v.. Tuy nhiên cũng không chính xác lắm. Mỗi khi phát hiện cái hố chôn tập thể nào là hàng ngàn người nhào tới, bất kể mùi hôi thối xông lên nừng nực không chịu được. Tiếng khóc lóc kể lể của những người thân vang lên thật não nuột. Tôi chở Nguyện từ nơi này đến nơi khác nhưng không tìm ra được, tối về nhà hai mẹ con ôm nhau khóc. Chứng kiến cảnh này, tôi xúc động ghê gớm chỉ còn an ủi Nguyện và mong manh hy vọng rằng có thể cha của Nguyện còn sống, đang bị phe bên kia giam giữ. Như vậy mới gây cho gia đình Nguyện một niềm tin và ngày tháng sẽ xoa dịu bớt những thương nhớ. Thật tình trong lòng tôi cũng biết cha của Nguyện đã bị sát hại. Vì khi rút lui họ phải thanh toán những tù nhân để khỏi phải vướng mắc và trì trệ sự rút lui nhanh chóng của họ. Không dại gì khi rút lui họ mang theo đám tù binh lủ khủ chậm chạp này.
Sau đó thì chiến cuộc càng ngày càng khốc liệt. Tôi cũng phải bước vào Quân đội, tôi xa Nguyện từ đó. Chúng tôi vẫn liên lạc với nhau bằng thư từ. Tôi ở một đơn vị tác chiến và quả thật đời sống của một quân nhân rày đây mai đó, mạng sống luôn luôn bị đe dọa, mặc dù tôi rất yêu Nguyện nhưng tôi không dám nghĩ xa hơn. Bao nhiêu lần Nguyện vào thăm tôi, là bao nhiêu lần tôi nghe sự trách móc, tôi chứng kiến những giọt nước mắt đẩm ướt chiếc khăn tay của Nguyện, bao nhiêu lần tôi hứa với Nguyện sẽ nói với gia đình tôi ra Huế thăm mẹ Nguyện và dọ hỏi. Nhưng khi Nguyện rời tôi ra về là tôi không dám nghĩ tới chuyện nầy. Tôi biết, nếu tôi tiến xa hơn, tôi sẽ làm khổ cho Nguyện suốt cả cuộc đời. Tôi đã chứng kiến biết bao nhiêu sự chết chóc của bạn bè tôi, biết bao nhiêu người kề cận tôi tức tưởi ra đi một cách nhanh chóng. Đến khi nào sẽ tới phiên tôi, không thể may mắn mãi mãi được, chỉ cần một lần, một lần thôi đời người sẽ được rủ sạch. Nguyện làm sao hiểu được chuyện thầm kín nầy, nó đã dày vò tôi, đọa đày tôi mỗi khi tôi nghĩ tới Nguyện.
Rồi cái ngày đó cũng tới với tôi. Tôi bị thương trong một cuộc tấn công chiếm lại ngọn đồi, hai bên dằn co nhau trực thăng không xuống được, trời lại mưa to. Vết thương của tôi sưng húp lên, dưới bàn chân thậm đen và đau nhức không chịu được. Ngày hôm sau, một đơn vị bạn tiếp viện, thanh toán được mục tiêu và lúc ấy tôi mới được tải thương. Khi tôi tỉnh dậy trong bệnh viện, tôi nhìn xuống thì bàn chân phải của tôi không còn nữa. Trời ơi, tôi ngất đi. Tôi không thể nào diễn tả hết sự đau khổ tột cùng nầy, tôi muốn chết. Tại sao người ta không cho tôi chết? Tại sao đời lại đày đọa tôi một cách tàn nhẫn như thế nầy. Tôi ôm chiếc gối khóc ấm ức, mọi người đến thăm tôi, tôi đều đuổi họ ra khỏi phòng. Tâm trí tôi điên loạn lên, tôi thù ghét chiến tranh, oán hận chiến tranh.
Trong số người đến thăm tôi đầu tiên trong đó có Nguyện. Nguyện cũng bị tôi đuổi nhưng không chịu ra về. Nguyện ngồi ngoài phòng đợi suốt đêm hôm đó, cho đến trưa hôm sau tới giờ vào thăm bệnh nhân, Nguyện chạy vào ôm chặt lấy tôi khóc nức nở, tôi cũng khóc. Chúng tôi không nói gì với nhau, chỉ biết khóc. Tôi nhìn Nguyện thấy đôi mắt sưng húp lên, thân người dã dượi, quần áo sốch sếch. Tôi biết suốt đêm Nguyện ngồi ngoài phòng đợi chỉ khóc. Tội nghiệp cho Nguyện nhưng tôi biết làm sao bây giờ. Tôi không thể để Nguyện phải mang tiếng lấy một người tàn tật vì thương hại. Mà tôi có đuổi thì Nguyện cũng không đi. Trong lòng tôi lúc ấy vừa đau sót cho mình và cũng vừa thương cho Nguyện. Tôi nghĩ rồi đến một ngày nào đó tôi sẽ nói dứt khoát để cho Nguyện khỏi phải bận tâm tới tôi.
Cách hai ngày từ Huế Nguyện lại vào Tổng Y Viện Duy Tân ở Đà Nẵng thăm tôi. Thỉnh thoảng Nguyện đẩy tôi trên chiếc xe lăn đi lòng vòng trong bệnh viện và có đôi lúc Nguyện tắm cho tôi. Tôi có một người lính ở đơn vị phái về để giúp tôi trong khi còn nằm bệnh viện, nhưng khi có Nguyện thì Nguyện làm những việc nầy. Nghĩa là Nguyện săn sóc cho tôi như là một người vợ. Có lẽ lúc đó là cái lúc mà tôi cảm thấy hạnh phúc nhất. Tuy nhiên sau khi Nguyện trở ra Huế, tôi càng đau đớn thêm, tôi muốn tất cả những người bạn gái quen với tôi trước đây đến thăm tôi một lần rồi thôi. Tôi không muốn dây dưa thêm vì tôi bây giờ không còn là một con người bình thường. Tôi không muốn họ vì thương hại mà miễn cưỡng đến với tôi. Nhiều lúc nhìn Nguyện tôi muốn nói sự thật nầy nhưng tôi không nỡ nói ra được với Nguyện.
Trước ngày tôi rời bệnh viện, Nguyện hỏi tôi:
“Anh có dự tính gì trong tương lai để sống không?”.
Không hiểu sao lúc đó tôi lại nghĩ Nguyện kiếm cớ để rời khỏi tôi, một câu hỏi bình thường như vậy, thế mà đầu óc của tôi lúc ấy cho rằng Nguyện mỉa mai châm chọc tôi. Nguyện phải biết rằng trong một cuộc chiến tranh khốc liệt như thế nầy, những thanh niên trang lứa với tôi lúc đó còn lành lặn, khỏe mạnh mà không tìm được cho mình một tương lai tươi sáng, huống gì một thằng tàn tật như tôi mà nghĩ tới tương lai. Mặt của tôi đanh lại, răng của tôi nghiến chặt, mắt của tôi hực lửa.
Tôi trả lời với Nguyện một cách đay nghiến:
“Khi rời khỏi đây, tôi được Chính phủ cấp cho một cặp nạng. Tôi chỉ còn kiếm thêm cho mình một cái bị như vậy là đủ bộ để trở thành một thằng ăn xin. Tương lai của tôi là lê lết tấm thân ngoài đường phố, ngửa chiếc nón cời để xin từng đồng bạc bố thí của người đời. Cô có thể lấy một thằng chồng có một tương lai đen tối như vậy được không? Cô về đi, về đi, từ nay về sau tôi không muốn nhìn thấy mặt của cô ở đây nữa”.
Nguyện ôm mặt khóc nức nở. Tôi bảo thằng lính nuôi tôi đưa Nguyện ra bến xe về Huế ngay lập tức. Về Huế Nguyện đã viết cho tôi cả trăm bức thư nhưng tôi không đọc và cũng không trả lời.
Mối tình của tôi với Nguyện kể như tan rả từ đó. Từ độ ấy về sau tôi không biết tin tức gì về Nguyện. Tôi không trở lại Huế lần nào và cũng không gặp người quen nào ở Huế. Tôi cố quên tất cả những gì mà trước đây tôi đã sống ở Huế. Thế nhưng thỉnh thoảng vô tình nghe được giọng Huế từ một người nào đó là tự nhiên tôi nhớ Nguyện, tự nhiên hình ảnh Nguyện lại hiện ra. Nguyện không bao giờ biết được tôi không muốn Nguyện phải khổ vì tôi. Tôi nghĩ rằng một thời gian sau, thế nào Nguyện cũng hiểu được lòng của tôi đối với Nguyện.
Sau một thời gian dài chờ ra Hội Đồng Giải Ngũ. Tôi vào Sài Gòn để chuẩn bị chuyện học hành dang dở trước đây. Bây giờ tôi không còn gì lo lắng để bon chen trong cuộc sống, mọi chuyện với tôi đã được an bài. Với số tiền trợ cấp hằng tháng tôi đủ trang trải để đi học và cũng để kiếm cho mình một chút tương lai đỡ bớt sự nhọc nhằn trong cuộc sống sau nầy. Không bao lâu sau toàn Miền Nam bị mất, những người thắng trận mang đến những giáo điều kịch cỡm ụp trên đầu dân chúng. Tất cả cuộc sống lúc ấy bị đảo lộn, những nề nếp cũ bị xóa bỏ. Tôi bơ vơ giữa Sài Gòn không người thân thích. Tôi tìm tới một vài thằng bạn cùng cảnh ngộ để cùng nhau tìm kiếm cho mình một lối sống. Lúc đầu tụi tôi tham gia bán ngoài chợ trời đường Trương Minh Ký, bán có lãi nhưng không đủ để trang trải chi dụng hàng ngày, số vốn ít ỏi cứ thâm thủng dần dần buộc lòng tụi tôi phải tìm một công việc khác. Những công việc sau nầy tương đối ổn định, cuộc sống cũng tương đối khả quan hơn.Tôi lấy vợ lúc nầy.
Tôi đến Mỹ 1990, đến năm 1994 nghe tin Ba của tôi mất, tôi phải về lại Đà Nẵng chịu tang. Vợ tôi muốn đi Huế cho biết, tôi chìu lòng nên cả gia đình tôi ra Huế. Sau khi thăm các lăng tẩm xong thì mọi người muốn vào chợ Đông Ba, tôi quá mệt nên ngồi ở quán cafe bên bờ sông chờ mọi người. Hơn nữa tôi muốn nhìn lại Huế, tôi không muốn ai quấy rầy tôi lúc nầy. Tôi ngồi một mình để tìm lại những gì có một chút quen thuộc mà tôi có thể nhớ lại. Huế vẫn nghèo xơ xác, đường phố đông người hơn nhưng bộ mặt của Huế vẫn trầm lặng như thuở nào.
Tôi đang nghĩ miên man, thì bất chợt nhìn thấy một người đang ngồi với gánh bún bò khuôn mặt hao hao như chị Kim. Tôi ngồi nhìn chị khá lâu, đúng là chị Kim rồi, tôi phân vân không biết phải làm sao nói chuyện với chị, vì tôi sợ chị sẽ xúc động khi gặp lại tôi trong một hoàn cảnh thật nghiệt ngã cho chị. Dù sao đi nữa tôi cũng là người từ Mỹ về, ở bên Mỹ tôi chỉ là một thằng cu-ly nhưng so sánh với chị lúc nầy vẫn thấy hơn chị quá nhiều. Tôi ngồi nhìn chị mà tôi cảm thấy quặn đau, một người ngày xưa vóc dáng như tiểu thư thế mà bây giờ tàn tạ như vậy. Khi chị đứng dậy gánh bún đi nơi khác, tôi vội trả tiền café và đi theo sau chị. Được một đổi đường, tới chỗ hơi vắng người, tôi khe khẻ gọi chị:
“Chị Kim”.
Chị để gánh bún xuống, quay lưng nhìn tôi. Tôi không để cho chị nhận ra mình trước, tôi nói ngay:
“Chị nhận ra em không? Em là Xuân đây mà”.
Chị há mồm không nói được, mắt chị sáng lên, tự nhiên nước mắt chị tuôn ra. Tôi đến gần nắm lấy tay chị. Bàn tay chị khô khốc, bàn tay mà ngày xưa khi còn ở chung với anh chị tôi hay khen là bàn tay nõn nà quý phái, bây giờ thì nó đen sạm và chai lì. Một hồi chị mới nói được với tôi:
” Mấy chục năm rồi mới gặp lại chú”.
Rồi chị lại khóc, lần nầy chị khóc tức tưởi như có điều gì uất ức.
Chị cho tôi biết, anh Kim đã mất hơn mười năm nay. Bệnh hoạn mà không có tiền lo thuốc thang. Chị phải bán nhà dẫn con về quê, hiện các cháu đang sống với bà Ngoại. Ở quê không có gì làm ăn nên chị quay trở lại thành phố, buôn bán gửi tiền về nuôi con, đời sống của chị thật cơ cực. Tôi hỏi chị về Nguyện bây giờ ra sao? Chị nhìn tôi một hồi, trong ánh mắt chị có một cái gí đó oán trách, nước mắt chị lại tuôn ra, chị nói trong nước mắt:
” Nguyện đã chết rồi”.
Tôi đứng lặng người, Chị nói thêm:
“Cả gia đình Nguyện đều mất tích trong một chuyến vượt biên”.
Lúc này nước mắt tôi bắt đầu rơi xuống. Trời ơi, tôi đã cố tránh cho Nguyện một tai họa, thì Nguyện lại gặp một tai họa khác khốc liệt hơn và tàn nhẫn hơn. Làm sao có những bất công cứ đổ xuống trên đầu chúng tôi nhiều như vậy.
Chị Kim cho tôi biết thêm là Nguyện sau nầy có chồng và được hai con. Gia đình Nguyện và Mẹ của Nguyện vượt biên năm 82 và mất tích từ đó. Cái nhà cũ của Nguyện bị tịch thu, hiện thời cán bộ đang ở. Chị kể cho tôi nghe hết chuyện nầy đến chuyện khác, chuyện nào cũng buồn nên nước mắt của chị cứ liên tục chảy mãi. Rồi tôi cũng phải ra về. Tôi có bao nhiêu tiền mang theo, gôm hết bỏ vào túi chị, chị ngượng ngùng không muốn nhận, tôi phải năn nỉ chị nhiều lần. Tôi quý trọng con người của chị, sống trong nghèo khổ nhưng phong thái của chị thanh bạch, không cần mở miệng xin xỏ ai.Tôi nói rằng không ngờ gặp lại chị hi hữu như thế nầy. Lần sau về sẽ ra Huế tìm gặp lại chị.
Cho đến bây giờ, mười mấy năm rồi tôi chưa trở lại Huế. Không biết đời sống của chị Kim bây giờ ra sao? Huế đối với tôi buồn như thế, thì làm sao tôi dám nhìn lại. Tuy nhiên tôi vẫn còn nợ một lời hứa với chị Kiếm. Về để thăm các cháu, con của chị, thăm bà Ngoại của Nguyện, mà khi còn quen với Nguyện tôi đã nghe Nguyện kể về bà với tất cả lòng kính mến. Có lẽ trong nhà của Ngoại, thế nào cũng đặt cho gia đình Nguyện chiếc bàn thờ. Tôi còn nợ với Nguyện một lời xin lỗi mà bao nhiêu năm nay tôi không nói ra được. Tôi sẽ thắp cho Nguyện một nén hương và nói lên một lời xin lỗi ấy, dù lời của tôi đã muộn màng. Nhưng tôi nghĩ Nguyện sẽ hiểu được lòng tôi./
Boston, 10 tháng 12 năm 2005
Phan Xuân Sinh
ANH KHÔNG CHẾT ĐÂU ANH Sáng tác : Trần Thiện Thanh Trình bày : Thanh Lan
1. Lúc về già mình sẽ tuyệt đối không được chủ quan nghĩ rằng còn khoẻ, còn sung sức để nghĩ và làm những việc như hồi thanh niên. Tiền bạc là của con, địa vị là tạm thời, vẻ vang là quá khứ, SỨC KHOẺ là của mình.
2. Lúc về già mình nên quan tâm đến BẢN THÂN, sống thế nào cho vui thì sống, việc nào muốn và thích thì làm, ai nói sao mặc kệ vì mình đâu phải sống vì ý thích hay không thích của người khác, nên sống thật với mình.
3. Lúc về già mình sẽ SỐNG GẦN CON mà không sống chung với bất cứ đứa nào, chỉ sống với...vợ. Nếu cứ thương con cái, sống với chúng nó thể nào cũng đến lúc mình ở trọ trong chính ngôi nhà của mình. Con không có tiền mua nhà thì thuê, không đủ tiền thuê mình hỗ trợ, quyết không ở chung, trai gái dâu rể gì cũng vậy hết, một tuần đến thăm nhau 1 lần vào ngày cuối tuần là đủ.
4. Lúc về già... rất già, nên đặt một chỗ ở một trung tâm DƯỠNG LÃO nào đó. Tiền ít ở chỗ xoàng, tiền nhiều ở chỗ tươm để được chăm sóc y tế tốt và có nhiều cơ hội vui chơi bên bạn đồng trang lứa.
5. Lúc về già nên và chỉ nói hai chữ "ngày xưa" (đúng hơn là những câu chuyện hoài niệm) với BẠN đồng niên, tuyệt đối không nói với lũ trẻ, vì chúng sẽ cho mình bị dở hơi. Với tụi trẻ chỉ nói "ngày mai" và chỉ trả lời khi chúng hỏi. Về lại chốn xưa, gặp lại người thân, cùng nhắc lại những ước mơ thuở nhỏ, cùng bạn học nhớ lại bao chuyện vui thời trai trẻ, có như vậy mới tìm lại được cảm giác của một thời đầy sức sống. Quý trọng và được đắm mình trong những tình cảm chân thành là một niềm vui lớn của tuổi già. Nếu bạn đã cố hết sức mà vẫn không thay đổi tình trạng không hài lòng thì mặc kệ nó! Đó cũng là một sự giải thoát. Chẳng việc gì cố mà được, quả ngắt vội không bao giờ ngọt.
6. Lúc về già, mình sẽ dành thời gian đi THĂM QUAN những vùng đất mà chưa bao giờ đặt chân đến.
7. Lúc về già mình phải thay đổi quan niệm cũ kỹ đi, hãy chia tay với “ông sư khổ hạnh”, hãy làm “CON CHIM BAY LƯỢN”. Cần ăn thì ăn, cần mặc thì mặc, cần chơi thì chơi, luôn luôn nâng cao chất lượng cuộc sống, hưởng thụ những thành quả công nghệ cao, đó mới là ý nghĩa sống của tuổi già.
8. Lúc về già đừng bao giờ đến CƠ QUAN CŨ, nếu như chưa nhận được một lời mời trân trọng, vào những dịp đặc biệt.
9. Lúc về già cần HIỂU rõ:
- Hạnh phúc do mình tạo ra. Vui sướng là mục tiêu cuối cùng của đời người, niềm vui ẩn chứa trong những sự việc vụn vặt nhất trong đời sống, mình phải tự tìm lấy. Hạnh phúc là cảm giác, cảm nhận, điều quan trọng là ở tâm trạng.
- Tiền không phải là tất cả nhưng không phải không là gì. Đừng quá coi trọng đồng tiền, càng không nên quá so đo, nếu hiểu ra thì sẽ thấy nó là thứ ngoại thân, khi ra đời chẳng mang đến, khi chết chẳng mang đi. Nếu có người cần giúp, rộng lòng mở hầu bao, đó là một niềm vui lớn. Nếu dùng tiền mua được sức khỏe và niềm vui thì tại sao không bỏ ra mà mua? Nếu dùng tiền mà mua được sự an nhàn tự tại thì đáng lắm chứ! Người khôn biết kiếm tiền biết tiêu tiền. Làm chủ đồng tiền, đừng làm tôi tớ cho nó.
- Cha mẹ yêu con là vô hạn; con yêu cha mẹ là có hạn. Con ốm cha mẹ buồn lo; cha mẹ ốm con nhòm một chút hỏi vài câu là thấy đủ rồi. Con tiêu tiền cha mẹ thoải mái; cha mẹ tiêu tiền con chẳng dễ. Nhà cha mẹ là nhà con; nhà con không phải là nhà cha mẹ. Khác nhau là thế, mình phải coi việc lo liệu cho con là nghĩa vụ, là niềm vui, mà không mong báo đáp, chờ báo đáp là tự làm khổ mình.
- Ốm đau trông cậy ai? Trông cậy con ư? Nếu ốm dai dẳng chẳng có đứa con có hiếu nào ở bên giường đâu. Trông vào bạn đời ư? Người ta lo cho bản thân còn chưa xong, có muốn đỡ đần cũng không làm nổi. Vậy nên cần chuẩn bị tài chính để sẵn sàng thuê người chăm sóc để con cái đỡ vất vả vì mình.
- Người ngu gây bệnh (hút thuốc, say rượu, tham ăn tham uống...). Người dốt chờ bệnh (ốm đau mới đi khám chữa bệnh). Người khôn phòng bệnh, chăm sóc bản thân, chăm sóc cuộc sống. Khát mới uống, đói mới ăn, mệt mới nghỉ, thèm ngủ mới ngủ, ốm mới khám chữa bệnh... Tất cả đều là muộn.
- Chất lượng cuộc sống của người già cao hay thấp chủ yếu tùy thuộc vào cách tư duy, tư duy tích cực là bất cứ việc gì đều xét theo yếu tố có lợi, dùng tư duy lạc quan để thiết kế cuộc sống tuổi già sẽ làm cho tuổi già đầy sức sống và sự tự tin, cuộc sống có hương vị; tư duy hướng hại là tư duy tiêu cực, sống qua ngày với tâm lý bi quan, sống như vậy sẽ chóng già chóng chết.
- “Hoàn toàn khỏe mạnh” là thân thể, tâm lý và đạo đức đều khỏe mạnh. Tâm lý khỏe mạnh là biết chịu đựng, biết tự chủ, biết giao thiệp; đạo đức khỏe mạnh là có tình thương yêu, sẵn lòng giúp người, có lòng khoan dung, người chăm làm điều thiện sẽ sống lâu.
10. Lúc về già mình sẽ thực hiện: 3 QUÊN, 4 CÓ, 5 KHÔNGvà 6 VỊ BÁC SĨ
- 3 QUÊN:
* Một quên mình tuổi đã già
Sống vui, sống khỏe, lo xa làm gì.
* Hai là bệnh tật quên đi
Cuộc đời nó thế, việc gì nhọc tâm
* Ba quên thù hận cho xong
Ăn ngon ngủ kỹ để lòng thảnh thơi.
- 4 CÓ:
* Một nên có một gia đình
Vì không – homeless – người khinh lẽ thường
* Hai cần phải có nhà riêng
Đói no cũng chẳng làm phiền dâu, con
* Ba là trương mục ngân hàng
Ít nhiều tiết kiệm an thân tuổi già
* Bốn cần có bạn gần xa
Tri âm, tri kỷ để mà hàn huyên.
- 5 KHÔNG:
* Một không vô cớ bán nhà
Dọn vào chung chạ la cà với con
* Hai không nhận cháu để trông
Nhớ thì thăm hỏi bà, ông, cháu mừng
* Ba không cố gắng ở chung
Tiếng chì, tiếng bấc khó lòng tránh lâu
* Bốn không từ chối yêu cầu
Ít nhiều quà cáp con, dâu, cho mình
* Năm không can thiệp nhiệt tình
Đời tư hay việc riêng phần của con.
- 6 VỊ BÁC SĨ TỐT NHẤT TRONG ĐỜI:
* Ánh nắng mặt trời
* Nghỉ ngơi
* Thể dục
* Ăn uống điều độ
* Tự tin
* Bạn bè
Cuối cùng luôn xác định TƯ TƯỞNG:
“Sinh - bệnh - lão - tử” là quy luật ở đời, không chống lại được. Khi thần chết gọi thì thanh thản mà đi. Cốt sao sống đàng hoàng để không hổ thẹn với lương tâm và cuối cùng đặt cho mình một dấu CHẤM HẾT THẬT TRÒN.
Gửi: Mon Oct 21, 2024 11:12 pm Tiêu đề: Chuyện của TÌNH
Chuyện của TÌNH
Đầu đường Đại Tá bơm xe! (Ảnh minh họa)
Chuyện của TÌNH
(Phú Lan sưu tầm)
Đây không phải là một câu chuyện yêu đương tình ái hoa lá cành, lại càng không phải là câu chuyện liêu trai mơ hồ huyền ảo vô thực hay chuyện tình ái kiểu „ngàn lẻ một đêm“. Không! Đây là câu chuyện của một sĩ quan đảng viên trong quân đội miền Bắc được gởi vào Nam sau khi miền Nam VN bị CS miền Bắc cưỡng chiếm vào tháng 4 năm 1975.
Tháng 3 năm 1975 tôi bị VC bắt làm tù binh tại phi trường Đà Nẵng và được phóng thích vào cuối năm 1978. Không nghề không nghiệp, chẳng biết tương lai ra sao. Đi đâu cũng nghe bàn tán chuyện vượt biên bằng thuyền. Bạn bè cho biết ngoài Vũng Tàu có nhiều công ty xây dựng đang tuyển công nhân. Như cá gặp nước, tôi vội chạy ra đó xin việc và được nhận ngay với chức... “culi“, được làm chủ chiếc xe một bánh với hai tay cầm mà người ta thường gọi là „xe rùa“ hay „xe cút kít“ dùng để chuyên chở các vật liệu xây dựng như vôi, vữa, xà bần, gạch, đá... Công ty do anh TQK làm giám đốc, dân Mỹ Tho, sảng khoái, chịu chơi, thích nhậu nhẹt với đám „cu li“, các sĩ quan QL/VNCH nào ở tù mới về là anh nhận vào làm „cu li“ hết, không cần biết tông ti lý lịch. Công việc tuy cực nhọc nhưng tinh thần thì thoải mái vì chung quanh đều là đồng đội khi xưa từ nhiều binh chủng khác nhau mà hầu hết ra đây đều là đi tìm đường vượt biên, nhưng chẳng ai dám nói cho nhau nghe. Chính nơi này tôi gặp lại ông bạn „cu li“ lớn tuổi Huỳnh.T, Thiếu úy trong Tổng Cục Tiếp Vận VNCH, „cu li“ Trung úy Lê Văn H., đại đội phó Thủy Quân Lục Chiến và „cu li“ Thiếu úy Trần Bá H., trung đội trưởng Nhảy Dù. Cả ba hiện đang sinh sống tại Hoa Kỳ
Vũng Tàu vào cuối thập niên 70 qua đầu thập niên 80 thật nhộn nhịp với rất đông công nhân làm việc như một phong trào thi đua xây dựng lại thành phố, nhà ở, để chuẩn bị đón tiếp đám chuyên gia dầu khí Liên Xô và các nước CS Đông Âu sang VN khai thác dầu hỏa. Đây chính là quốc sách ưu tiên hàng đầu vào thời đó. Chính đích thân Đỗ Mười, lúc đó là phó thủ tướng kiêm phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng sau khi thị sát Vũng Tàu đã quyết định cấp toàn bộ khu khách sạn Lam Sơn cho xí ngiệp liên doanh Việt-Liên Xô mang tên Vietsovpetro thuộc Tổng Cục Du Lich VN toàn quyền xử dụng, Thêm vào đó, một số khách sạn và biệt thự tại Vũng Tàu từ trước năm 1975 bị CS tịch thu đều do công ty này tiếp nhận để sửa chữa. Khách sạn Thắng Lợi đường Lê Lai (bãi trước) là đại bản doanh của công ty Vietsovpetro và cũng là nơi cư ngụ của các kỹ sư Liên Xô và Đông Âu, cùng với gần 100 cán bộ xây dựng và an ninh từ miền Bắc, nhưng tất cả đều không có một chút kinh nghiệm gì trong lãnh vực đối ngoại, du lịch và xây dựng. Do đó chúng phải cần đến các công ty xây dựng của miền Nam từ trước năm 1975 giúp đỡ. Công ty của anh TQK (nơi tôi làm cu li) là một trong nhiều công ty từ Sài Gòn và Biên Hòa. Tất cả để đều nằm dưới sự chỉ đạo và kiểm soát an ninh bởi bọn cán bộ CS miền Bắc. Gần khách sạn Thắng Lợi có một khu đất trống được dành riêng cho đám công nhân „cu li“ buôn bán, ăn uống từ sáng đến tối. Đông nhất là mỗi buổi sáng có hàng trăm „cu li“ ngồi uống cà phê ăn sáng trước khi đi làm. Bọn cán bộ CS cũng thường xuyên gia nhập đông đảo thưởng thức cà phê „cái nồi ngồi trên cái cốc“ hay ly trà đá mát rượi. Chúng lân la gợi chuyện với đám „cu li“, ra vẻ hòa đồng thân thiện nhưng để kiểm soát rình rập theo dõi.
Ngày nọ, một thanh niên quần áo chỉnh tề, đầu đội nón cối, chân đi dép râu, vai đeo lủng lẳng cái cặp da bộ đội đã bạc màu dành riêng cho các sĩ quan bộ đội miền Bắc, ngồi xà xuống bàn còn ghế trống mà chúng tôi đang ngồi uống cà phê. Anh ta hỏi thăm đủ chuyện trên trời dưới đất, rất tự nhiên và cởi mở, khoe mới vào Nam được mấy tháng và hiện là quản đốc toàn bộ công trường thi công Vũng Tàu. Vừa lúc đó, anh TQK (ông chủ của tôi) đi ngang qua, thấy ông cán bộ liền vội cười toe toét „chào sếp“, tay kéo ghế, miệng kêu ly cà phê rồi ngồi chung bàn. Anh chỉ bọn tôi giới thiệu là nhân công của anh và dành bao hết cả bàn. Trước khi chia tay anh nói nhỏ với chúng tôi rằng: „Tên này là cán bộ thứ dữ đó, coi chừng mồm miệng nghe mấy cha nội“. Mấy ngày sau tôi đang phờ râu khệ nệ đẩy „xe cút kít“ đi đổ xà bần thì gặp lại anh chàng „cán bộ thứ dữ“ đang lững thững đi trên đường. Vẫn là vài câu xã giao cho xong chuyện. Vẫn ngày ngày không hẹn mà gặp, lại chuyện „xe cán chó, chó cán xe“ bên ly cà phê với tô cháo hột vịt hay ổ bánh mì trong khu chợ công nhân. Ngày tháng cứ thế trôi qua, việc ai người nấy làm, hồn ai người nấy giữ trong khoảng đất trống nhỏ nhưng đông người. Từ đó, tình cảm con người bỗng trở nên thân thiết và cởi mở hơn lúc ban đầu. Chàng „cán bộ thứ dữ“ thỉnh thoảng dúi vào tay tôi vài ba bao thuốc lá Thăng Long, loại thuốc lá chỉ dành riêng cho các quan chức, cán bộ cao cấp trong cái gọi là „thời bao cấp“ lúc bấy giờ: „Tớ tặng cậu đấy, đừng để người ta thấy nhé“. Tôi hơi chới với, không phải vì mấy bao thuốc lá, mà vì hai chữ „cậu cậu tớ tớ“ giữa hai thằng đàn ông nghe lạ tai quá, nhão nhoẹt như tô đậu hũ thiu và có vẻ... đàn bà, mặc dù chính tôi cũng là thằng Bắc kỳ lớn lên trong Nam. Thôi kệ! cứ „cậu cậu tớ tớ“ để khỏi phải rít ống thuốc lào Lạng Sơn. Thằng Bắc kỳ 54 „cậu cậu tớ tớ“ với thằng Bắc kỳ 75 thì có chết thằng Tây nào đâu, miễn sao đạt được mục đích của mình, biết đâu đây là „cái dù che thân“ lợi dụng được chăng? Thời gian này tìm được „cái dù“ để “dựa hơi mà sống“ chẳng phải dễ, ai mà chẳng ham! Vượt biên là trên hết!
- Tớ tên Nguyễn Văn Tình, gốc Hải Phòng, có vợ được 1 con đang sinh sống ngoài Hà Nội. Còn cậu trước khi vào Nam ở đâu, làm gì?
- Quê tớ cũng Hải Phòng. Năm 54 theo bố mẹ chui vào tàu há mồm vào Nam, sống tại Sài Gòn, đi lính Không Quân/VNCH đóng tại phi trường Đà Nẵng, bị bắt làm tù binh, mới được thả về.
- Ấy ấy! bọn tớ tiếp thu phi trường Đà Nẵng đấy, đầy đủ tiện nghi, to đùng như cái mặt trăng.
- Thật không? Cậu cũng là lính Không Quân miền Bắc hả?
- Ừ! Lúc đó tớ là trung úy của lữ đoàn Công binh 28 thuộc quân chủng phòng không không quân vào tiếp thu phi trường Đà Nẵng do lính sư đoàn 2, quân khu 5 mới chiếm được. Vào đây mới thấy lính tàu bay trong Nam của các cậu làm việc trong phi trường sướng quá, nhiều văn phòng còn có cả máy lạnh mát rợi...
- Vậy sao các cậu cứ lải nhải bảo là „phồn vinh giả tạo“, giờ sáng mắt rồi hả?
Thú thật, lúc này tim tôi như bị thắt lại, nuốt hận thù vào bụng, nhìn thẳng vào mắt thằng Bắc kỳ 75 ngồi đối diện, thấy nó vẫn bình thản tỉnh bơ, không xúc động, không lộ vẻ kiêu căng của „bên thắng cuộc“. Tôi hỏi tiếp:
- Cậu bên quân đội sao bây giờ lại làm trong công ty du lịch dầu khí này?
- Sau khi thống nhất đất nước tớ được „phục viên“ và thuyên chuyển vào đây cùng với các cán bộ kỹ thuật để khai thác dầu khí và các dịch vụ khách sạn, cửa hàng, nhà ở cho các chuyên viên Liên Xô và Đông Âu. Hôm nào tiện, tớ dẫn cậu về nhà tớ „tham quan“. Thật tình lúc đó tôi chẳng hiểu „tham quan“ nghĩa là gì? Nghe sao lơ lớ như tiếng Tàu pha tiếng Miên. Tình giải thích „tham“ là tham gia, tham dự, „quan“ là quan sát, là nhìn, là xem... À ra thế, tiếng Bắc của miền Bắc ta „sáng tạo tuyệt vời, đỉnh cao trí tuệ“. Tôi chả lả:
- Mới vào Nam mấy tháng mà cậu đã mua nhà ở đây rồi hả?
- Làm gì có tiền mà mua, nếu có tiền mà mua cũng chẳng ai cho mua đâu. Nhà nước cấp cho đấy, nhà to đùng như cái „Vi La của Tây“ ấy, nghe họ bảo đây là nhà của ông tá ông tướng nào đó đã chay ra nước ngoài.
Cái „Vi La“ của Tình „bự bành ki“ thật, đầy đủ tiện nghi bàn ghế tủ giường, cây lá xum xuê vây quanh, có hồ bơi phủ là rong rêu, mấy cái máy lạnh bắt đầu sét rỉ vì từ lâu không xử dụng. Tôi hỏi Tình sao không mang vợ con vào đây cho sướng thân, Tình bảo:
- Mang thấy quái nào được, chịu vậy thôi. Nghĩ mà thương cho vợ con tớ phải sống chui rúc trong „nhà tập thể Kim Liên“ ngoài Hà Nội, mỗi hộ khoảng 30m2, cứ 4 hộ thì dùng chung 1 bếp và 1 cầu tiêu. Hộ bên cạnh nhà tớ của ông công an còn nuôi cả heo nữa đấy, mùi cứt heo quanh năm... Thời bao cấp mà!
- Trời! nghe sao ghê quá vậy! Cậu là „cán bộ thứ dữ“ mà?
- Thì cán bộ mới được hưởng như thế đó, dân thường còn bi đát hơn nhiều. Cái ý tưởng xây các khu nhà tập thể này là do ông Hồ khi qua thăm nước Triều Tiên thấy bên đó có các khu tập thể như vậy, nên đề nghị Triều Tiên qua hỗ trợ xây dựng đấy.
- Tớ cứ tưởng ngoài Bắc đâu đến nỗi tệ như thế?
- " Thời bao cấp“ mà cậu. Cái ở còn như thế, cái ăn, cái mặc càng tệ hơn nhiều. Lương thực, thjt thà, cá mắm muối gạo, vải vóc, tiện nghi... đều do nhà nước quản lý và cung cấp theo chế độ tem phiếu. Tớ là cán bộ mỗi tháng được mua 13 ký gạo, thịt lợn 3 lạng, dầu hỏa 4 lít. Mà gạo là gạo „bảy nổi ba chìm“ chứ ngon lành gì? Còn vải thì 5 mét một năm, mà chỉ toàn một màu xam xám.
- Tớ không hiểu cậu nói gạo „bảy nổi ba chìm“ là gạo gì?
- Này nhé, khi vo gạo thì 7 phần là gạo mọt, gạo mối nên nó nổi lều bều, còn lại chỉ có 3 phần là gạo nấu cơm được thôi. Ấy là gạo còn độn khoai độn sắn nữa đấy. Nói chung là cái gì cũng hiếm, cái gì cũng thiếu suốt.
- À ra thế. Miền Bắc các cậu đói nghèo như thế nên lôi cả thơ „cái bánh trôi nước“ của bà Hồ Xuân Hương ra mà ngâm cho đỡ đói...
Tình đứng lên vừa với tập sách cũ kỹ trên tủ, vừa cười vừa nói:
- Tớ đọc cho cậu nghe một bài thơ châm biếm ngoài Bắc người ta thường truyền tai nhau như thế này nhé: Một yêu anh có may ô (áo lót) / Hai yêu anh có cá khô để dành / Ba yêu rửa mặt bằng khăn / Bốn yêu bàn chải đánh răng hàng ngày / Năm yêu anh có đôi giầy / Sáu yêu anh có khăn quàng vắt vai / Bảy yêu có sẵn gạc nai (sừng con nai để nấu thành cao bồi bổ sức khỏe) / Tám yêu nước mắm cả chai ăn dần / Chín yêu anh rất chuyên cần / Mười yêu anh chỉ để phần cho em.
- Hay quá, chắc cậu đọc bài thơ này khoe cậu có „cái gạc nai“ nên mới lấy được bà vợ bây giờ hả?
Tình cởi mở thật thà như thế và tôi dần dần cảm nhận trong Tình có cái gì khác lạ, có cái gì đong đưa so sánh pha lẫn chút uẩn ức chán chường mà không dám nói ra. Tuy thế tôi vẫn phải „đề cao cảnh giác“ vì đen trắng vẫn còn lẫn lộn. Tôi rủ Tình về Sài Gòn chơi, tiện thể ghé nhà thăm bố mẹ. Tình hớn hở nhận lời ngay. Tôi định mua vé xe đò thì Tình bảo „tớ có một con Honda“ do cơ quan cấp. Tôi hỏi sao không phải xe hơi. Tình bảo có chứ, nhưng đi Sài Gòn bằng „xe con“ lúc về phải làm „bản tường trình“ cho cơ quan, ấy là chưa kể „đồng chí lái xe con“ lại „ba hoa chích chòe“ thì phiền phức bỏ mẹ. Tôi giới thiệu ông „cán bộ thứ dữ“ họ Nguyễn tên Tình cho bố tôi. Bố tôi tiếp Tình bằng tách nước chè (trà) với đĩa kẹo lạc (kẹo đậu phụng) nhâm nhi gợi chuyện. Tôi khoe với bố, Tình là quản đốc cả công trường xây dựng Vũng Tàu, quyền hành bao la. Không biết có thật hay không mà bố tôi nói với Tình rằng tên công an phường nhà tôi cũng quê Hải Phòng, rồi viện cớ cùng quê, cùng làng, gởi gấm tôi cho Tình mong giúp đỡ. Tình nói coi bố tôi như bố mình, rồi biếu bố tôi một bao thuốc hàng ngoại 555 mới tinh và gói chè Tân Cương/Thái Nguyên trong gói giấy nhăn nheo vàng úa, khoe rằng chè Tân Cương quý nhất miền Bắc, trị bách bệnh, ổn định huyết áp, kéo dài tuổi thọ. Bố tôi vừa cười vừa nói „Cậu rủa tôi chết sớm hay sao vậy hả?“. Ông lên gác bê xuống một thùng đồ bà cô tôi từ Mỹ mới gởi về, lôi ra tặng Tình 1 bánh xà phòng Dove thơm phức và 1 xấp vải nhung đen may áo dài. Tình lắc đầu không dám nhận. Bố tôi quát:
- Cái này tôi cho vợ cậu chứ tôi thèm hối lộ cậu làm quái gì, đem về cho vợ đi.
Đang lúc Tình loay hoay dắt xe Honda nổ máy ra về, bố tôi kéo ngay tôi vào nhà bếp phía sau rồi nghiêm nghị bảoi: „Nếu khi nào thời thế đổi thay thì con nhớ phải tóm cổ thằng này đầu tiên nghe chưa! “. Tôi vâng vâng dạ dạ rồi leo ngay lên xe của Tình ra lại Vũng Tàu.
Trong thời gian này tôi âm thầm liên lạc được một mối vượt biên từ Bến Đá/Bà Rịa, nơi có làng chài Công Giáo Bắc Kỳ 54 rất lớn nằm cách không xa Chùa Thiếu Lâm với Thích Ca Phật Đài. Chủ ghe và cũng là người tổ chức lại là bố của người bạn học cũ từ những năm trung học, cũng là sĩ quan công binh ở tù mới về. Vì là bạn của con, bác thương tình cho tôi đi không lấy tiền, hẹn địa điểm, ngày giờ ra bến. Tôi báo tin vui cho bố mẹ và dĩ nhiên không cho Tình biết. Nào ngờ, ghe đang phom phom chưa ra đến cửa biển thì bị ghe của bọn công an biên phòng chiếu đèn pha chóa mắt, đụng rầm rầm ngang hông. Nước tràn vào ghe làm chao đảo như muốn chìm cùng với tiếng quát tháo la hét om trời trong đêm tối. Thế là già trẻ lớn bé trên dưới gần 100 mạng tay xách nách mang chui vào nhà tù Bà Rịa. Tôi nghĩ số mình đã tận, vừa thoát tù chưa lâu, bây giờ lại vào tù tiếp. Rõ chán! Thôi thì phó mặc theo ý Trời.
Chưa đầy một tuần thì thằng công an cai tù tên Long gọi tôi lên làm... “giấy ra trại“. Tôi nghĩ mình nghe lầm nên cứ đứng tần ngần suy nghĩ. Thằng công an cai tù tên Long cầm một tờ giấy và cây bút quát tháo hối thúc tôi ký tên. Tôi chẳng thèm đọc, cúi xuống nguệch ngoạc ký vào, rồi bước vội ra cổng như sợ chúng đổi ý. Nhìn xa xa thấy có người đang khoác tay gọi. Lại gần chợt hết hồn vì thấy ông „cán bộ thứ dữ“ Nguyễn Văn Tình đứng chần dần ở đó. Tình chở tôi ra quán cà phê bên đường, mặt hầm hầm nói:
- Cậu liều lĩnh quá, sao dám vượt biên trốn ra nước ngoài hả.
- Sao cậu biết tớ vượt biên đang ở tù?
- Mấy hôm không thấy cậu đi làm, hỏi thăm loanh quanh có người nói chắc cậu đi vượt biên rồi, nhưng tớ đâu có tin. Tớ ra đồn công an Bà Rịa dò la thì họ cho biết cách đây mấy ngày bắt được một ghe vượt biên đang nhốt trong tù. Đọc trong danh sách thì thấy tên cậu nên tớ làm giấy bảo lãnh cậu ra, viện cớ là anh em họ, bị chúng nó dụ dỗ đi theo. Lần sau có đi thì báo cho tớ biết trước để tớ lo liệu nghe chưa?
Tôi cám ơn Tình rối rít. Dù sao đây cũng là „cái ơn cứu nguy“ thoát nạn tù đầy. Hôm sau mọi việc vẫn như cũ, vẫn lái xe „cút kít“ đổ xà bần. Bạn bè hỏi thăm, tôi nói bị sốt rét chắc vì hậu quả hơn 3 năm đi tù trong rừng rậm miền Trung gần biên giới Lào. Chỉ thương ông sếp hãng thầu của tôi là anh TQK cứ tưởng thật, nên dúi vào tay tôi 10 viên thuốc „ký ninh“ bảo là thuốc trị sốt rét của bộ đội. Tôi mang về cho đứa em út bán chợ trời. Còn chuyện „Lần sau có đi thì báo cho tớ biết để tớ lo liệu“ như Tình nói thì „tùy cơ ứng biến“... tính sau.
Từ lúc này tôi thật sự có cảm tình với ông „cán bộ thứ dữ“ tên Tình này và nẩy ra ý định tìm cách „đổi đời“ cho Tình.
- Cậu lê lết cái đôi dép râu như thằng cán ngố trong rừng ra thành phố. Bụi bậm dán vào đầu ngón chân thấy mà khiếp, gái Sài Gòn chúng cười cho thối mũi. Cho cậu cái đôi „Bata“ vừa sạch vừa êm chân. Cho cậu cái „quần bò“ với cái áo T-Shirt hiệu „con cá sấu há mồm“ của Ba Tàu, thêm cả cặp „kính dâm“ vừa oai vừa lái xe Honda che bụi.
Tình soi gương ngắm nghía khen đẹp, nhưng lại cất hết vào tủ khóa lại nói: „Chỉ khi nào đi Sài Gòn thì tớ mới dám diện, còn đi làm thì vẫn phải ăn mặc bình thường“.
Một hôm rủ nhau ra biển dạo mát, nhìn Tình mặc cái „quần xà lỏn“ rộng thùng thình dài đến gần đầu gối, thấy có cái gì lắc lư như cái chuông, thật buồn cười. Về nhà Tình vẫn mặc tiếp, vẫn „lòng thòng toòng teng“ đi khắp nhà. Mấy hôm sau tôi đưa cho Tình ba cái quần „xì líp“ hiệu „Jocky“ của Mỹ mua ở đường Ta Thu Thâu gần chợ Bến Thành, nơi mua và bán toàn đồ từ ngoại quốc gởi về. Tình bảo „quần gì mà lạ thế, tớ chưa thấy bao giờ“. Ép lắm thì Tình mới mặc thử cho tôi xem rồi lẩm bẩm:
- Mặc vào nó sao sao ấy, ngượng quá, cân cấn cái gì như bị ai bóp, lại còn ngứa ngáy khó chịu hai bên háng nữa...
Một hôm Tình lộ vẻ đăm chiêu lo lắng nói với tôi:
- Công ty tớ sắp đón một phái đoàn dầu khí từ LIên Xô và các nước Đông Âu, có cả Đức và Bỉ. Tớ được giao công tác tổ chức chiêu đãi, tiệc tùng... có cả nhảy đầm nữa. Tớ suy nghĩ mãi không biết phải làm sao?
- Thì cậu cứ nói thẳng ra đi, tớ giúp ý kiến gì được thì giúp cậu ngay
- Mọi việc tớ thu xếp được, riêng cái... “khâu nhảy đầm“ thì tớ chẳng biết phải „chiêu đãi“ như thế nào đây?
- Có phải ý cậu là muốn tìm... vũ nữ nhảy với mấy thằng Tây phải không?
- Đúng vậy, cậu có biết ai, ở đâu không?
Tôi mừng hết lớn, còn hơn con cá gặp nước. Đúng là có mối lớn đây rồi. Chuyện gì chứ chuyện này dễ như trở bàn tay. Ngày xưa các em vũ nữ phơi phới sang trọng lắm, nhưng kể từ khi „nón cối tai bèo, miệng vẩu, môi chì, răng bừa cào“ tiến vào Sài Gòn làm các em sợ phát thét, bỏ nghề đi lang thang kiếm sống như ong vỡ tổ, đứa thì ôm xe thuốc lá bán từng điếu bên đường, đứa thì gác chân bên nồi trà đá trong sân ga xe lửa Lê Lai, đứa may mắn hơn thì lăng xăng mua bán đồ mỹ phẩm... Tôi bảo Tình:
- Tớ giúp cậu chuyện này, nhưng trong bao lâu?
- Chỉ 2 ngày cuối tuần tới thôi, mỗi tối chỉ nhảy với khách vài ba tiếng, không được ngủ lại đêm, giao tiếp văn hóa đứng đắn, có xe đưa đón đàng hoàng.
Chưa đến một ngày tôi đã tìm được em Nga đang ngồi bán bánh cuốn ở đầu ngõ hẻm chợ Ông Tạ. Kể lại cho nó biết chuyện. Vừa nghe cái tên „công ty du lịch dầu khí Vũng Tàu“ nó la lớn mừng quýnh như nhặt được vàng. Mừng là phải, thời đó 99% nhân viên trong Công ty Du Lịch Dầu Khí đều là cán bộ hay con cháu từ Bắc vào, dân miền Nam chỉ được mướn làm nhân công bình thường. Ai đời thời gian này lại được mời đi nhảy với nhót, mà lại nhảy với khách Tây trên lầu 5 khách sạn, tha hồ... “mánh mum“, tha hồ „dở ngón nghề“ lâu nay không xử dụng. Em Nga rủ thêm được gần chục đứa nữa. Mai, Lan, Cúc,Trúc... đủ tên các loài hoa, trừ... Hướng Dương và Loa Kèn.Tất cả hàng ngũ chỉnh tề theo lời tôi dặn dò đến một điểm hẹn ngay trung tâm Sài Gòn. Tình khôn như rắn, cũng không đi đón, phái một ông tài xế già lái xe 12 chỗ ngồi đến đón „các tiên cô“ trực chỉ Vũng Tàu. Các em vỗ tay đồng ca...“hò kéo pháo“.
Mấy ngày sau, „các tiên cô“ xúm lại quanh tôi ăn mừng „đại thành công, vạn vạn đại thành công“. Bọn LIên Xô, Tiệp Khắc, Hung, Bun gì gì đó... ngu như con bò, ngơ ngơ ngáo ngáo như con nai tơ, tụi em nói cái gì là cứ răm rắp như nghe lệnh bà, dễ thương thiệt anh Hai à. „Các tiên cô“ kể rằng, mỗi lần ra vào đều bị „bọn cán bộ cái“ rà soát bóp nắn từng đứa như lùng khủng bố. Thậm chí có mấy đứa còn khoe đã móc nối được mấy thằng Tiệp, thằng Hung nào đó, hứa tìm cách giúp trốn theo tàu buôn đi nước ngoài. Có thành công hay không đến giờ tôi cũng chẳng biết. Có điều lạ là mỗi đứa đều... “đền ơn“ tôi một món „chiến lợi phẩm“. Đứa thì 1 bao thuốc lá 555, đứa cái hộp quẹt gaz, thậm chí có đứa 1 tờ 5 đô la Mỹ. Tôi ngạc nhiên hỏi sao có thể qua lọt được „bọn cán bộ cái“, tất cả chỉ cười xòa nói..“nghề của nàng“ mà anh Hai“. Còn ông „cán bộ thứ dữ“ họ Nguyễn tên Tình của tôi cũng tìm đến tôi cám ơn rối rít, khoe „chiêu đãi thành công, chan chứa tình hữu nghị“. Tôi tỉnh bơ, hỏi bao giờ tổ chức tiếp. Tình lắc đầu không biết, chờ lệnh trên.
- Tối đó cậu có vớ được em nào nhảy không?
- Không được đâu, cấp trên tuyệt đối cấm chuyện này. Tớ chỉ đứng quan sát thôi. Mà từ nhỏ đến lớn bây giờ tớ mới nhìn người ta nhẩy đầm như thế nào.
- Thích không? Tớ dậy cậu nhảy nhá.
- Thôi đi thôi đi, kỳ chết đi được ấy.
Cái „ngu“ lớn nhất và đứng đầu trong „4 cái ngu ở đời“ là „làm mai“ có lẽ không đúng với tôi trong lúc này. Thừa thắng xông lên, tôi rủ Tình về Sài Gòn giới thiệu con „Nga bánh cuốn“ làm „giáo viên nhảy“ cho cậu học trò Tình. Lần đầu gặp mặt, Tình ngồi bẽn lẽn cứng đơ như khúc gỗ, lắp bắp nói không nên lời. Con Nga láu cá quá, nó vừa cười vừa chọc Tình: „anh tên Tình, em tên Tang nè, tình tang đẹp đôi vừa lứa hén“. Tôi cười chảy nước mắt nhìn Tình tập nhảy điệu „xì lô“, hai chân chàng hảng ngọ ngọe như hai cái càng cua... Cũng từ đó Tình về Sài Gòn nhiều hơn, nhưng không bao giờ dám đưa con Nga ra Vũng Tàu. Có lần con Nga kể được Tinh dẫn vào Bến Nhà Rồng trong cảng Sài Gòn tham dự “Đêm liên hoan chiêu đãi các công ty tàu biển nước ngoài“. Chẳng hiểu ra sao mà nó làm quen được với một thằng thuyền trưởng tàu Ba Lan. Nó năn nỉ ỉ ôi thế nào mà thằng thuyền trưởng hứa sẽ tìm cách giúp nó trốn khỏi VIêt Nam. Vài ngày sau nó... “biệt tích kinh kỳ“. Mãi đến gần 10 năm sau con Nga từ bên Hòa Lan liên lạc được với tôi kể lể vắn tắt như sau:
-Thằng thuyền trưởng tên là „Bạc Tô Mi“ dấu em trong phòng của nó chở đến „Xing Ga Po“ nhưng bị đuổi. Nó liên lạc sao đó đưa em qua một tàu của Hòa Lan. Tàu Hòa Lan lại đưa em vào đảo Palawan của Phi Luật Tân, sau đó được định cư tại Hòa Lan. Má em hay tin vui quá... không bán bánh cuốn nữa.
Tôi cũng vui lây.Tháng 6 năm 1911 có một ông tên là Nguyễn Tất Thành xuống tàu tại Bến Nhà Rồng làm „culi“, đi tìm đường làm „cách mạng vô sản“. Gần 70 năm sau cũng tháng 6, có con nhỏ tên „Nga bánh cuốn“ cũng xuống tàu tại Bến Nhà Rồng làm „thuyền nhân“, chạy trốn „cách mạng vô sản“ đi tìm đường đến bến bờ Tự Do... Ngộ quá!
Tôi lại có mối vượt biên, lần này rủ Tình cùng đi, bảo sẽ không đi từ Vũng Tàu mà từ bến phà Tân Thanh, Cần Giuộc. Sau nhiều đắn đo suy nghĩ Tình bảo:
- Tớ muốn đi lắm chứ nhưng không dám đâu, vợ con tớ vẫn còn ngoài Hà Nội
- Thì cứ đi đi, sau này qua đó bảo lãnh vợ con sang
- Không được đâu cậu ơi. Cậu qua bên đó chắc sẽ được trọng dụng, còn tớ qua đó họ trả thù giết tớ chết mất.
- Ba láp nào, làm gì có chuyện đó mà lo
- Tớ mà đi, vợ con tớ còn ở lại chúng nó hành hạ chết mất thôi. Thôi chúc cậu đi bình yên may mắn nhé. Qua được bên đó thì báo cho tớ biết
Ngày chia tay, Tình dúi cho tôi 1 ký đường thẻ màu vàng, 1 nhúm thuốc say sóng và 1 tờ giấy ghi địa chỉ của Tình tại Hà Nội, Tôi được hạm đội Mỹ vớt rồi được định cư tại Tampa, Florida và thường xuyên gởi quà về „nhà tập thể Kim Liên“ cho vợ chồng Tình. Hơn một năm sau thì hoàn toàn mất liên lạc với Tình. Thời gian cứ thế trôi qua, tôi vật lộn với „tiệm Neo“ làm kế sinh nhai nơi xứ người và hình ảnh lẫn dĩ vãng cùng với ông „cán bộ thứ dữ“ hoàn toàn biến mất trong tâm trí.
Một hôm đang ngồi ăn phở trong quán „Phở Quyền“ ngoài phố, nghe bàn bên cạnh có mấy ông Bắc Kỳ 75 đang huyên thuyên trò truyện có nhắc đến „nhà tập thể Kim Liên“, Tôi chợt nhớ đến Tình, nên tò mò xà lại làm quen hỏi thăm. Một ông kể hồi trước gia đình cũng từng ở „nhà tập thể... Kim Niên... Hà Lội“. Tôi đánh bạo hỏi có quen ai tên là Nguyễn Văn Tình?
- Tình nào? Có vợ tên là Mai?
- Không biết tên vợ (có bao giờ tôi hỏi Tình tên của vợ nó đâu). Thì ông Tình trước là trung úy bộ đội, sau vào Sài Gòn làm việc.
- A! Có phải là „Tình du lịch dầu khí Vũng Tàu“ không? Căn hộ của tôi sát căn hộ của nó đấy.
Tôi giật nẩy mình, nhớ lại lời Tình kể „căn hộ bên cạnh của thằng công an nuôi heo“. Tôi phịa chuyện tìm cách dò la thêm
- Tôi với Tình là bà con bên nội. Nó bảo căn hộ cạnh hộ nó là của bác công an.
- Giời ơi, đúng thế đấy! Tôi đây. Gớm, sao mà „hữu duyên“ thế đi mất.
- Anh qua đây lâu chưa?
- Thì thằng con đi vượt biên bảo lãnh tôi qua hơn một năm rồi. Ối giời ơi truân chuyên lắm đấy. Nó lần mò qua tận đến „Hồng Kông“ rồi mới qua được Mỹ.
- Anh biết Tình đang ở đâu không, bây giờ ra sao?
- Nó chết cả mấy năm nay rồi. Vợ nó dọn đi chỗ khác không ai biết ở đâu.
- Khi nó về lại thì một thời gian sau công an Hà Nội xông vào nhà bắt nó vì tội „Suy thoái tư tưởng, chính trị và đạo đức cách mạng“, lại còn „thiếu thành khẩn, không tự giác nhận tội“. Nghe nói sau khi được thả, nó đi đạp xe xích lô chở bia cho „Công ty bia Hà Nội“, còn vợ nó thì đi bán khoai lang ngoài chợ, chẳng ai biết vợ chồng nó ở đâu. Chắc nó chết vì bệnh lao phổi...
Ông bên cạnh tự nhiên xía vào:
- Bây giờ thời thế thay đổi rồi bác ơi. Úy hay Tá Tướng gì cũng vứt đi thôi, tiền là trên hết, muốn gì được nấy, nên người ta cứ thế kéo nhau vào Nam hết rồi, bác nghe câu thơ này nhé:
„Đầu đường Đại Tá bơm xe / Cuối đường Trung Tá bán chè đỗ đen / Giữa làng Thiếu Tá bán kem / Trong làng Đại Úy thổi kèn đám ma / Thượng Úy chăn lợn đuổi gà / Trung Úy ở nhà vo gạo rửa rau / Hỏi thằng Thiếu Úy đó đâu / Ba lô lộn ngược xuôi tàu Bắc Nam“
Cả bọn xúm nhau cười hì hì...
Thế là tôi thật sự mất Tình, thằng „cán bộ thứ dữ“ nhưng hiền hòa dễ thương và thẳng thắn trung thực. Cuộc đời cũng nhiều cái oái oăm trắc trở như mối tơ vò. Có tình bạn nào cao cả và quý báu bằng tình bạn của hai kẻ không cùng chiến tuyến năm nào bỗng trở thành tình bằng hữu, như anh em, mặc dù trước đây tôi quen Tình chỉ vì hai chữ... “lợi dụng“, làm „cái dù che thân“. Bây giờ nghĩ lại tôi thấy có chút gì không phải và thương Tình xót xa, Tôi mong tìm được đứa con của Tình để trả ơn trả nghĩa cho những ngày tháng đó, nhưng vô phương. Chỉ biết chắc một điều là Tình không còn phải chui rúc trong cái „nhà tập thể Kim Liên“ khốn nạn ngoài Hà Nội nữa. Bỗng nhiên tôi thấy Tình đang vi vu phóng xe Honda trên đường Tự Do năm nào trong chiếc áo T-Shirt có „con cá sấu há mồm“, thêm cái quần bò đã bạc màu, nhìn đời qua đôi mắt „kính dâm“ và không còn ngứa ngáy khó chịu hai bên háng vì cái quần lót hình tam giác nữa. Tình bỗng dừng xe, đứng nhìn thẳng vào „dinh Độc Lập“ năm xưa, bàn tay đưa lên như muốn bấu víu một cái gì mà Tình chưa từng có được. Đó là sự TỰ DO, sự BÌNH ĐẲNG của một con người...
Sáng thứ bảy, ngồi nhâm nhi ly cà phê một mình trong bếp, chợt nhìn lên tấm lịch Tam tông Miếu trên tường, Mai không khỏi buông tiếng thở dài. Chỉ còn một tuần nữa là đám giỗ mẹ. Cái đám giỗ thứ năm. Nhớ mẹ. Nhớ da diết. Mái tóc trắng như bông. Những năm cuối đời, bệnh hoạn liên miên, từ một người tướng mạo phương phi, mẹ trở nên gầy gò, khô héo, bước đi xiêu vẹo! Thân xác có thay đổi nhưng tấm lòng từ bi, thương con, thương cháu, thương tha nhân... vẫn không suy giảm. Mẹ lúc nào cũng vậy. Trái tim rộng như biển cả, như bầu trời.
Hồi trước, nhận những cánh thư từ các trại tị nạn, của những người quen thân, quen sơ, hay chưa hề quen (có thể là người quen của một người quen nào đó)! cầu cứu, mẹ đều hối hả gởi tiền bạc, thuốc men qua giúp đỡ. Có lần bé Châu cằn nhằn:
– Ai quen lạ gì bà cũng cho.Rồi bà còn tiền đâu mà xài?
Mẹ cười hiền:
– Bà tích đức cho tụi bây đó. Đời bà đã gần cuối nhưng đời tụi bây còn dài. Đừng bao giờ quên mình ăn thì hết, người ta ăn thì còn đó con ơi. Vả lại bà già rồi, đâu cần mua sắm gì nhiều.
*
Ngày xưa mẹ đẹp lắm. Đẹp và thông minh nhứt trong số 5 cô con gái của ông bà ngoại. Người dong dỏng cao, da trắng nõn, cặp mắt lá răm. Hai bàn tay búp măng tuyệt đẹp. Ông ngoại là điền chủ miệt Hậu giang. Nhưng không giống những người cùng thời, ông rất cấp tiến. Trai gái đều được cho đi học như nhau. Trong nhà ông đặt mua tất cả các thứ sách báo để mọi người cùng đọc, cùng học hỏi. Ông có một người em làm Đốc phủ sứ tại Sóc Trăng. Ông bà Bảy có 2 trai, cậu Thuận và cậu Hòa. Rất thèm có một cô con gái, nhưng sau hai cậu, bà không còn sanh thêm lần nào nữa. Một hôm về Đốc Vàng dự đám giỗ nhà ông ngoại, thấy 5 cô tố nữ sàng sàng tuỗi nhau, cô nào cũng tươi như ngọc như ngà, ông bà ngỏ ý muốn xin một cô làm con nuôi. Sẵn dịp mẹ vừa học xong hết lớp tại trường làng, lại là đứa lanh lợi, thông minh, ngoại liền cho mẹ về làm con nuôi ông bà Bảy. Năm đó mẹ vừa tròn 11 tuổi.
Từ nhỏ quen sống trong cảnh vui nhộn với anh chị em (cả nhà 3 trai, 5 gái),tự do cười giỡn chạy nhảy, quanh nhà vườn tược rộng mênh mông, bây giờ phải sống gò bó trong phủ, cậu Thuận và cậu Hòa lại học tuốt trên Sàigòn,chỉ ngày Tết hay nghỉ hè mới về nên mẹ cảm thấy lẻ loi, nhớ mấy đứa em, buồn vô tả! Mỗi lần bà ngoại xuống Sóc Trăng là mẹ lại khóc lóc đòi về. Ngoại phải dỗ dành, khuyên nhủ mẹ ráng học thành tài, bỏ ngang uổng lắm. Nhưng ráng tới hai năm là mẹ đuối! Một lần bà ngoại xuống Sóc Trăng thăm, lúc về chở đầy một ghe than đước, lợi dụng lúc hai bà đang bận rộn từ giã nhau, mẹ lẻn trốn xuống ghe. Đi được mấy tiếng đồng hồ, biết chắc ghe không thể nào trở lui lại được, mẹ mới ló đầu ra. Tuy tức giận hết sức, nhưng nhìn thấy mặt mũi, mình mẫy mẹ như con lọ lem, bà ngoại phải phì cười... Về tới nhà mẹ bị ông ngoại cho một trận đòn nhớ đời! Bị đòn đau lắm nhưng mẹ nhứt định không trở xuống Sóc Trăng nữa. Ông bà ngoại đành cho mẹ theo dì Trâm học nữ công, gia chánh.
Trong thời gian còn ở Sóc Trăng với ông bà Bảy, có nhiều chuyện nho nhỏ xảy ra khiến cho khối óc non nớt của mẹ nhớ hoài và cũng là tấm gương sáng cho mẹ sau này. Số là một hôm mẹ theo chị bếp xách giỏ đi chợ. Mua xong nải chuối già hương chín vàng, 2 người ngồi xề xuống gánh bánh canh kêu 2 tô. Cái giỏ có nải chuối đặt bên cạnh. Say sưa với tô bánh canh bột lọc, giò heo, tôm cua béo ngậy... không ai để ý đến cái giỏ. Chừng ăn xong quay qua kiếm, thì cái giỏ cùng nải chuối đã không cánh mà bay mất tiêu! Hai người dáo dác chạy đi kiếm. Cuối cùng bắt gặp cái giỏ có nải chuối trên tay một chị nhà quê. Chị bếp giận dữ giựt cái giỏ lại, nhưng chị kia cũng không vừa, nhất định không buông. Hai bên vừa giằng co vừa cãi lộn om sòm, người nào mặt mũi cũng đỏ như gấc, thì may có chú Đội đi qua. Chị bếp mừng quá gọi chú lại. Có mẹ làm chứng, nên chú Đội bắt người đàn bà kia dẫn về phủ, phạt nhổ cỏ trước sân.
Tan buổi hầu, dùng cơm trưa xong, ông Bảy đi thơ thẩn trước hàng ba cho tiêu cơm, chợt nhìn thấy một người đàn bà đang lom khom nhổ cỏ dưới cái nắng chang chang. Nhưng điều làm ông ngạc nhiên là ngoài cổng có một người đàn ông, tay bồng đứa nhỏ chừng 1 tuổi, đi qua đi lại, cặp mắt nhìn chăm chăm vào người đàn bà. Đứa trẻ thỉnh thoảng lại giẫy dụa, khóc ré lên. Người đàn ông vừa dỗ con vừa nhăn nhó ra chiều rất đau khổ! Ông Bảy kêu người nhà ra hỏi. Biết được nguyên nhân, ông cho gọi chú Đội lên rồi quở rằng:
– Làm người ai cũng biết xấu hổ. Nếu cô ta có đánh liều ăn cắp nải chuối cũng bởi cô ta thèm mà không có tiền mua. Tội này không đáng bị trừng phạt như vậy, nhứt là bắt đứa trẻ phải chịu khát sữa, tội nghiệp quá!
Ông bảo tha người đàn bà về và cho luôn nải chuối.
Giáp ranh nhà ông ngoại ở Đốc Vàng là nhà ông Ba Thạnh. Ông này có bà con xa. Tuy không nghèo nhưng bản tánh keo kiệt, tham lam, nhiều lần lén lút lấn ranh đất nhà ông ngoại nên hai gia đình thường xảy ra cãi cọ. Sau này giặc giã, gia cảnh sa sút, ông ba Thạnh xoay qua buôn bán. Có lần ông chở một ghe đồ gỗ đi bán dọc theo các tỉnh hai bên bờ sông Cửu Long. Ghé tới Sóc Trăng, ông ta bị bắt vì tội không đóng thuế thân. Lúc bị đưa vào công đường, nhìn thấy ông Bảy, ông ta hồn bất phụ thể, chắc mẻm phen này thế nào cũng bị ông Phủ phạt nặng để trả thù cho ông anh. Nào ngờ, khi nhận ra ông ba Thạnh, ông Bảy niềm nở hỏi han và còn ứng 3 đồng bạc cho ông ta đóng thuế. Nói làm sao hết nỗi vui mừng và lòng biết ơn của ông ba Thạnh! Khi trở về Đốc Vàng, đi tới đâu ông ta cũng hết lòng ca ngợi ông Bảy và cuộc chiến tranh lấn đất với ông ngoại cũng tự động tan biến luôn...
Mẹ lấy ba năm 17 tuổi, qua sự mai mối của một bà bác dâu. Bà này góa chồng sớm, một tay bương chải nuôi đàn con thơ. Quanh năm với chiếc áo dài đen, tay xách cây dù xuôi ngược khắp nơi.Nhà nào có cam quít, soài, dừa... là có bà đến thăm. Bà cũng là thân chủ thường xuyên bao trái cây vườn nhà ông nội của Mai. Khâm phục sự đảm đang, giỏi dắn của bà, một hôm ông hỏi bà có cô cháu gái nào đến tuổi cập kê thì làm ơn mai mối cho con trai của ông (ngược lại với ông ngoại, ông nội có 5 trai, 3 gái). Ông nói:
– Tui chắc cháu chị cũng sẽ giỏi giang như chị. Nói dại sau này con tui có qua đời sớm, tui cũng yên tâm cho lũ cháu.
Không ngờ lời tiên đoán này lại trúng phóc! Cha chả, gì chớ cháu gái bà đâu có thiếu! Vả lại một bên là ông Cả, một bên là ông Chủ, môn đăng hộ đối quá rồi còn gì nữa! Bà bèn nhận lời và về bàn bạc với ông bà ngoại.
Mẹ 16, ba 20. Hôm đàng trai đến xem mắt, vẻ khôi ngô tuấn tú của ba làm mẹ xiêu lòng liền và nét duyên dáng, yểu điệu của mẹ cũng khiến ba khó mà từ chối!
Sau đám hỏi, mẹ bắt đầu sửa soạn may áo quần, mùng mền... chuẩn bị cho cuộc đời làm vợ tương lai. Nhưng mẹ đâu có ngờ giấc mộng đầy hoa gấm của mình tan tành như mây khói, chỉ vài ngày sau khi bước chân qua ngưỡng cửa nhà chồng! Bà nội là người có đầu óc cổ hủ. Bà khắt khe với tất cả các con dâu. Bác ba Đại là trưởng nam của ông nội. Lúc còn học trên Sàigòn, bác gặp và thương bác gái, ông bà phải lên Sàigòn tổ chức đám cưới. Gia đình bác gái dân tây, quen cách sống phóng khoáng nên về nhà quê làm dâu chưa đầy một tháng, bác chịu không nổi, nhứt định đòi trở về với gia đình trên Sàigòn. Cuối cùng bác trai cũng đành cuốn gói chạy theo tiếng gọi của con... tim! Rồi lập nghiệp luôn trên đó.
Bà ngoại biết mẹ yếu đuối, không quen cực khổ, nên lúc về nhà chồng, bà cho một cô tớ gái đi theo, hầu đỡ đần những công việc nặng nề. Nhưng bà nội có một lập trường dứt khoát, chắc như đinh đóng cột:
– Nhà tôi là nhà làm ăn, không phải chỗ cho mọi người bẹo hình bẹo dạng, quần là áo lượt!
Mẹ đành thở dài, xót xa xếp những chiếc áo gấm, áo thêu, mà mẹ đã bỏ ra biết bao nhiêu tâm huyết để hoàn tất, xuống tận đáy rương. Những chiếc quần cẩm tự, sa ten tuyết nhung trắng muốt được đem nhuộm đen. Từ một tiểu thư đài các, nếu không thêu may thì cũng đọc sách hoặc làm các thứ bánh trái, bây giờ phải thức khuya dậy sớm, suốt ngày làm quần quật không ngơi tay, nên mẹ cứ bịnh hoài. Bà nội càng ghét, cho là mẹ làm bộ nhõng nhẽo với ba để trốn việc!
Lúc anh Tùng chào đời, mẹ mừng lắm, tưởng sẽ được tự tay săn sóc cho con,nào ngờ bà nội dành luôn nhiệm vụ đó. Nhiều lúc anh khát sữa khóc lả người, bà vẫn điềm nhiên cho anh bú... vú da! Mẹ đứt từng đoạn ruột nhưng không dám phản đối. Ông nội biết tánh bà nên hay binh mẹ. Điều này chẳng những không có lợi, mà còn bị “ép phê” ngược!!
Ba là một người đàn ông rất đẹp trai, tính tình hào hoa, ăn nói lại duyên dáng, nên các bà các cô mê như điếu đổ. Trong đám tá điền của ông nội có gia đình ông Sáu Can ở cách nhà độ 3 cây số. Hai ông bà có một cô con gái rất đẹp tên Kim Phụng. Người đẹp nhưng tính nết lẳng lơ. Không hiểu cô ta ỏn thót làm sao, mà ông thân sinh hào hoa phong nhã của Mai quyết định lập cô ta làm...phòng nhì (tất nhiên bà chánh thất không hề được đức lang quân thông báo cái chương trình rất ư là kém hấp dẫn này)! Có điều ổng mù tịt là bà có một màn lưới gián điệp rất bén nhạy. Nhờ Mai có một bà cô họ nổi danh Sư Tử Hà Đông: ông chồng bà thuộc loại già không bỏ nhỏ không tha nên bà có tai mắt khắp nơi. Mấy “con đĩ ngựa” vừa mới nhúc nhích ngón tay út là bà đã được... vô tuyến truyền miệng thông báo liền tức khắc. Vì vậy mẹ biết đích xác ngày giờ và nơi chốn của buổi tiệc “tân hôn” sắp diễn ra.
Tối “hôm đó”, sau bữa cơm chiều, ba lấy xe đạp ra đi, trên tay có cầm một gói giấy khá lớn.Mẹ hỏi đi đâu, ông trả lời đi họp. Mẹ vẫn thản nhiên, mặt không hề đổi sắc. Độ mươi phút sau, bà tập hợp đám tay chân bộ hạ gồm có chị Xuân, chị Yến (con cô hai Bạch) và chị Thư (con bác ba Chung). Tất nhiên là mẹ phải trả tiền công và năn nỉ gãy lưỡi họ mới chịu hợp tác. Mấy cô sợ bị chú Tân đánh đòn. Năm đó lớn nhất là chị Xuân, 13 tuổi, chị Thơ 12, chị Yến mới 11. Nhà quê ban đêm trời tối như mực. Mấy thiếm cháu phải đốt đuốc mới thấy đường đi. Gần tới nhà cô Phụng, mẹ tắt đuốc đứng xa xa rình. Trong nhà đèn đuốc sáng choang, tiếng cười nói vang ra tới ngoài lộ. Khi nghe tiếng ba dặn người câu đem được bao nhiêu tôm cá cũng phải đem lại hết thì mẹ mất bình tĩnh, kéo đám lâu la tới ngay trước cửa. Tội nghiệp đám nhi đồng run như cầy sấy! Mẹ sôi gan khi nhìn thấy ông chồng yêu quí của bà đứng song song với “con” Kim Phụng trước bàn thờ gia tiên nghi nghút khói hương. Lại còn dám diện cái áo dài gấm xanh nữa mới là động thiên đình! Cặp mắt toé lửa, bà xông vô nhà, túm ngay vạt áo dài của ông kéo mạnh. Vạt áo tét lên tới nách! Tay kéo miệng la:
– Anh làm cái gì đây? Đám cưới hả?
Ba Mai thấy vợ thì rụng rời. Một tay bụm miệng bà, một tay ôm ngang eo ếch, lôi ra khỏi nhà. Mẹ giãy dụa kịch liệt, nhưng vốn yếu đuối nên chống cự không nổi, bị lôi trở ra đường lộ. Để bà đứng đó dậm chân khóc lóc, ông vội chạy đi lấy xe đạp, rồi kéo bà lên ngồi trên đòn dong, hối hả đạp đi, mặc cho đám nhỏ vừa chạy theo sau vừa khóc ỏm tỏi vì... sợ ma!! Hôm sau, biết được chuyện, mẹ bị bà nội rầy cho một trận:
– Trai năm thê bảy thiếp là chuyện thường. Nó đi chán rồi lại về, có...hao mòn, sứt mẻ gì đâu mà phải ghen!?
Mỗi lần được về thăm ông bà ngoại là mẹ mừng còn hơn bắt được vàng. Mặc sức ăn, ngủ, cười giỡn. Càng gần tới ngày phải trở về nhà chồng, mẹ càng u sầu, ủ dột. Bà ngoại chuẩn bị đủ thứ quà cáp để mua lòng bà sui. Mẹ kể, ghe về gần đến nhà, xa xa nhìn thấy cái cầu tàu nhà ông bà nội, mẹ chỉ muốn nhảy xuống sông tự tử phứt cho rồi! Có lần Mai nói nếu là con thì con không thèm trở về. Ở luôn nhà ông ngoại cho khỏe! Mẹ lắc đầu, chép miệng:
– Bộ con tưởng mẹ chưa từng nghĩ đến điều đó sao? Nhưng thời xưa, con gái bỏ chồng là một điều sỉ nhục cho gia đình. Ai gặp trường hợp của mẹ cũng đành phải cắn răng chịu đựng thôi.
Mai thầm nghĩ các cụ ngày xưa quả có một “nội lực” phi thường. Có lần cô Tư Xuân của Mai phát biểu một cách khinh bỉ, khi nghe cặp bạn của con bà sắp sửa ly dị vì lý do... hổng hợp tính tình:
– Chèn ơi, hồi đó mà như bây giờ, chắc tao đã bỏ ba tụi bây cả trăm lần rồi! Ngày nay thay vợ đổi chồng còn lẹ hơn thay áo. Tao thấy mà bắt chóng mặt!
Có điều an ủi là mẹ được mọi người trong làng yêu mến. Bất cứ ai cần gì mẹ cũng giúp đỡ tận tình. Ngay từ thuở còn chạy chơi với đám bạn nhỏ trong xóm, mẹ đã biểu lộ cái tánh thương người. Trong làng có một người đàn bà tên Lý. Lúc trẻ lên tỉnh làm nghề “không vốn”. Mới ngoài 30 đã vướng phải bịnh giang mai. Thân tàn ma dại, đi đứng không nổi cũng ráng mò về làng cũ. Nhưng đi đến đâu cũng bị thiên hạ xua đuổi. Mẹ thấy vậy huy động các bạn, cất một cái chòi lá phía sau đình làng, để bà ta có chỗ che nắng che mưa. Lúc đầu phân công mỗi ngày một đứa đem thức ăn cho bà. Sau đó đám bạn bỏ cuộc dần dần, cuối cùng chỉ còn mẹ hằng ngày vẫn đem cơm nuôi bà ta cho đến lúc qua đời. Chuyện này đương nhiên vì không có thuốc làm sao hết bịnh?!!
Trong cuộc đất của ông nội, có gia đình bác Hai Dần, con đông lại nghèo xác nghèo xơ. Bác cho đứa con trai tên Hiền, năm đó độ 15-16, ở cho ông nội sai vặt. Bác gái hằng ngày xách cần đi từ bến nọ qua bến kia, câu những con cá lụn vụn như cá lòng tong, cá chốt, cá mại, cá trèn... đủ cho hai bữa cơm. 3 cô lớn, đến mùa lúa thì cấy mạ mướn, lúc lúa chín thì đi gặt. 2 đứa nhỏ nhứt mót lúa để dành ăn. Riêng bác trai mắc bịnh lao, ốm yếu hom hem nên được miễn lao động!...
Năm ngoài Bắc bị nạn đói chết hơn 1 triệu người, miền Nam cũng gặp nhiều khó khăn. Một hôm mẹ qua nhà bác Dần định nhờ việc gì đó. Thấy trong nhà im lìm, mẹ lên tiếng gọi cũng không ai trả lời. Lấy làm lạ bà bước vô xem thử, chợt thấy bác trai nằm trên cái chỏng tre, thở thoi thóp. Thấy mẹ, bác gượng ngồi dậy nhưng không nổi lại nằm vật xuống. Mẹ định lên tiếng hỏi thì vừa lúc bác gái xách cần câu và cái giỏ có lèo tèo mấy con cá lòng tong về tới.Bác gái cũng ốm nhom,đi không muốn nổi! Vừa thấy mẹ, bác òa lên khóc. Mẹ hỏi mới biết rằng cả 10 ngày nay nhà bác không có 1 hột gạo. Phải ăn rau luộc cầm hơi,chờ mấy cô con gái đi cấy lúa mướn đem tiền về.Chỉ lo bác trai yếu quá sợ không qua nổi. Nghe xong mẹ vội vàng về nhà, lén bà nội xúc một thúng gạo biểu anh Hiền bưng về cho mẹ anh nấu cơm. Từ đó, thỉnh thoảng mẹ lại giấu diếm ít gạo, nước mắm tiếp tế cho gia đình bác Dần qua cơn túng quẩn.
Một gia đình khác, bác Tư Đức cũng nghèo và đông con như bác Hai Dần (cái mục này rất dễ hiểu, vì nhà nghèo không có thú vui lành mạnh nào ngoài cái thú vui sản xuất... nhi đồng)! Cậu con trai 14 tuổi tên Đẩu ở chăn đàn bò cho ông nội. Cùng nạn đói ngoài Bắc, trong Nam bị nạn thiếu vải trầm trọng nên dân nghèo phải mặc rách rưới, vá chằng vá đụp. Còn rận thì vô số kể. Người nào người nấy ngồi đâu gãi đó, gãi đến tóe máu mới thôi! Quần áo cả nhà mẹ luôn luôn bắt nấu với nước sôi để diệt trứng rận.
Trong Nam, khoảng tháng 10, tháng 11 âm lịch, cũng có chút gió bấc thổi hiu hiu. Tuy gió hiu hiu nhưng cũng lạnh se da. Một hôm ra thăm ruộng, mẹ ngạc nhiên tột độ khi nhận ra giữa đàn bò đang nhởn nhơ ăn cỏ, anh cu Đẩu trần truồng như nhộng ngồi trên lưng con bò Đốm. Mỗi khi cơn gió bấc thổi qua, cậu ta lại run lên cầm cập! Hỏi ra mới biết cả nhà bây giờ chỉ còn mấy bộ đồ rách te tua, dành cho bác gái và mấy cô chị của cậu. Ngay cả bác trai cũng chỉ đóng cái khố. Ba Mai làm sở lúa gạo dưới Sađéc nên nhà lúc nào cũng có trữ nhiều bao bố tời. Mẹ lén lấy một mớ, bảo anh Đẩu đem về để bác gái cắt thành quần áo cho cả nhà mặc đỡ và không quên đưa thêm vài bộ đồ cũ của mẹ cho mấy chị mặc khi đi ra ngoài. Kể sao cho hết những nghĩa cử của mẹ đối với chòm xóm, láng giềng...
Rất lâu, sau này đi làm ăn xa trên vùng cao nguyên Trung phần, một hôm Mai thấy mẹ dẫn về nhà 1 cô gái độ 17-18. Người ngợm chỉ còn là một bộ xương biết đi. Mẹ nói gặp cô ta đang lang thang ngoài đường, đi đứng xiêu vẹo như người hết hơi! Cô ta nói bị bịnh thương hàn, nằm nhà thương mới xuất viện sáng nay. Tứ cố vô thân không biết đi về đâu. Động lòng trắc ẩn mẹ dẫn về nhà nuôi cho mạnh, sau đó muốn đi đâu thì đi...
Những năm giặc giã sôi động, ba lên Sàigòn ở với chú Sáu Tú. Một mình mẹ phải cáng đáng hết mọi việc trong ngoài. Thỉnh thoảng còn phải dẫn chị em Mai chạy tuốt vô trong đồng sâu trốn những trận ruồng bố của lính Tây. Cực ơi là cực. Vậy mà không bao giờ mẹ mở miệng than van.
Đến khi chú út Khang lập gia đình thì ông bà nội cho ba mẹ ra riêng. Cũng từ lúc đó ba bắt đầu bị đau bao tử và chai gan, nên sức khỏe yếu dần và mẹ cũng bắt đầu đi vào con đường thương mại. Cũng giống như bà bác dâu thủa nào, mẹ đi khắp nơi tìm mua những thứ có thể bán được. Từ gà vịt, heo bò đến trái cây đủ loại... Mai còn nhớ như in một lần theo mẹ chở một ghe soài hòn xuống Vĩnh Long. Giữa đường giông gió nổi lên, mưa như trút nước. Chiếc ghe nghiêng qua ngã lại như sắp chìm. Mai run như cầy sấy, ôm mẹ chặt cứng vì tưởng hai mẹ con sắp bỏ mạng trên giòng sông Cửu Long, mà thường ngày Mai thấy rất hiền hòa!... May mắn lần đó tai qua nạn khỏi.
Anh Thăng và chị Lan lần lượt lập gia đình. Đến năm Mai lên 14 thì ba mất vì chứng xuất huyết bao tử. Sau đó Mai rời bỏ miền Hậu giang cây trái sum suê,theo mẹ lên lập nghiệp nơi miềnCao nguyên đồi núi chập chùng.
Những tháng đầu lạ nước lạ cái lại không quen ai, mẹ gặp rất nhiều khó khăn. Bị những người đi trước chèn ép, hiếp đáp. Nếu là người khác chắc chắn đã bỏ cuộc. Nhưng mẹ là một người tính khí quật cường, lại từng được tôi luyện trong “lò” của bà nội suốt mười mấy năm ròng, nên nhất định không lùi bước! Và bà đã thắng cuộc. Khách hàng thích tánh tình vui vẻ, cởi mở của mẹ nên tiệm lúc nào cũng nườm nượp khách.
Mỗi lần về quê thăm nhà, mẹ mang rất nhiều tiền bạc, vải vóc để giúp đỡ cho người nghèo.
Những năm cuối đời, bà nội bị lòa và đi đứng không được, chỉ ngồi một chỗ. Có lần Mai về thăm bà, bà nắm chặt tay Mai, mếu máo nói:
– Tội nghiệp mẹ con, hồi xưa cực khổ quá!
Mai cảm động bóp bóp tay bà, nói vài câu an ủi. Trong thâm tâm, Mai cho rằng đó là những lời nói sáng suốt nhất trong cuộc đời của bà!
Thiếm út Khang, đầu tắt mặt tối với đàn con gần chục đứa, đâu hơi sức nào để ý đến những lời chì chiếc của bà nội, nên bà nói gì thì cứ nói, thiếm xem như gió thoảng bên tai, tỉnh rụi như không!
Dù ở xa, nhưng mỗi lần có chuyện cần kíp là anh Thăng, chị Lan lại đánh điện cầu cứu. Mẹ vội vàng bỏ hết công việc, về quê để giải quyết mọi vấn đề rắc rối cho các con.
Sau 75, theo vợ chồng Mai sang Canada, mẹ trăn trở, thở dài, than vắn. Cắc ca cắc củm nào vải vóc, thuốc men, tiền bạc... gởi về Việt Nam cho gia đình anh Thăng, chị Lan. Mỗi bận nghe có thiên tai, bão lụt mẹ lại mất ăn, mất ngủ, đêm ngày ngóng trông tin tức...
Trời sinh ra mẹ là để lo cho tha nhân. Có cái quần cái áo nào đẹp, ai ngỏ ý thích cũng sẵn sàng tặng ngay. Món ngon vật lạ gì cũng dành cho con cho cháu. Không bao giờ nghĩ cho chính bản thân mình. Mẹ không đi nhà thờ, cũng chẳng đi chùa, nhưng lại giúp đỡ người vô số. Sau khi qua đời, có cả chục gia đình, đã từng thọ ơn bà, xin ảnh để thờ.
Cái mảnh vườn con con ở góc sân, lúc còn sanh tiền mẹ trồng đủ thứ rau: mồng tơi, quế, răm, húng, tía tô, thìa là... Mai vẫn giữ y nguyên. Mấy cây bạc hà tươi tốt, cứ đến mùa đông là Tiến lại đánh vào chậu, mang vô garage. Từ 6 năm nay, mỗi sáng đứng trong phòng nhìn qua cửa sổ, Mai vẫn có cảm tưởng như nhìn thấy bóng mẹ với mái tóc bạc phơ, thấp thoáng bên mấy luống rau, vừa tưới nước vừa nhổ cỏ dại, hoặc đang nâng niu từng cọng ngò, lá cải...
Bé Ngà trong phòng đi ra, thấy mẹ bèn xà xuống ngồi bên cạnh. Mai nói với con:
– Chúa nhật tới này cả nhà mình đi chùa. Tới ngày giỗ ngoại rồi đó con.
Bé Ngà chu mỏ:
– Đi dự lễ, dự văn nghệ thì vui, nhưng nhớ bà quá à!
Con bé lẩm nhẩm tính rồi nói tiếp:
– Ngoại mất 6 năm rồi hả mẹ?
Mai gật đầu, giọng sũng buồn:
– Ừ, 6 năm rồi. Nhưng kỳ ghê, lúc nào mẹ cũng có cảm tương như bà vẫn còn sống trong gia đình mình.
Bé Ngà cười cười:
– Mà có cái lạ nữa là từ xưa mẹ rất sợ ma. Bây giờ tự nhiên mẹ “tiến bộ” hẳn, dám ở nhà một mình.
– Đâu có gì lạ. Ngoại lẩn quất ở đây, ma cỏ nào dám hiện hồn nhát mẹ? Có ngoại bảo vệ là mẹ yên chí lớn.
Ngà ôm cổ mẹ, cười như nắc nẻ:
– Trời ơi, con không ngờ mẹ chưa già đã lẩm cẩm! Theo con, người tốt như bà, giờ này chắc phải đang “hưởng phước” trên thiên đàng mới hợp lý.
Mai cười theo con:
– Ừ, mẹ cũng biết điều đó. Nhưng mẹ thương ngoại quá, cứ “nghĩ đại” như vậy, có chết ông tây đen nào đâu mà sợ.
Rồi nhìn đồng hồ Mai hối con:
– Lẹ lẹ lên cô nương, kẻo trể giờ học tiếng Việt. Tuần rồi mẹ nghe cô giáo nói sẽ dạy tụi con bài Lòng Mẹ của nhạc sĩ Y Vân đó. Bài này mẹ đã từng hát cách đây 40 năm.
Gửi: Fri Nov 22, 2024 10:05 pm Tiêu đề: Món Quà Cuối Cùng
Món Quà Cuối Cùng
Mai Hữu Thọ chọn ảnh minh họa
Món Quà Cuối Cùng
(Phú Lan sưu tầm)
Alainne Olivers vô cùng kinh ngạc: ai là người gửi cho cô gói bưu phẩm này? Chắc có sự nhầm lẫn, cô tự nhủ và xem xét kỹ gói giấy. Địa chỉ của cô được viết chính xác, với nét chữ rõ ràng và cầu kỳ. Cô không đủ can đảm để mở nên đặt nó lên bàn. Tên người gửi thật lạ lùng: P. Si tình, phố "Sắc màu" 35. Nhưng rồi óc tò mò đã thắng, cô bóc lớp giấy bọc ngoài. Bên trong, cô trông thấy một cái hộp nhỏ, bên trên là một vũ nữ tí hon. Cô xoay chiếc chìa khóa, vũ nữ tí hon cử động theo bản nhạc trích trong tác phẩm nổi tiếng "Sông Danuyp xanh".
Tim cô đổ nhịp dồn dập. Đây là món quà đầu tiên mà John tặng cô từ khi còn chưa cưới. Sau khi anh mất, cô bán nó cho một tiệm đồ cũ. Hoảng hốt, cô mặc áo khoác và đi ra thị trấn.
Cô hỏi người chủ tiệm đồ cũ:
- Ông Stayer, ông có thể cho tôi xem cái hộp tôi đã để lại cho ông không?
Ông ta trả lời sau một thoáng ngập ngừng:
- Vâng, tôi còn nhớ cái hộp đó... Nhưng cách đây không lâu, tôi đã bán nó rồi.
- Vậy ông có nhớ người mua không?
- Một người lạ.Trông anh ta khá dễ thương, khoảng 30 tuổi. Theo tôi nghĩ, anh ta không phải người ở đây. Anh ta cũng không quan tâm tới giá cả của cái hộp.
Tim cô như ngừng đập. John cũng từng như vậy... Đêm nay Olivers ngủ không ngon giấc. Cô mơ thấy John, người chồng đã qua đời...
Khi họ mới quen nhau, anh cũng chừng 30 tuổi, đẹp trai, trung thực và có cá tính. Lúc đó, anh đã là một luật sư có tiếng, quan tâm đến cả chính trị. Anh có thể cưới được vợ giàu, nhưng anh đã chọn cô. Dòng họ của cô vốn lâu đời và nổi tiếng, song hoàn toàn kiệt quệ về tài chính và cô đã quyết định bán dần tài sản để sống.
Một tuần lễ sau, cô lại nhận được một gói bưu phẩm khác, cũng cùng một người gửi. Một chiếc kim gài áo bằng cẩm thạch, quà cưới của John. Hai chân cô muốn khuỵu xuống. Chồng cô là người phóng khoáng, song anh không cho cô có cơ hội tiêu tiền một mình. "Anh muốn được tự tay chăm lo cho em" - Anh nói với vợ như vậy. Trong suốt thời gian chung sống, cô không bao giờ có quá 5 đôla trong túi. Thời gian đầu, sự hào phóng của anh làm cô rất vui, nhưng dần dần, trong cô xuất hiện lòng ham muốn được tự lập ngày càng mãnh liệt.
Những gói bưu phẩm tiếp tục đến mỗi tuần. Những món quà của John trở lại với cô theo đúng thứ tự mà cô từng được tặng: chiếc vòng đeo tay có gắn kim cương nhân dịp lễ đặt tên thánh của cô, đôi bông tai nhân dịp lễ Giáng sinh...; sau những chiếc thìa bạc quà tặng nhân ngày cưới, là chiếc bình hoa John tặng cô trong một chuyến du lịch. Cô bắt đầu cảm thấy bấn loạn. Chỉ còn một món nữa thôi. Nếu cô nhận được nó thì giống như John đã đội mồ sống lại.
Khi gói bưu phẩm được đưa tới, hai tay cô run lẩy bẩy, mãi mới mở ra được. Đúng là cái mà cô đang đợi. Cái hộp nhỏ bằng cẩm thạch dùng đựng thuốc, một tác phẩm nghệ thuật thực sự. Đó là vật cuối cùng cô mang tới tiệm đồ cũ.
Tối nay Alainne đi nằm sớm nhưng không ngủ được. Khi đang trằn trọc trên giường, cô nghe thấy tiếng gõ cửa, rồi có tiếng chuông. Cô khoác áo ngoài, chậm chạp đi về phía cầu thang dẫn ra cửa lớn. Khi tay đã đặt lên ổ khoá, cô thấy mình sắp ngất. "John..." - Cô thều thào rồi quỵ xuống sàn. Cô tin chắc rằng phía sau cánh cửa kia là người chồng đã chết của cô. Cô đã dùng thuốc độc trong cái hộp cẩm thạch kia pha vào cà phê cho anh, mỗi ngày một ít. Khi anh chết, cô thấy hoan hỉ: cuối cùng cô cũng đã có tiền riêng.
Chủ tiệm đồ cũ Stayer gõ thêm lần nữa rồi thất vọng quay về. Ông đã nóng ruột mong đến giờ phút mà ông sẽ gửi cô món quà cuối cùng trong những món quà đẹp đẽ. Ông đã trả lại chúng cho cô theo đúng thứ tự mà cô đã mang tới. Cuối cùng, hôm nay ông muốn được bày tỏ tình yêu đối với cô. Thật tiếc là cô lại đi vắng. Ông sẽ quay lại. Bó hoa này sẽ còn tươi đến ngày mai.
Bó hoa còn tươi lâu hơn... Hai ngày sau, Stayer đặt nó lên nấm mộ của Alainne.
Gửi: Fri Nov 22, 2024 10:32 pm Tiêu đề: Chuyện Dài Di Dân Gốc “Mễ”
Chuyện Dài Di Dân Gốc “Mễ”
Mai Hữu Thọ chọn ảnh minh họa
Chuyện Dài Di Dân Gốc “Mễ”
(Phú Lan sưu tầm)
Sau đây là một bài phiếm luận bày tỏ nhận định riêng của tác giả về tình trạng của người di dân gốc Hispanic, Latino, thường được gọi nôm na là người “Mễ”, người “Xì” trên đất Mỹ.
**
Từ khi chuyển sang ngôi nhà mới, có khu vườn rộng hơn và nhiều cây cối - việc cắt cỏ, tỉa cây, hốt lá... không còn là công việc nhẹ nhàng - coi như thú vui cuối tuần khi bước qua tuổi trên bảy mươi lăm, nên tôi phải thuê người đến giúp. Những công việc này không ai làm tốt hơn là các anh chàng người “Mễ” - làm khỏe và chu đáo lại lấy tiền công rất phải chăng.
Cư dân trong vùng phụ cận Thủ đô Hoa Thịnh Đốn, kiếm một vài anh “Mễ” về giúp các việc như thế rất dễ dàng mà tiết kiệm được nhiều tiền. Những công việc như sơn lại cái “deck”, cái cửa sổ tróc sơn, sửa cái máng xối, thay sàn nhà hay dọn vườn, tỉa cây, trồng cây... nếu gọi một tay chuyên nghiệp người Mỹ trả công ít nhất cũng trên 25 đô/một giờ; còn gọi các nơi chuyên sửa chữa nhà cửa, trồng cây đăng quảng cáo trên các báo, họ tính đến bạc ngàn. Trong khi kiếm vài anh “Mễ” về làm - trả khoảng 15 đô/ một giờ - xong công việc chỉ tốn chưa quá năm trăm.
Mặc dù có luật cấm thuê mướn những di dân bất hợp pháp, nhưng chỉ những người có địa vị hay có ý định tranh cử một chức vụ nào đó, họ mới tuân thủ vì sợ bị kiện thưa; còn người dân bình thường cứ phớt lờ - thuê anh “Mễ”, chị “Xì” về giúp các việc lặt vặt trong nhà thoải mái vì không ai để ý hay thưa gởi gì.
Các anh “Mễ” tụ năm, tụ bảy ở trước cửa các tiệm Seven-Eleven, Mc Donald, cây xăng, tay cầm ly cà phê, môi phì phèo điếu thuốc lá... chờ người đến gọi đi làm. Cảnh sát biết họ là di dân bất hợp pháp, nhưng làm ngơ, vì bắt về chỗ đâu mà chứa, cơm đâu mà nuôi!?
Lướt qua một vài tờ báo cho thấy: chi phí cho một tù nhân ở Mỹ trung bình là 15,000 đô la/ một năm; có một số tiểu bang lên đến 32,000 đô la - gồm các chi phí ăn ở, dịch vụ y tế cho tù nhân và trả lương cho cai tù... v... v... Cho nên có kẻ ví von: “Ngồi tù ở Mỹ, coi như đi nghỉ dưỡng một thời gian... ”
Có lẽ biết được con bài “tẩy” của nước Mỹ, các anh “Mễ” cứ nhởn nhơ... ngày ngày đứng đợi khách đến đón đi làm, chẳng lo bị cảnh sát tóm. Chiều về ghé vào tiệm tạp hóa - anh này mua két bia, anh kia mua túi thực phẩm cùng về khu chung cư có đông người Mễ cư ngụ. Họ nấu nướng, ăn uống thoải mái - “cụng” nhau vài lon bia cảm thấy lâng lâng ngây ngất... rồi lăn ra ngủ. Họ rất dễ dãi trong việc ngủ - nằm trên sofa, lăn lóc trên sàn nhà, ngồi tựa lưng vào vách... ngủ! Chẳng biết trời trăng.
Khi một người “Mễ” có giấy tờ hợp pháp thuê được một căn chung cư, theo quy định: căn chung cư một phòng ngủ, chỉ cho hai người ở. Anh ta biết thế, nhưng cứ âm thầm cho cả chín, mười người vào ở, coi như một cách giúp đỡ đồng hương mới sang và họ cũng góp một phần trả tiền thuê nhà. “Manager” của khu chung cư biết điều đó, nhưng làm ngơ, vì các anh “Mễ” “ở chui” chờ tối mịt mới âm thầm từng người chui vô căn chung cư, không gây náo động gì và hôm sau, khi trời chưa sáng, họ đã biến khỏi nơi này.
Ngày tháng trôi qua, cuộc sống dân “Mễ” trên đất Mỹ cũng trôi qua như nước chảy qua cầu. Người Mỹ tỏ ra có cảm tình với di dân người “Mễ” hơn các các sắc dân Trung Đông hay Phi Châu theo đạo Hồi, nên chẳng mấy ai rạch ròi anh “Mễ” này, chị “Xì” kia là di dân hợp pháp hay bất hợp pháp.
Dân ta ở các tiểu bang miền Tây như Cali, Texas... gọi họ là dân “Mễ” vì họ vào nước Mỹ từ xứ Mexico; các tiểu bang miền Đông như Maryland, Virginia... gọi là dân “Xì”, vì nghe họ nói tiếng Spanish - tiếng gọi khác nhau, nhưng “Mễ” hay “Xì” cũng là di dân từ các nước Trung hay Nam Mỹ. Người Mỹ gọi họ là dân Hispanic hay Latino.
“Chuyện dài di dân gốc Mễ”: từ nhà ra phố đến chuyện quốc gia đại sự đều có mặt dân “Xì”; vui buồn, thương cảm hay giận đến căm gan đều có bóng dáng anh “Mễ”.
Chuyện mấy anh “Mễ” lái xe gây tai nạn xảy ra hà rầm. Xui cho ai đó lái xe ra đường mà bị anh Mễ lái xe ẩu tông vào - thường thì anh ta tìm cách “dzọt” lẹ, thoát thân... nếu bị chận lại thì cũng “trớt quớt” vì anh ta đâu có giấy tờ bảo hiểm. Người bị anh “Mễ” tông mà mua bảo hiểm xe một chiều thì coi như lãnh đủ cái xui - hãng bảo hiểm không bồi thường, anh “Mễ” thì trên răng dưới dép, có kiện cáo cũng chẳng được gì. Chỉ còn ôm cái giận căm gan và tự móc tiền túi ra sửa xe.
Chuyện các anh “Mễ” được chữa răng không tốn tiền, tưởng là do lòng lành của những ông Nha sĩ, hay chị “Xì” lãnh việc “đẻ thuê”, tưởng chỉ liên quan đến cặp vợ chồng hiếm muộn và các Bác sĩ sản khoa, nhưng khi nghe các nhà làm chính trị than phiền sự nhập cư ồ ạt của người “Mễ” gây thêm gánh nặng cho nhân dân Hoa Kỳ, người ta mới vỡ lẽ...
Các anh “Mễ” đau răng, không có tiền đến nha sĩ, họ mách nhau cái mánh “chữa răng không tốn tiền” như thế này: Khi đau răng, “nốc”mấy lon bia, giả bộ say ngất ngưởng trước mặt mấy ông cảnh sát. Thế nào cũng bị “điệu” về bót. Ở đây cứ rên la thảm thiết chỉ vào cái răng đang đau, các ông cảnh sát thương tình đưa đến bệnh viện cho Nha sĩ nhổ cái răng đau, trám cái răng mẻ. Hết đau răng và hết say rượu, anh “Mễ” lại được thả ra vì cái tội say rượu ngoài đường làm mất trật tự công cộng chỉ bị phạt tiền và vài ba ngày tù giam - các anh “Mễ” thì trên răng dưới dép, đồn Cảnh sát xét thấy nhốt lâu không tiện... đành phải thả!
Anh “Mễ” chữa răng đau không tốn tiền, không phải ông nha sĩ có lòng bác ái - chữa răng miễn phí cho người nghèo; chuyện chị “Xì” “đẻ thuê” đến ngày “khai hoa nở nhụy” chị ta vào bệnh viện được hưởng phúc lợi miễn phí như những bà mẹ đơn thân (single mom) không phải là “nhà thương chùa - bỏ qua chi phí”. Ông nha sĩ và bệnh viện sẽ lấy lại tiền từ ngân sách Dịch Vụ Nhân Sinh và Y Tế của chính phủ.
Ngân sách dành cho Dịch Vụ Nhân Sinh và Y Tế trong tài khóa 2022 là 133,7 tỷ USD. Đây là tiền đóng thuế của nhân dân Hoa Kỳ. Cho nên có lời phàn nàn: “Dân Mễ vào càng đông, dân Hoa Kỳ càng khổ vì đóng thuế càng cao... ”
Nhưng ai đã xem qua phim “A Day Without A Mexican” (Một Ngày Không Có Người Mễ) của đạo diễn Sergio Arau, phát hành năm 2004, sẽ có cái nhìn và suy nghĩ khác hơn về di dân người “Mễ”. Sự khôi hài, châm biếm sâu sắc trong bộ phim cho thấy: “Chuyện gì sẽ xảy ra vào một buổi sáng người “Mễ” biến mất ở tiểu bang California?”
Bàn ghế, sàn nhà trong nhà hàng không ai lau chùi, chén bát không ai rửa, thực phẩm không ai giao; ngoài phố rác rưởi, cầu đường không ai sửa sang và dân cư địa phương biết gọi ai tỉa cây, cắt cỏ, dọn vườn... với tiền công rất rẻ? Ôi! “Một ngày không có người Mễ”- thành phố sẽ tiêu điều!?
Nếu chưa xem phim mà thấy những anh “Mễ” cặm cụi trong công việc sửa sang đường sá, cầu cống hay đang chăm chỉ làm việc trong các nông trại dưới cái nóng trên 100 độ F vào mùa hè và dưới 0 độ F vào mùa đông, ta không khỏi chạnh lòng thương cảm.
Ấy vậy mà có lắm lời thị phi về di dân “Mễ”, nhất là vào năm có bầu cử Tổng Thống Mỹ - các anh “Mễ”, chị “Xì” đang ở nấc thang cuối cùng trong xã hội - ngày ngày chỉ mong có công việc làm dù là nặng nhọc, khổ cực với đồng lương rẻ mạt... Bỗng một ngày đẹp trời trong mùa bầu cử tổng thống, họ được bốc lên “tới Trời! ”- liên quan đến chuyện “quốc gia đại sự.”
Các ông trong đảng Dân Chủ thì o bế, mua chuộc di dân gốc “Mễ” và nhắc đến họ như một cộng đồng hữu ích cho nền kinh tế Hoa Kỳ, rồi Tổng Thống ký lệnh “ân xá” cho dân “Mễ” nhập cư bất hợp pháp sớm trở thành công dân Mỹ để được đi bầu.
Các ông Cộng Hòa bảo thủ chủ trương: Không thể mở cửa biên giới cho dân “Mễ” ồ ạt đi vào nước Mỹ mà không thanh lọc sẽ gây bất an cho xã hội. Nhưng khi xét thấy người Mỹ gốc Latinh lên đến trên 62 triệu - chiếm khoảng 18% tổng số dân số Hoa Kỳ (theo Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ năm 2020) thì các ông nghĩ đến số lượng cử tri đáng kể của di dân gốc “Mễ”. Cho nên các chính khách Cộng Hòa “vừa đấm vừa thoa” khiến người ta thấy rõ tính cách “mị dân” của cả hai đảng Dân chủ và Công hòa.
Đa số dân Mễ nhận ra cái trò “bá đạo” trong sinh hoạt chính trị, nên họ không mấy “mặn mà” với những lời hứa hẹn của các chính trị gia. Họ nhận ra các ông ấy chỉ là những tay “lấy của người làm phúc ta - mượn hoa cúng Phật.” Họ hiểu những người thực sự cưu mang họ chính là những công dân Hoa Kỳ bình thường đã đóng thuế để cho họ được hưởng những phúc lợi xã hội, và giúp họ có công ăn việc làm.
Bởi vậy, ta thấy dân “Mễ” sống rất hồn nhiên, thoải mái - đa số không quan tâm nhiều đến chính trị. Những lời thị phi về dân Mễ chỉ là do “mưu đồ” chính trị, chứ xem ra chính bản thân người “Mễ” không có “âm mưu”.
Người ta quen gọi di dân từ các nước Trung hay Nam Mỹ là “Xì” hay “Mễ” cho gọn, vì thấy họ có vóc dáng, màu da gần giống nhau và nói tiếng Spanish, nhưng thực sự là dân ở nhiều quốc gia khác nhau, như: Honduras, Guatemala, El Salvador, Nicaragua, Belize, Panama, Costa Rica thuộc Trung Mỹ và các nước Nam Mỹ như Brazil, Venezuela, Colombia...
Một anh bạn người El Salvador tâm sự: “Sau khi giành được độc lập từ bọn thực dân Tây Ban Nha, những nhà lãnh đạo chính trị ở các nước vùng Trung Mỹ và Nam Mỹ bất tài - không tạo được một nền kinh tế phát triển và bất lực trong việc ổn định xã hội - nghèo đói và băng đảng hoành hành, khiến dân chúng phải ‘tha phương cầu thực’- chịu nhiều thiệt thòi và khổ nhục! Bỏ xứ sang đây, chúng tôi chỉ mong kiếm được tiền gởi về nuôi cha mẹ, vợ con, anh em hay gởi về mua nhà, mua đất, cơ sở thương mại... rồi một mai, khi tuổi già sức yếu, chúng tôi sẽ trở về sống với quê hương - không nơi nào đẹp hơn quê hương của mình ông ạ. Cho nên được ‘ân xá’ để trở thành công dân Hoa Kỳ hay bị coi là ‘di dân lậu’ không quan trọng - vấn đề dân “Mễ” chúng tôi quan tâm là kiếm tiền.”
Anh ta tỏ vẻ bất mãn và nói tiếp: “Theo báo chí cho biết: hiện nay ước tính có trên 13 triệu di dân bất hợp pháp sống rải rác khắp nơi trên nước Mỹ gồm nhiều sắc dân, chứ không phải chỉ có dân “Mễ” và họ đã gây ra một số tội phạm. Nhưng mọi sự xấu xa đều đổ lên đầu dân “Mễ”. Trong khi hầu hết người “Mễ” chúng tôi vào Hoa Kỳ vì lý do kinh tế. Chúng tôi đã cần cù, chăm chỉ làm việc cực nhọc với đồng lương rẻ mạt so với dân bản xứ, nhưng chúng tôi chấp nhận vì dầu sao vẫn hơn ở nước tôi không có việc làm - vừa nghèo đói lại bị băng đảng trấn lột! Bởi vậy, chúng tôi cam phận - chỉ mong có cuộc sống no đủ và bình an ở nơi này, nhưng đôi khi phải nghe tiếng ‘bấc’ tiếng “chì’... với bao nỗi buồn thế sự trong mùa bầu cử tổng thống.”
Những lời tâm sự trên đây, cho ta thấy sinh hoạt chính trị ở Hoa Kỳ còn nhiều “bất cập” trong vấn đề di dân. Tuy người dân Mỹ được thể hiện nguyện vọng của mình qua lá phiếu trong các cuộc bầu cử - cứ bốn năm bầu cử tổng thống một lần, nhưng ông này lên làm Tổng Thống muốn lấy lòng một số dân Mỹ bảo thủ thì ra lệnh trục xuất; khi ông khác lên muốn nuôi dưỡng đám dân “Xì” để kiếm phiếu sau này thì ân xá. Trục xuất hay ân xá chỉ là trò chơi chính trị, chứ ai cũng biết nước Mỹ cần nhân công, dân “Mễ” cần tiền.
Xem lại lịch sử, người ta sẽ thấy: Sau cuộc tranh giành biên giới với Hoa Kỳ vào giai đọan 1846-1848, Mexico bị thua phải ký Hiệp ước Guadalupe Hidalgo (ký ngày 2-2-1848 tại Villa de Guadalupe Hidalgo) - đồng ý bán lại một phần lãnh thổ cho Hoa Kỳ vào năm 1848. Một phần hay toàn bộ lãnh thổ của các tiểu bang: California, Texas, New Mexico, Arizona, Nevada ngày nay là đất của Mexico trước kia.
Cũng theo Hiệp ước này cho phép công dân Mexico tại các lãnh thổ bị bán được chọn ở lại và trở thành công dân Mỹ với đầy đủ quyền lợi như công dân Hoa Kỳ. Từ đầu Thế kỷ 20, sau các cuộc chiến tranh, di dân người “Mễ” vào Hoa Kỳ với các lý do kinh tế và sum họp gia đình. Họ tham gia vào nền chính trị Hoa Kỳ rất sớm - từ năm 1877 đã có Dân biểu và Thượng Nghị sĩ gốc “Mễ” trong Quốc Hội Hoa Kỳ và đã đóng góp vào sự phát triển kinh tế cho Hoa Kỳ qua sản xuất và tiêu dùng.
Bây giờ, thế sự khác xưa. di dân ào ạt vào Hoa Kỳ, không phải chỉ là dân Trung, Nam Mỹ. Sự mở cửa biên giới không thanh lọc kỹ lưỡng, khiến những thành phần bất hảo như các băng đảng, mua bán ma túy, buôn người, khủng bố quốc tế, gián điệp... ở nhiều nước trên thế giới lợi dụng thời cơ tràn vào, gây ra nhiều tội phạm trong xã hội và nền an ninh của Hoa Kỳ,
Qua lời tâm sự của anh bạn người El Salvador, tôi nghĩ đến thân phận của dân ta - cũng là di dân đến Hoa Kỳ - nhưng khác nhau vài điểm: Người Việt đến Hoa Kỳ để tìm tự do; người Mễ đến Hoa Kỳ để tìm cơm áo. Ta lìa bỏ quê hương vì chính trị; họ lìa bỏ quê hương vì kinh tế và xã hội. Ta quyết tâm xây dựng lại cuộc đời và tha thiết với đất nước Hoa Kỳ như quê hương thứ hai; người “Mễ” coi Hoa Kỳ như nơi đất lành chim đậu - khi vui thì đỗ, khi buồn thì bay...
Người “Mễ” là dân nhập cư đông thứ nhì ở Hoa Kỳ (chỉ sau người Âu châu di cư lập quốc) và là cộng đồng có mặt lâu đời nhất so với các sắc dân khác. Tiếng Spanish được sử dụng phổ biến sau tiếng Anh. Do vậy, dân “Mễ” có một chỗ đứng đáng kể trong hoạt động kinh tế, chính trị và văn hóa ở Hoa Kỳ.
Trước đây, người “Mễ” ra vào Hoa Kỳ như về “quê ngoại”. Nhưng trong vài thập niên trở lại đây, trà trộn vào những di dân người Mễ lương thiện, cần cù là bọn buôn lậu ma túy, buôn người, cùng bọn khủng bố quốc tế và gián điệp của các quốc gia thù địch xâm nhập vào Hoa kỳ, tạo ra những bất ổn trong xã hội và sẽ làm cho Hoa Kỳ suy yếu.
Một ông Tổng Thống thấy trước nguy cơ, nên có biện pháp gắt gao với đám di dân đang tập trung đông đảo ở biên giới phía nam. Ông cho xây hàng rào ngăn chặn và tuyên bố sẽ trục xuất hết những di dân bất hợp pháp. Nhưng có làm không? Đó là một câu hỏi gây nhiều tranh cãi.
Trong khi các doanh nghiệp Hoa Kỳ đang khao khát nguồn nhân lực - cần một lực lượng “lao động phổ thông” ở các nông trại, trại chăn nuôi, các doanh nghiệp chế biến thực phẩm... v... v... Người Mỹ chê công việc nặng nhọc mà lương thấp không làm hoặc không đủ người làm. Vậy chỉ có di dân lao động mới đáp ứng được nhu cầu và nhờ đó di dân bất hợp pháp mới có chốn dung thân...
Khi nào các doanh nghiệp ở Hoa Kỳ “sập tiệm”, các nông trại ngưng gieo trồng, thu hoạch; các trại chăn nuôi đóng cổng... đám di dân vào Hoa Kỳ không có việc làm - đói vêu ra... hay khi Hoa Kỳ biến thành một nước “xã hội chủ nghĩa”- mọi người đều cùng khổ như nhau thì “bố bảo” họ cũng chẳng vào.
Ngược lại các nông trại, hãng xưởng còn hoạt động, Hoa Kỳ còn phồn thịnh thì dù có “kín cổng cao tường” cũng không ngăn được đám di dân đi tìm nguồn sống. Đó là định luật cung cầu - từ ngàn xưa cho đến bây gìờ và mãi ngàn sau. Vấn đề di dân không bao giờ chấm dứt.
Ông Tổng Thống kế nhiệm nghe lời bàn chí lý và cũng muốn xóa sạch những di sản của người tiền nhiệm nên ngưng xây tường rào và thiếu biện pháp ngăn ngừa hữu hiệu những thành phần xấu xâm nhập vào Hoa Kỳ. Vì thế, phe đối thủ rêu rao cho rằng dân buôn bán ma tuý, buôn người, dân khủng bố và gián điệp quốc tế tập trung ở biên giới phía nam Hoa Kỳ đông như kiến để chuẩn bị “cuộc hành hương vào đất thánh - không phải làm việc vất vả mà được hưởng nhiều phúc lợi.”
Lúc này, ông Tổng Thống kế nhiệm “tỉnh ngủ”, thấy rằng đây là một vấn đề bất lợi trong mùa bầu cử, nên ngày 4-10 vừa qua ông ta ra lịnh: Tiếp tục cho xây tường ngăn cản bớt đám di dân, mặc dù trong cuộc tranh cử năm năm 2020, ông đã từng tuyên bố: “Sẽ không xây thêm bức tường biên giới nào dưới thời chính quyền của tôi.”
Ôi! “Đường về quê ngoại” của dân Mễ xem ra như tắc nghẽn. Nhưng chớ vội bi quan! Đất nước Hoa Kỳ được hình thành bởi di dân và phồn thịnh cũng nhờ di dân. Điều đó đã trở thành truyền thống và là di sản của nền Cộng Hòa Mỹ Quốc. Những cái “bát nháo” trước mùa bầu cử sẽ lu mờ và đi vào quên lãng.
Và rồi đâu sẽ vào đó sau ngày bầu cử: việc nước, việc nhà, việc di dân, việc ổn định xã hội và phát triển kinh tế sẽ tiếp tục làm cho nước Mỹ giàu mạnh - giữ vững vị trí hàng đầu thế giới, nếu đất nước này được lãnh đạo bởi một vị Tổng Thống có chính sách đối ngoại mạnh mẽ, cứng rắn với Trung Cộng, chứ cái gì cũng “cười” khiến cho ông Tổng Thống Putin khoái chí thì không bao lâu nữa phe Xã Hội Chủ Nghĩa (không Tàu thì Nga) sẽ thống trị thế giới.
Cầu mong “đường về quê ngoại” của anh “Mễ”, chị “Xì” sẽ được hanh thông để đón nhận những con người lương thiện, cần cù muốn vào Hoa Kỳ tìm cuộc sống ấm no, hạnh phúc trong vòng trật tự. Người Mỹ sẽ ‘Welcome’ và dân Việt cũng đón mừng...
Gửi: Sun Jan 19, 2025 1:26 am Tiêu đề: Đồ Lâu Rồi Không Xài
Đồ Lâu Rồi Không Xài
Mai Hữu Thọ chọn ảnh minh họa
Đồ Lâu Rồi Không Xài
(Phú Lan sưu tầm)
Một người phụ nữ giàu có sau một lần đi chơi nước ngoài về nhà sớm hơn dự định, đã bắt quả tang chồng mình đang "tò tí te" với một cô gái khác trong nhà.
Vô cùng tức giận, dựng đôi gian dâm dậy và đuổi cô gái ra khỏi nhà. Bà ta vừa khóc vừa mếu máo nói với chồng:
"Tại sao anh lại hư hỏng đến mức đó? Anh phải ký ngay vào đơn ly dị cho tôi".
Anh chồng lúng túng, ngượng ngùng:
"Anh xin em... Em cho anh giải thích... Chuyện hoàn toàn không như em nghĩ đâu, anh mong em nghe hết để hiểu cho anh".
- Được, tôi cho anh nói nốt lần này. Và nhớ rằng đây là lần cuối cùng tôi chịu đựng để nghe anh trình bày – Cô vợ dằn giọng
Anh chồng bắt đầu kể:
- Chiều hôm nay, lúc đi làm về anh gặp một cô gái đứng vẫy xe, trông dáng điệu rất khổ sở.
Anh cho cô ấy lên xe, trên đường đi anh để ý thấy cô ấy hơi gầy, run nhẹ và bộ đồ trên người cô ta bẩn và có một số chỗ bị rách. Anh hỏi, thì cô ấy nói là: do thất nghiệp không còn tiền trọ, tiền ăn, đã 3 hôm cô ấy chưa ăn gì và chưa được tắm rửa. Thương cảm với một cá nhân tội nghiệp anh chở cô ấy về nhà mình tính là cho tắm rửa, ăn uống 1 chút cho hồi sức.
Anh pha một cốc sô cô la nóng mà em nói là em kiêng vì uống vào sẽ béo nhanh và đưa cho cô ta, cô ấy vồ lấy uống một hơi, hết sạch.
Sau đó, anh bảo cô ấy đi tắm. Lúc cô ấy tắm, anh đã vứt hết mấy cái đồ rách và hôi hám của cô ấy vào sọt rác. Cô ấy tắm xong anh dắt cô ta đến trước tủ quần áo của em, chọn cho cô ấy cái quần bò em mua 4 năm trước mà chưa mặc một lần, vì em bảo mặc không đẹp.
Anh tìm thấy bộ đồ lót còn trong hộp mà anh mua tặng em vào dịp Noel cách đây mấy năm, mà em bĩu môi chê anh là không có mắt thẩm mỹ.
Anh lại tìm thấy một cái áo sơ mi rất sexy của em gái anh tặng em, mà em cũng cố tình không mặc vì chê đường may lỗi.
Cuối cùng anh cho cô ta đôi giày hàng hiệu chúng mình cùng đi shopping và mua mà em cũng không chịu đi vì ai đó cùng cơ quan em cũng có đôi giày như vậy...
Lúc tiễn cô ấy ra đến cửa, cô ấy khóc thút thít và nói với anh là cô ấy rất biết ơn anh...
-"Em rất cám ơn anh, đã cho em dùng nhiều đồ chị không còn xài "
Anh trả lời:
- "Không có gì, toàn thứ vợ tôi không xài từ lâu mà"
Cô hỏi:
- Nhà còn thứ gì chị lâu không xài nữa không ạ?“.
Ngẫm nghĩ một hồi... và anh đã cho cô ấy nốt cái mà lâu nay em không hề xài.
Gửi: Wed Feb 05, 2025 12:07 am Tiêu đề: Xóm Cũ Nội Thành
Xóm Cũ Nội Thành
Ảnh tác giả chọn
Xóm Cũ Nội Thành
(Phú Lan sưu tầm)
Bóng đêm pha lẫn ánh ngày
Thuyền qua sông vắng chở đầy tiếc thương
Chiếc xe lửa nghiến bánh ken két trên đường sắt, nghe như tiếng rên than đau đớn, rồi rùng mình, chầm chậm và dừng lại ở ga Huế. Đám hành khách xơ xác, lôi thôi như lũ ăn mày, nhốn nháo, hốt hoảng tranh nhau đổ ào xuống sân ga. Hoàng nhảy xuống theo, hành lý trên tay chỉ có một cái bao nhỏ đựng bộ áo quần đã sờn rách tả tơi. Anh vừa được ‘cách mạng khoan hồng’ cho về đoàn tụ với gia đình, sau bốn năm ‘học tập tốt, lao động tốt’. Hoàng cười, trong tù, anh là thằng chậm chạp, trễ nải nhất thì được về trước, mấy anh chăm chỉ tích cực lao động, triệt để tuân thủ kỷ luật tù, thì còn mãi nằm lại trong đó. Thế mới biết, bạn anh nói không sai: ‘cách mạng’ thường làm ngược với lời nói.
Được tự do sau bốn năm giam cầm, lao động khổ sai nơi rừng thiêng nước độc, đói, lạnh và bệnh hoạn. Trong lòng Hoàng rộn ràng nôn nao khó tả. Ừ, còn sống mà trở về là phước đức và may mắn lắm. Bước chân của anh nhẹ tênh, như đang bay bổng, không dính đất.
Nhà ga không có gì thay đổi, chỉ tiêu điều, mốc meo cũ kỹ hơn. Người người hốc hác, ốm o và lôi thôi rách rưới. Vừa bước ra cửa ga, một người đàn bà chạy theo níu Hoàng và hỏi:
“Có cái chi bán không?”
Hoàng cười, lắc đầu trả lời: “Mới đi tù về, có cái con khỉ! À, mà có bộ áo quần đã sờn rách, có mua không?”
Người đàn bà mau mắn: “Mô? Đưa coi! ”
Hoàng mở bao đưa bộ áo quần cho người đàn bà. Chị rũ rũ cái quần ra xem, rồi dài giọng:
“Cấy ni là giẻ rách, ai mà mua mần chi hè! ”
Chị nhìn cái quần Hoàng đang mặc, còn tốt, lành lặn, vì mỗi tù nhân thường để dành một ‘bộ đồ viá’, chỉ dám mặc vào những khi có ‘sự cố’ trọng đại. Chị nói:
“Hay là anh bán cái quần đang mặc nầy đi! ”
Hoàng đưa tay mở thắt lưng, định cởi cái quần ra, nhưng hơi ngượng trước mặt người đàn bà. Hoàng nhìn vào ánh mắt chị, bỗng la lên:
“Ủa! Có phải Tâm đây không?”
Người đàn bà sửng sốt, và chộp lấy hai tay Hoàng mà reo vui:
“Anh Hoàng. Em đây! Trời ơi, mới có mấy năm mà không nhìn ra nhau. Ngày trước, anh hồng hào mập mạp, bây chừ, chỉ còn da bọc xương, đen điu như thằng mọi. Phần em cũng thay đổi nhiều, tàn tạ, mần răng mà anh nhìn ra được em hè?”.
Hoàng cười: “Nếu không ngó kỹ vô đôi mắt của mi, thì tau cũng không nhìn ra. Ngày xưa, bạn bè tau thường đặt cho mi cái biệt danh là ‘Mắt huyền bí’. Đôi mắt mi, đã làm xao xuyến không biết bao nhiêu con tim đó! ”
Cô Tâm nầy là bạn của Nga, người em gái kế, thua Hoàng hai tuổi. Quen biết thân thiết nhau từ nhỏ, Hoàng vẫn thường quen xưng hô ‘mi, tau’ thân mật với các bạn của cô em gái. Hoàng chăm chú nhìn Tâm và nói:
“Răng mà mi khổ dữ ri Tâm?”
Tâm cười như không biết cô đang khổ:
“Thời buổi ni, ai mà không khổ, không đói? Còn sức mà chạy gạo cho con là may mắn lắm rồi. Anh không biết, chứ con Hải còn khổ hơn nữa, phải đi xin nước vo gạo uống đỡ đói. Anh đi tù, còn khổ hơn tụi em chứ?”
Hoàng ngần ngại hỏi: “Răng mà tụi bây bỏ dạy học, chạy lang bang đầu đường xó chợ kiếm cơm như ri?”
Tâm nói lớn: “Ai mà dám bỏ việc trong thời buổi ni? Bọn em bị đuổi việc, không cho dạy nữa, vì gia đình ngụy quân, ngụy quyền. Nhà cửa cũng bị tịch thu, không nơi trú ngụ.”
Mấy người xe đạp thồ hăm hở tiến đến gần Hoàng mời mọc. Hoàng chọn người già nhất, ốm o, đội nón lá rách và hỏi:
“Về cửa Đông Ba bác lấy mấy đồng?”
Người đàn ông nói nho nhỏ: “Anh cho mấy cũng được. Ngồi lên xe đi! ”
Hoàng dạng chân, leo lên khung sắt chở hành lý phiá sau yên xe. Người đạp xe thồ thở phì phò mệt nhọc khi lên dốc cầu ga. Hoàng nhảy xuống, phụ đẩy xe qua khỏi dốc, rồi leo lên lại. Người xe thồ cám ơn, và hỏi:
“Anh đi mô về rứa?”
Hoàng đáp: “Mới đi tù về! ”.
Ông nói: “Khổ chưa! ”
Hoàng cười vui vẻ: “Được ra khỏi tù là sướng, chớ răng mà bác kêu là khổ?”
Ông già đạp xe chíp miệng: “Đi tù thì khổ là cái chắc. Nhưng ra khỏi tù rồi cũng chưa hết khổ mô! Không chừng lại còn nhiều mối lo hơn khi đang ở tù. Tin tui đi!
Nghe giọng nói eo éo khàn khàn như vịt xiêm của ông xe thồ, và thoáng nhớ nét mặt quen quen của ông, Hoàng chợt nhận ra ông cụ là ai. Anh la lớn:
“Dừng lại, dừng lại bác ơi! ”
Ông già ngơ ngác. Hoàng nói
“Bác đưa xe cho cháu đạp, bác ngồi, cháu chở đi.”
Ông cụ bối rối: “Bậy nờ! Mần chi mà lạ rứa?”
Hoàng thúc dục: “Bác cứ leo lên đi! Cháu còn sức đạp xe mà! ”
Hoàng đạp xe chở ông cụ mà lòng tan nát tơi bời nhớ đến kỷ niệm xa xưa. Ông nầy là bố của Hồng, người yêu đầu đời. Hai đứa yêu nhau tha thiết, tưởng có thể chết cho nhau được, thế mà cuộc tình không thành. Ông cụ đã nghiêm cấm. Ông nói với con gái: “Mần răng thì mần, Ba nhứt thiết không sui gia, không nói chuyện với ông Thụ. Không ngồi ngang hàng với ông nớ! ” Ông khinh khi gia thế của Hoàng thuộc giai cấp lao động. Ngày xưa, lúc ra đường, khi nào ông cũng áo quần phẳng phiu, mang áo vét, thắt cà-vạt, giày da láng bóng, như sắp đi dự hội nghị quốc tế quan trọng. Ông lái chiếc xe hơi cũ. Thời đó, xứ Huế rất ít người có xe bốn bánh. Ông tránh giao thiệp với hàng xóm, có lẽ ông nghĩ rằng, họ không cùng giai cấp. Ông cụ chưa nhận ra thằng rể hụt đang còng lưng thở phì phò đạp xe chở ông
Dọc theo đường Lê Lợi, ngang qua trường Quốc Học cũ, nơi tràn đầy kỷ niệm của một thời xa xưa. Hồi đó, có nghèo khổ, có thiếu thốn, nhưng tràn đầy hy vọng cho tương lai. Đời tươi như hoa nở.
Ông cụ ngồi sau xe, cứ lẩm bẩm hoài: “Răng mà lạ ri hè! Lạ quá đi chớ! ” Hoàng đạp xe và đưa tâm trí miên man về miền quá khứ
Đang mệt thở hổn hển, Hoàng tần ngần, không dám hỏi trực tiếp tin tức về người yêu cũ, mà né tránh, hỏi về ông chồng của nàng:
“Anh Dũng, chồng cô Hồng đã được ‘cách mạng khoan hồng’ tha về chưa bác?”
Ông cụ xe thồ ngạc nhiên hỏi: “Ủa, anh cũng biết thằng Dũng, rể tui? Hắn cũng chưa được về. Mà răng anh biết tui hè?”
Hoàng hơi bối rối, không trực tiếp trả lời câu hỏi của ông, từ tốn nói: “Tụi cháu gặp nhau trong trại cải tạo Bình Điền một thời gian. Sau đó, chuyển trại, mất tin tức nhau. Có thời Dũng bệnh nặng, nằm liệt cả tháng, tưởng không qua khỏi. Bây chừ cô Hồng mần việc chi bác? Có còn đi dạy không?”
Hoàng cố tránh, không muốn để ông cụ biết anh là ai, để đỡ ngỡ ngàng. Ông cụ ho khan mấy tiếng, rồi trả lời
“Có chồng đi cải tạo, ai mà cho dạy nữa! Hắn bị đuổi lên kinh tế mới Nam Đông, ôm theo ba đứa con dại. Nhà cửa bị tịch thu. Chân yếu tay mềm, không biết mần răng mà phá núi, bạt rừng, cuốc đất trồng khoai sắn. E rồi cũng chết đói cả lũ mà thôi.”
Hoàng ngậm ngùi: “Trời đất gió bụi, thì ra ngoài đời, cũng đói khổ không thua chi trong tù! ”
Ông cụ nói nho nhỏ: “Trong tù, mấy anh khỏi lo miếng ăn, tuy đói, nhưng mỗi ngày cũng còn có chút chi cho vào miệng. Ngoài tù, mỗi sáng thức dậy, hoang mang lo lắng lắm, không biết hôm nay có củ khoai, khúc sắn dằn bụng hay không. Nhiều hôm đạp xe thồ, cả ngày chưa có chi ăn, bụng đói, chân rã rời, đạp không nổi, mồ hôi vã ướt toàn thân. Nhiều gia đình, có khi một ngày chỉ ăn một bữa, cũng có lúc, một ngày không có chi ăn. Khổ lắm anh ơi. Người ta nói trời sinh voi, trời sinh cỏ, sai bét. Họ ‘quản lý’ hết cỏ rồi, thì voi cũng nhăn răng.”
Hoàng hỏi: “Rứa thì hôm ni bác đã ăn chi chưa?”
Ông cụ đáp yếu xìu: “Có. Hai củ khoai, cũng tạm dằn bụng. Uống nước vô nữa thì cũng tạm no.”
Nghe ông cụ nói, Hoàng cũng hoang mang lo lắng. Không biết rồi mai đây, làm gì để sinh sống. Bỗng nhiên, đôi chân Hoàng rã rời, như không còn sức lực. Khi đi ngang qua chợ Đông Ba, Hoàng dừng xe lại, và nói:
“Mình vô đây uống miếng nước đã bác! Mệt và khát lắm rồi.”
Hoàng cho tay vào túi, mân mê đếm tiền. Nhờ có vợ bí mật tiếp tế cho một ít tiền từ tháng trước. Bên gia đình vợ, chạy hết được ra khỏi xứ từ năm 1975. Chỉ có vợ Hoàng kẹt lại, vì Hoàng không chịu đi.
Hoàng ngồi xuống bên gánh chè, mời ông cụ xe thồ ăn một chén. Ông cụ lắc đầu, bảo ông không có tiền, mà dù có tiền, cũng không phí phạm, chè là thứ xa xỉ trong thời buổi nầy. Hoàng nói bác đừng lo, cháu đãi bác mà. Ông cụ ngần ngại, rồi cũng ăn. Hoàng thấy mặt ông rạng rỡ, nhai nuốt ngon lành, liếm mép, vét đáy chén, như cả đời chưa bao giờ nếm đến món nầy. Trong lòng Hoàng, dấy niềm thương cảm. Ngày xưa, ông ngăn cản cuộc tình giữa Hoàng và con gái ông, nhưng Hoàng không hề oán giận hay ghét bỏ ông. Hoàng chỉ không ưa cái phách lối phân biệt giai cấp, nghề nghiệp, giàu nghèo. Các con ông đều là bạn của Hoàng. Thằng Quý, con trai đầu của ông là bạn học thời thơ ấu, Hồng là người yêu của Hoàng, các em Hồng là Đạo, Huy, Bê Chị, Bê Út. Ngày đó, ông cấm con ông giao thiệp, chơi đùa với trẻ con trong xóm, vì sợ lây nhiễm cái bần của con cái gia đình nghèo. Nhưng rồi mười mấy năm sau, đám con cái nhà nghèo nầy, có đứa thành giáo sư trung học, đại học, bác sĩ, luật sư, kỹ sư, sĩ quan, hoặc giữ các chức vụ hành chánh trong xã hội. Các con ông, chỉ có Hồng lết lên đến đại học, làm giáo sư. Nhớ các con ông, Hoàng tần ngần hỏi:
“Quý bây giờ làm chi? Ở mô hở bác? Có còn làm thơ viết văn không?”
Ông nói với giọng buồn: “Hắn tự tử chết rồi. Ngày xưa hắn chống chiến tranh, trốn quân dịch, bị bắt đi làm lao công chiến trường, rồi bị thương tật. Sau 1975, vì không lao động được, chỉ ăn bám vợ. Thấy vợ vất vả, hộc tốc ngày đêm tối mắt tắt mày chạy kiếm gạo, mà cả nhà cha con đều đói. Hắn tự tử chết cho bớt gánh nặng đè trên vai con vợ khốn khổ. Hắn có viết mấy bài thơ cảm động lắm, ai đọc cũng chảy nước mắt dầm dề.”
Mắt ông cụ đỏ ngầu và ướt. Hoàng thở dài, thầm nghĩ, nếu trong hoàn cảnh của Quý, thì Hoàng cũng chọn cái chết, cất bớt gánh nặng cho gia đình. Hoàng hỏi tiếp:
“Còn Đạo và Huy chừ mần chi? Hình như Đạo có thời đi vô bưng theo ‘mặt trận’ phải không?”
Ông cụ thở một tiếng rất dài: “Đúng, thằng Đạo có thời vô bưng. Sáng con mắt ra. Vỡ mộng, rồi trốn về thành, theo chương trình chiêu hồi. Hắn bặt tăm từ tháng 3 năm 1975, có lẽ mai danh ẩn tích ở một nơi mô đó. Hoặc không chừng đã bị thanh toán gọn rồi. Còn thằng Huy thì bị bắt đi ‘nghĩa vụ quân sự’, đã gởi xác bên Kampuchia.”
Im lặng một lúc cho bớt xúc động. Hoàng hỏi tiếp: “Còn Bê Chị, Bê Út chừ ở mô? Đã có chồng con chi chưa?”
Ông cụ nhìn ra xa, và nói như trong mơ: “Bê Chị bây chừ lang thang, theo đoàn văn công đi lưu diễn đây đó. Có lẽ cũng vất vả, khổ cực, nhưng cũng đỡ đói khát. Hai năm trước, vào dịp Tết, có người gặp nó ở trại Tống Lê Chân, giữa rừng già gần biên giới Miên Việt, trình diễn văn nghệ giúp vui cho bộ đội. Còn con Bê Út thì đi vượt biển không có tin về. Có lẽ cũng xong một đời rồi.”
Hoàng bụm hai tay vuốt mặt. Ông cụ nhìn kỹ Hoàng, rồi chộp vai anh mà lắc, hỏi: “Hoàng! Anh là Hoàng phải không? Trời ơi, thay đổi như ri, thì ai mà nhìn cho ra?”
Hoàng nói nho nhỏ: “Phải, cháu là Hoàng đây. Hàng xóm của bác, và là bạn của Hồng ngày xưa. Cuộc đời đổi thay nhiều quá, không biết mô mà lường! ”
Ông cụ thở dài, nói như phân bua: “Anh có tin vợ chồng là duyên số không? Không duyên nợ, thì có vùng vẫy mấy cũng không thành. Nầy, mà con Thu vợ anh, là một người đàn bà đảm lược và gan lì có hạng, cả xóm ai cũng phục hắn. Bị đuổi đi kinh tế mới, nhất định cố thủ, không đi. Bị cắt sổ hộ khẩu, cũng không sợ. Hắn còn dọa, la toáng lên cho bà con biết, sẽ đốt nhà tự thiêu cùng ba đứa con, nếu bị ép quá. Có lẽ chính quyền cũng sợ nó làm ẩu, mang tiếng.”
Về đến nhà, Hoàng móc tiền ra trả, ông cụ không lấy. Hoàng dúi vào túi ông rồi đẩy đi. Ông quay lại: “Coi như tui nợ anh số tiền ni.”
Cuộc đoàn viên của Hoàng với gia đình sau bốn năm tù tội xa cách đầy cả niềm vui và nước mắt.
Xóm cũ, bây giờ cán bộ miền Bắc vào, tịch thu nhà, ở xen kẽ đó đây. Họ lạnh lùng, ánh mắt nhìn xoi mói như muốn dò xét, kiểm soát xóm giềng. Thu, vợ của Hoàng trước đây cũng đi dạy học, bị sa thải, vì có chồng đi tù cải tạo, nàng nói với Hoàng:
“Không cho dạy học nữa, cũng không tiếc. Nhờ vậy nên mình mới có thì giờ kiếm được chút cơm cháo, nuôi con sống qua ngày. Mấy đứa còn đi dạy, suốt ngày bận rộn, nào là ‘giáo trình’, nào là ‘đứng lớp’, liên miên học tập chính trị, đêm về còn họp hành đến khuya khoắt. Lại đi làm chiến dịch xoá nạn mù chữ, xuống tận các thuyền đò trên sông, lên tận các miền núi non. Học viên thì bị bắt buộc, cả ngày đã lao động quá mệt, đêm về uể oải, buồn ngủ không muốn học, không muốn nghe. Mình “mất dạy” nên có thì giờ, chạy đến nhà quen, vét mua áo quần cũ bán ra miền Bắc. Mua một, lời hai ba. Người ta nhát gan, không dám ra chợ trời bán, sợ bị bắt, mình đến tận nhà, dù chúng nó biết là mua bán, cũng không tịch thu hoặc kết tội được. Cái xứ gì mà mua bán là “mất đạo đức cách mạng”. Đi ăn cướp, thì là có đạo đức cách mạng chắc?”
Hoàng lo lắng: “Em ăn nói nên giữ lời một chút, kẻo mang hoạ vô thân.”
Thu đáp: “Em biết chứ, bà Long ở cạnh nhà mình đó, bị tịch thu nhà, và bắt đi tù cải tạo, chỉ vì nói câu: “Đói rách vĩ đại”. Chúng nó kiêng, cho rằng chữ ‘vĩ đại’ chỉ để dùng riêng cho ông Bác của chúng thôi. Hai năm trước người ta đồn rằng, có thằng học sinh 15 tuổi, bị bắn chết, vì hắn dám kêu là ‘lão Hồ’. Chúng nó là một lũ điên, mù quáng, thờ phượng quỷ sứ.”
Hoàng can: “Thôi thôi em ơi. Nói cho đã miệng, rồi mang họa vào thân, khổ lắm.”
Mắt Thu long lên: “Nếu tất cả mọi người đều đủ can đảm nói lên đúng sự thật, không nói dối, và biết xấu hổ khi nói lời hoang tưởng về xã hội chủ nghĩa, lại không nghĩ một đường, nói một nẻo, thì bọn chúng hết đất sống. Anh xem, xưa nay trong lịch sử Việt Nam, từ thời bị Tàu cai trị, bị Tây đô hộ, có bao giờ dân tình bị khốn khổ, áp bức, hăm dọa, khủng bố, kềm kẹp như bây giờ không?”
Nghe vợ nói, mà Hoàng sợ lạnh cả xương sống. Anh biết mình hèn nhát. Đã không dám làm, mà cũng không dám nói. Anh thầm phục vợ. Đúng, nếu tất cả mọi người đều không sợ, thì chúng nó hố to
Cái xóm cũ ngày xưa vui vẻ sống động, bây giờ tiêu điều buồn bã. Bọn con trai ngày trước, chỉ còn lác đác vài mạng. Gặp nhau cũng không dám chuyện trò nhiều, chào nhau lạt lẽo, không dám tin, và e dè nhau. Phần bọn con gái thì vẫn còn khá đông, đứa nào cũng xất bất xang bang, đói vàng mắt, chạy gạo nuôi con, nuôi chồng trong tù.
Con Hiền thì ôm con từ cao nguyên về, chồng đi tù, che tấm ni-lông trước hiên nhà bố mẹ chồng, mấy mẹ con chui rúc trong đó. Những đêm đông mưa dầm gió tạt, rét mướt, mấy mẹ con ngồi ôm nhau cho đến sáng. Cả đám rách rưới như tổ đỉa. Mùa đông, lâu lâu thấy Hiền mặc quần ướt, vì chỉ còn một cái, giặt ban đêm phơi chưa khô. Ba đứa con còn nhỏ, Hiền ngược xuôi tất tả, nó như con chim tha mồi về cho đàn con đói. Hiền kể rằng, nhiều đêm chưa kiếm gì được cho con ăn, nó về rất khuya, con nằm đói lả, nó cũng chưa có chút gì vào miệng, bụng cũng đói meo, nằm ôm con mà nước mắt dầm dề. Hiền có hiềm khích với gia đình chồng, và tự ái, không muốn van xin. Ông bà nhạc gia giận hắn hỗn láo, và có lẽ ông bà cũng đang đói, không giúp đỡ được gì cho lũ cháu nội. Có khi đói quá, nửa đêm, nó gào lớn, kêu tên ông bà nhạc gia ra mà bêu rếu: “Ông bà Trang ơi, cháu nội ông bà đang chết đói đây. Ông bà ăn lấy một mình, lòng dạ nào mà nhìn lũ cháu nội chết đói đây! ” Bên trong, ông Trang ghé miệng qua song cửa “Suỵt! suỵt! Mi có câm cái miệng lại không? Tau ra đánh cho chết cả đám bây chừ! ” Nó thách đố ông, gào to thêm giữa đêm khuya vắng. Ông bà xấu hổ với xóm làng, im lặng chịu thua.
Anh Phú ngày xưa ghét và chống Mỹ, chạy vô bưng. Bây giờ về lại Huế, miệng thì vẫn ca ngợi cách mạng, hoan hô Bác Đảng, nhưng mặt thì buồn tênh, tái mét. Anh cũng đói. ‘Cách mạng’ cũng chỉ cho phong cho anh cái chức vụ quèn, chạy cờ, vô thưởng vô phạt. Họ còn nghi ngờ anh được Mỹ Ngụy gài vào bưng nữa.
Một buổi sáng Hoàng gặp Lê là bạn cũ, Lê cho biết mấy năm nay không cho lũ con đến trường nữa, vì không muốn chúng học những điều gian dối, láo khoét, học căm thù, học nhỏ nhen ti tiện. Không đi học, thì chúng khỏi tiêm nhiễm những hư hỏng, xấu xa của bọn người rừng thượng cổ đó. Phần Lê, thì giả vờ nửa tỉnh nửa điên, ngày ngày đứng trước cửa nhà chửi đổng, kêu ‘chú’ ông Trời ra mà thoá mạ, cũng còn kiêng kỵ, chưa dám kêu ‘bác’ ông trời, sợ chúng quy chụp phạm húy.
Hoàng hỏi thăm anh Thiên, người anh lớn của Lê, trước đây là thiếu tá Thủy Quân Lục Chiến, mới biết anh đã cùng đồng đội ngồi quanh, rút chốt lựu đạn tự sát tập thể trong cuộc lui quân hỗn loạn vì lệnh lạc bất nhất ngày đó.
Thằng Tiến, bạn cùng lớp với Hoàng ngày xưa, nó hiền như con gái, có ông bố vợ đi tập kết ra Bắc từ 1954 trở về. Ông nắm giữ một chức vụ quan trọng gì đó trong ‘thành ủy’ Bình Trị Thiên. Ông đã nhờ đồng chí ngụy tạo cho anh con rể một giấy chứng nhận, là ‘cơ sở’ tức ‘cách mạng’ nằm vùng. Tiến được cất nhắc lên làm giám đốc một công ty sản xuất. Nhờ đó, mà Tiến ôm hết tiền bạc của công ty nhà nước, mua thuyền vượt biên cùng với gia đình hai cô em vợ. Ông bố vợ bị kiểm điểm, mất chức, nhưng ông không buồn. Khi nào người ta cũng thấy ông cười cười như đang có chuyện gì vui. Thiên hạ xì xào ông đã ‘hy sinh đời bố, củng cố đời con’
Một hôm, vợ Hoàng thầm thì: “Không lẽ mình chịu sống mãi cuộc đời áp bức đen tối không thấy ánh tương lai nầy sao? Phải làm cái gì chứ! Anh biết không, chị Hương có gặp anh Phong trên xe lửa. Anh ấy bảo là đang cùng bạn bè chiến đấu ‘phục quốc’ ở rừng Tây nguyên. Anh đang đi chiêu mộ bạn bè đồng chí hướng. Trước đây, bằng lòng buông súng đầu hàng, vì nghĩ mấy mươi năm chiến tranh, dân chúng đã khổ lắm rồi, hy vọng thanh bình, dù cho chế độ nào, nhân dân cũng sẽ đỡ khổ hơn. Nhưng không ngờ, hết chiến tranh, còn đói khổ hơn gấp nhiều lần. Chúng cai trị hà khắc, xía vào từng đời sống riêng tư, muốn kiểm soát chặt chẽ cả tư tưởng, ý nghĩ, sinh hoạt thường ngày. Chính họ đã bắt buộc chúng ta cầm súng đứng dậy, để cởi ách nô lệ nầy. Anh có muốn tham gia không, em bằng lòng để anh đi.”
Nghe mà Hoàng sợ lạnh cả người, và thấy xấu hổ với vợ. Hoàng ấp úng: “Anh sợ quá! Trước đây, chúng ta có cả triệu tinh binh, mà chỉ vì Mỹ thôi viện trợ, hết đạn dược, nên đành chịu thua. Bọn chúng, có cả mấy chục nước trong khối cộng sản tiếp tế, viện trợ không ngưng nghỉ. Chúng ta lấy gì mà chống lại?”
Thu nghiêm mặt: “Lấy gì để chống lại? Chúng ta lấy lòng dân để giành lại đời sống tự do. Trước đây, nhân dân cả hai miền Nam Bắc đều bị chúng lừa bịp ngon ơ. Dân Nam thì chưa hiểu rõ cộng sản là cái quái gì, dân Bắc thì bị nhồi nhét tuyên truyền dối trá. Nay mọi người đều hiểu biết, biết rõ. Lòng dân là ý trời. Nếu có kẻ anh hùng dựng cờ lên tiếng, thì muôn người sẽ về theo như sóng dậy. Lịch sử đã chứng minh từ xưa đến nay, khắp Âu, Á, khi bị bạo quyền cai trị, thì ban đầu, cũng chỉ năm ba người dựng cờ khởi nghĩa, mà đi đến thành công.”
Buổi nói chuyện với vợ hôm đó, làm Hoàng vừa lo nghĩ, vừa sợ hãi, vừa phấn khởi, vừa xấu hổ cho bản thân, những tình cảm đối nghịch nầy làm anh phát bệnh, sụm luôn mấy ngày.
Thu biết chồng không có đủ can đảm và dũng khí để làm đại sự. Cô thúc dục Hoàng: “Nếu không làm được gì cho đất nước, thì phải làm cho riêng mình, cho gia đình. Sống trong chế độ nầy, con người trở thành hèn nhát, nhỏ nhen, ti tiện, dối trá. Phải tìm đường thoát. Không còn lối nào khác.”
Sáu tháng sau, Hoàng xin giấy phép của công an, đưa vợ con về vùng kinh tế mới Cà Mau. Rồi leo lên thuyền ra khơi đi tìm tự do. Khi thuyền bị chết máy, lênh đênh trên biển nhiều ngày. Đói, khát, hết hy vọng sống sót, nhưng Thu vẫn cương quyết nói: “Thà chết trên đường đi tìm tự do, còn hơn là sống với bọn gian ác khốn cùng đó.”
Khi được định cư trên quê người, trong hai mươi mấy năm liên tiếp, Thu đã chắt chiu từng đồng, mua quà gởi về, chia xẻ cho các bạn bè cũ trong xóm, mua gạo cho con cái họ đỡ đói trong thời buổi điên khùng đó.
Tháng 5 năm 2015, kỷ niệm bốn mươi năm đau buồn ‘mất nước’, các cô bạn ngày xưa trong xóm cũ nội thành, nay đều đã thành ‘mệ’, họp nhau tại quận Cam để chung vui hàn huyên. Các bà nầy đa số đi theo chồng qua Mỹ theo chương trình tù nhân chiến tranh, một số khác đã vượt biển, một số nhỏ, được gia đình bảo lãnh. Bà nào cũng con cháu đầy đàn. Nhắc lại thời xưa, mà bà nào cũng nước mắt còn rưng rưng. /.
Gửi: Sun Feb 09, 2025 7:28 pm Tiêu đề: Chồng Nam Vợ Bắc
Chồng Nam Vợ Bắc
Mai Hữu Th chọn ảnh minh họa
Chồng Nam Vợ Bắc
(Phú Lan sưu tầm)
Tôi lấy vacation nghỉ ở nhà 3 ngày để dưỡng sức vì bị cảm từ mấy ngày trước. Ba ngày ở nhà tôi tha hồ ngủ muộn dậy trễ và lên net vui chơi với bạn bè. Có nhóm bạn bè cùng lớp thời trung học là thân nhất, chúng tôi gặp nhau hàng ngày, ngoài thông tin liên hệ tới trường cũ bạn xưa nếu có, hầu hết chúng tôi hỏi thăm nhau, kể chuyện mình, chuyện đời và vui đùa qua lại. Thời buổi thông tin điện tử vừa nhanh vừa tiện lợi.
Sáng hôm nay chúng tôi có đề tài “Kiếp sau tôi sẽ thay chồng, đổi vợ không?” nhiều bạn hăng hái trả lời sẽ lấy chồng khác, vợ khác để... thay đổi không khí, bạn Nguyễn Trung Trực đã xuất thần làm ngay 2 câu thơ dù cả đời chẳng làm thơ bao giờ:
“Một kiếp đã oải lắm rồi,
Lấy thêm kiếp nữa đời tôi còn gì?”
Và một bạn khác cũng đồng tình:
“ Một kiếp đã chán thấy bà,
Lấy thêm kiếp nữa chắc là tiêu luôn”
Nhưng vài người quyết chí kiếp sau sẽ lấy lại người phối ngẫu hiện tại của mình. Tôi cũng thế, sẽ lấy lại người chồng Nam Kỳ hiền lành đã dám kết duyên cùng tôi cô em Bắc Kỳ chanh chua đanh đá.
Ngày xưa anh Bông quen tôi đúng là duyên kỳ ngộ, không tìm nhau mà gặp nhau. Anh hay đến thăm một người bạn ở cùng xóm tôi, lần nào anh cũng gặp tôi đang ngồi ăn bún riêu xì xụp ở đầu con hẻm. Nhờ tật ăn hàng thường xuyên ấy mà anh nhớ mặt tôi và tò mò làm quen. Khi đã quen nhau anh chọc quê tôi:
- Xóm này có nhiều con hẻm giống nhau, nhưng nhờ có em ngồi ăn bún riêu nên anh biết chắc mình không lộn.
Tôi đã bẻn lẻn và chọc lại anh:
- Tại em thích ăn bún riêu cua với rau kinh giới, nên thành ghiền luôn. Hôm nào em nghỉ ăn bún riêu cho anh đi lạc sang ngõ hẻm khác cho biết thân..
Quê anh Bông ở Cần Thơ gạo trắng nước trong, ruộng vườn bát ngát, cây trái xum xuê, anh là công tử miệt vườn của xứ Tây Đô.
Mẹ tôi không tán thành cho tôi kết duyên với anh, bà thành kiến với trai miền Nam, chỉ thích ăn nhậu, sinh ra đánh vợ đánh con và nhất là tiêu xài hoang phí, không biết phòng xa cho tương lai, lấy nó thì đời con nghèo mạt rệp, hạnh phúc chẳng dài lâu. Thà tôi lấy người miền Trung, xứ khô cằn sỏi đá nhưng sản xuất ra nhiều nhân tài, chịu thương chịu khó làm ăn và căn cơ tằn tiện... cao tay hơn cả dân miền Bắc thì bà yên chí đời tôi ấm no, hay tôi lấy đồng hương miền Bắc thì tốt nhất vì giống nhau mọi thứ, sẽ thông cảm nhau.
Nhưng mẹ tôi đâu biết rằng tôi đã “kết” anh Bông rồi, nghe anh tả vườn trái cây nhà anh tôi đã mê tơi, chỉ mong được về quê anh trèo hái trái cây và ăn cho thỏa thích, những trái mận, trái soài ngọt lịm ngon lành, mà dù có chua thì chấm muối ớt cũng ngon luôn.. Còn chuyện tính tình thì tùy từng người, chứ đâu phải trai miền Nam nào cũng hư như mẹ tôi nghĩ.
Tôi đã hứa với mẹ:
- Mẹ yên tâm, anh ấy là dân Cần Thơ hay bất cứ vùng Nam Kỳ Lục tỉnh nào, hay dân miệt vườn Nam bộ Hốc Môn Bà Điểm 18 thôn vườn trầu đi chăng nữa mà vào tay con, con sẽ huấn luyện thành Bắc Kỳ nhà mình ngay.
Cuối cùng mẹ tôi cũng phải đồng ý, bà lo âu dặn dò:
- Vậy con phải học làm ruộng, làm vườn mà gánh vác giang sơn nhà chồng.
Tôi yêu vườn ruộng nhà anh, tôi yêu anh, dù trước đó những đồng hương Cần Thơ của anh đã lừa đảo tôi hai cú thật đẹp..
Sau năm 1975 có lần mẹ tôi sai tôi đi Cần Thơ thăm một gia đình họ hàng làm ăn ở đó. Khi về tôi có ghé chợ tại bến Ninh Kiều để mua trái cây về Sài Gòn làm qùa. Tôi đã chọn lựa kỹ từng qủa soài, một chục soài 14 qủa, (người miền Nam hào phóng thế đấy, đã gọi là “một chục” đáng lẽ ra là 10 mà thành 14) Bà bán hàng để vào túi giấy ngay trước mắt tôi. Vậy mà bà phù phép sao đó về nhà đếm lại chỉ có 12 qủa mà lại có mấy qủa soài hư. Tôi vừa tức giận vừa... kinh ngạc bái phục bà bán hàng soài sát đất. Hay là bà đã tốt nghiệp nghề ảo thuật trước khi ra chợ bán hàng?
Chưa hết, khi ra bến xe đò về Saì Gòn, thấy phòng bán vé đông nghẹt người, tôi biết sức mình không chen lấn nổi với người ta, đành tìm mua vé chợ đen, thì có một anh lơ xe túm áo tôi mời mọc lên xe với gía cả đắt gấp đôi gía chính thức. Tôi đồng ý miễn là khỏi bon chen và được về sớm, anh hướng dẫn tôi lên xe ngồi xong đòi tôi trả tiền để anh còn chạy đi kiếm thêm những khách khác cho mau đủ chuyến.
Tôi trả tiền và thong thả ngồi ngắm thiên hạ đang lu bu ngoài bến xe mà thương cho họ, thà chịu hi sinh tốn thêm tiền như tôi cho khỏe tấm thân.
Khi hành khách đã đầy và xe bắt đầu chạy thì một anh lơ xe khác đến thu tiền từng người. Tô mới giật mình biết mình đã bị lừa, anh lơ xe lúc nãy là tên lưu manh lường gạt nào đó, anh lơ xe này mới là thật. Thế là tôi lại phải trả tiền xe gía chợ đen thêm một lần nữa.
Mẹ tôi qúa lo xa, vì vợ chồng tôi sống ở Sài Gòn, tôi không phải làm ruộng làm vườn, nhưng quản lý một anh chồng Nam Kỳ theo... truyền thống Bắc Kỳ nhà mình, theo đúng ý mình cũng vất vả lắm.
Mẹ tôi nói linh qúa, anh Bông vừa ăn xài rộng rãi vừa thích nhậu nhẹt lu bù.
Mới lấy nhau tôi đã thấy làn ranh Nam Bắc ngay trong nhà mình, trong cách ăn uống, cách suy nghĩ và trong từng lời ăn tiếng nói của hai vợ chồng. Bố mẹ tôi người Bắc, di cư vào Nam lại sống trong khu xóm toàn người Bắc, nên tôi vẫn nguyên vẹn là con gái Bắc cả từ ăn nói đến cách sống ở đời.
Bài học vỡ lòng tôi dậy anh là dẫn anh vào bếp chỉ từng món một:
- Anh ơi, đây là cái “ bát” và cái “thìa”, anh đừng gọi là cái “chén” và cái “muỗng” nữa nhé.
Anh nhanh nhẩu:
- Biết rồi, còn cái “gía” múc canh kia kêu là cái “môi” chứ gì?
Tôi không hài lòng:
- Đấy, sao anh lại nói tiếng Nam “kêu là” phải “gọi là” như tiếng Bắc em chứ. Em đã nói rồi, hai vợ chồng sống chung cả đời với nhau dưới một mái nhà thì phải cùng một thứ ngôn ngữ cho đồng điệu mà, đơn giản chỉ vì thế thôi, chứ em không ghét bỏ gì tiếng miền Nam của anh đâu. Nhưng dù sao tiếng miền Bắc cũng... dễ thương hơn, thí dụ chiếc thuyền còn được đưa vào thơ vào nhạc, “thuyền tình” chứ ai nói “ghe tình” bao giờ. “Đi về” mà anh nói “Đi dìa” hay “tấm màn cửa” anh nói “tấm màng cửa” là sai lỗi chính tả đấy.
Anh Bông khiêm nhường chịu thua:
- Anh đồng ý là anh và em sẽ xài chung, à quên... sẽ dùng chung tiếng Bắc cho hoà hợp như tình yêu của chúng mình đã hòa hợp, cho dù em có thiên vị tiếng Bắc của em rõ ràng.
Ngoài việc dậy tiếng Bắc cho chồng, tôi còn sửa đổi anh bản tính ăn tiêu phong lưu, rộng rãi như đa số những người miền Nam sinh ra ở nơi chốn vốn được đất trời ưu đãi, ruộng vườn tươi tốt, nhiều sông rạch, nhiều cá nhiều tôm, huống chi anh lại là con nhà giàu được cha mẹ cưng chiều từ nhỏ.
Dần dần công tử Tây Đô của tôi cũng đã dùng quen nhiều từ miền Bắc và ăn được những món Bắc, tôi khỏi phải làm thực đơn phân loại hai miền Bắc Nam như hồi mới lấy nhau nữa.
Cái màn “cai rượu” cho anh mới là khó. Ban đầu tôi ra chỉ thị:
- Anh chỉ được phép uống rượu bia khi xã giao thôi nhé. Em không thích đàn ông có mùi rượu đâu.
Rồi tôi lườm, tôi nguýt mỗi khi thấy anh uống rượu, nên anh cũng giảm được đôi chút. Để nhắc nhở chồng, tôi dán một tờ giấy với hàng chữ viết to bằng mực đỏ: “ Uống rượu vợ bớt yêu”, nhưng anh vẫn chứng nào tật nấy.
Tôi tăng cường thêm một khẩu hiệu khác mạnh mẽ hơn: “ Uống rượu sẽ mất vợ”
Lần này anh Bông tức tốc hỏi tôi ngay:
- Em sẽ bỏ anh hả?
- Không bao giờ, em vẫn yêu anh suốt đời. Anh bỏ em thì có, vì nếu anh không nghe em bỏ rượu thì một ngày nào đó anh say xỉn không trúng gío ở ngoài quán hay lề đường chết bất tử thì cũng sơ gan, ung thư gan mà chết sớm, em sẽ ôm trọn gia tài anh để lại và đi lấy chồng khác ráng chịu.
Thế là anh Bông bớt rượu và bỏ rượu hẳn. Không biết vì anh sợ mất vợ hay sợ mất gia tài?
Khi gia đình tôi được bảo lãnh sang định cư ở Mỹ, dòng máu Nam kỳ xả láng của anh Bông lại ngóc dậy, từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ.
Anh đi shopping trong mall mua quần áo, đồ dùng toàn là đồ hiệu đắt tiền, còn đi làm anh cũng lười không muốn mang gỉo đồ ăn theo, sáng sớm anh ghé tiệm mua điểm tâm cà phê trước khi vào hãng, trưa thì anh chạy xe ra ăn ngoài v..v...
Một lần nữa tôi lại phải uốn nắn, sửa đổi cho anh. Tôi ra kế hoạch:
- Anh ơi, mình phải sống tiết kiệm để dành tiền mua nhà.
Anh cằn nhằn:
- Mới xong kế hoạch mua xe bây giờ đến mua nhà...
Tôi kế hoạch tiếp:
- Còn nữa, xong mua nhà tới để dành tiền cho hai con vào đại học.
Anh thảng thốt đến nỗi quên phéng tiếng miền Bắc của vợ, mà xổ nguyên một câu miền Nam quen thuộc:
- Trời đất qủy thần thiên địa ơi, hết kế hoạch này tới kế hoạch kia, em giống cộng sản Việt Nam y chang hà, lúc nào cũng chỉ tiêu và kế hoạch làm cho dân tình lầm than. Lấy vợ Bắc Kỳ cứ tưởng mãi mãi là cô em Bắc Kỳ dễ thương, ai dè em lo xa, tằn tiện, bóc lột đời anh không ngừng nghỉ.
Đợi anh nguôi ngoai cơn “sốc” tôi “khiếu nại” anh đã dùng tiếng miền Nam, là đi sai đường hướng thuận hòa của hai vợ chồng, và anh đã phải học thuộc câu thảng thốt bằng tiếng miền Bắc là: “Ối giời cao đất dầy ôi” thay vì “ Trời đất qủy thần thiên địa ơi”.
Anh hứa lần sau nếu đụng chuyện anh sẽ xử dụng câu này.
Đấy, anh chồng Nam kỳ của tôi hiền lành và dễ bảo như thế, kiếp sau tôi không lấy anh thì cũng phí. Chỉ lo là kiếp sau anh Bông... có chịu lấy tôi nữa hay không mà thôi.
*
Buổi trưa tôi lại vào email của nhóm bạn học, lần này đọc được hai hung tin một lúc.
Một người bạn bên Việt Nam mới bị đụng xe chết tốt, và một người bạn ở Mỹ thì bị stroke đang nằm hôn mê trong bệnh viện.
Chúng tôi nhào nháo hỏi thăm nhau những tin tức liên quan đến hai người bạn đồng môn bất hạnh này và bàn xa tán gần đến cuộc sống vô thường ngắn ngủi, chẳng biết sống chết lúc nào.
Người nọ khuyên người kia hãy lo hưởng thụ cuộc đời, của cải vật chất chỉ là bọt bèo, hãy thương yêu vợ, chồng mình thêm nữa. Ai cũng biết thế, nhưng cuộc sống luôn có những điều để người ta phải lo toan, tính toán.
Hôm nọ tôi mới bị cảm mà đã thấy mệt mỏi chán đời. Lúc ấy tiền bạc, món ăn ngon, niềm vui thú nào cũng đều vô nghĩa. Vậy tại sao tôi không hưởng những thứ ấy khi đang khỏe mạnh, yêu đời.
Tôi nhớ mãi câu chồng tôi đã thảng thốt kêu lên “ Trời đất qủy thần thiên địa ơi” suốt nhiều năm nay, bỗng thấy ân hận và thương anh Bông qúa. Hai con đã học đại học xong rồi, tôi lại đề ra chỉ tiêu chắt chiu để dành tiền mai mốt... cho cháu nội cháu ngoại. Lo toan như tôi thì kéo dài đến cả kiếp sau cũng chưa hết.
Hôm nay tôi sẽ thay đổi chính mình, một cuộc thay đổi quy mô và bất ngờ cho chồng tôi ngạc nhiên và sung sướng.
Ngay chiều nay tôi sẽ không thèm nấu cơm, chốc anh đi làm về tôi sẽ rủ anh đi nhà hàng, chiêu đãi anh những món ngon và đắt tiền nhất để đánh dấu một cách sống khác, một bước ngoặt trên con đường đời của một đôi vợ chồng hạnh phúc.
Anh vừa bước chân vào cửa tôi đã hớn hở xông ra ôm chầm lấy anh, nũng nịu:
- Welcome anh đã đi làm “dìa”.
Anh Bông ngạc nhiên chất vấn và chỉnh tôi:
- Sao em lại nói tiếng miền Nam sai lỗi chính tả thế? Ừ, anh đã đi làm về.
Tôi dịu dàng hơn bao giờ:
- Hôm nay em thích tiếng miền Nam của anh mà. Em biết là tiếng miền nào cũng có cái dễ thương của nó, ngay cả tiếng miền Trung nặng nề khó nghe, khó hiểu.
- Nhưng sao em lại welcome anh? Em lịch sự bất ngờ thế? một ngày anh đi làm về như mọi ngày.
Tôi nghiêm chỉnh nói:
- Em chờ anh về để thông báo một tin rất vui là bắt đầu từ hôm nay trở đi chúng ta sẽ chi tiêu thoải mái, không phải hà tiện để dành tiền theo bất cứ kế hoạch nào nữa. Nhân dịp em vừa nghe tin hai người bạn gặp nạn, em sợ cuộc đời bất trắc, kiếp người còn phù du nói chi là tiền bạc. Chúng ta hãy vui hưởng cuộc sống ngay khi còn khỏe mạnh anh ạ, nhà cửa, xe cộ trả hết sạch sẽ rồi, tiền bạc trong 401K và trong bank của hai vợ chồng mình khá nhiều vì dành dụm suốt nhiều năm nay. Chúng ta sẽ mua xe đẹp, loại đắt tiền, sẽ sắm quần áo xịn, sẽ đi du lịch đó đây mỗi năm, và chốc nữa đây vợ chồng mình sẽ đi ăn tiệm anh nhé. Mai sau về gìa chúng mình đều có tiền retire, lo gì.
Nói xong tôi nhìn anh với vẻ ban ơn huệ, như một cai tù độ lượng vừa phóng thích cho một tù nhân mang án tù vô hạn định, tưởng anh sẽ mừng vui và hét lên thỏa thích khi được trở về bản chất Nam Kỳ của chính mình vì bao nhiêu năm nay anh đã sống theo cách sống Bắc Kỳ của tôi, theo sự quản lý của tôi. Nhưng tôi kinh ngạc qúa, anh thảng thốt lên một tràng với những từ miền Bắc rất chuẩn:
- Ối giời cao đất dầy ôi, em đang tỉnh hay mê? sao em liều và to gan thế? Sao bỗng dưng em rửng mỡ đòi tiêu xài hoang phí thế? Khi mà trước đây anh tiêu xài hoang phí em đã điên tiết lên cấm cản anh. Em có biết là nước Mỹ đang nợ ngập đầu ngập cổ không? ngân sách chính phủ Mỹ càng ngày càng eo hẹp, đang phải cắt xén bớt tiền phúc lợi của người gìa, người về hưu không? Người ta còn tiên đoán rằng chẳng bao lâu nữa chính phủ sẽ không có đủ tiền trả cho những người hưu trí nữa đấy. Nên dù chúng ta không phải lo cho con cái nữa, nhưng vẫn phải sống căn cơ, dành dụm tiền để sau này về gìa có mà chi tiêu, ở Mỹ điều kiện khoa học, y tế cao chúng ta sẽ sống lâu, sống thọ lắm. Không ai thương mình bằng chính mình đâu em.
Thì ra suốt mấy chục năm sống bên nhau, bây giờ anh đã lo xa, tính toán hơn cả dân Bắc Kỳ thứ thật là tôi đang đứng trước mặt anh. Mẹ tôi ở dưới suối vàng chắc cũng đang mỉm cười mãn nguyện?
Tôi còn đang ngẩn ngơ không ngờ người chồng Nam Kỳ của tôi đã bị tôi Bắc Kỳ hóa nhuần nhuyễn đến thế thì anh ân cần và rất rành rẽ nói:
- Em ra nấu cơm đi trong lúc anh tắm rửa thay quần áo. Hôm qua món cà pháo om với bì lợn, với đậu phụ rắc tía tô anh thích lắm, ăn được mấy bát cơm. Hôm nay em làm món cá rán và món nộm rau muống trộn với thịt ba chỉ, tôm, khế, rau răm và vừng em nhé. Việc gì đi ăn nhà hàng cho tốn tiền và làm sao có món Bắc Kỳ ngon như của em cơ chứ.
Nhà điêu khắc đại tài Michelangelo vừa hoàn tất một bức tượng.
Nhà vua đến xem gật gù nói: “Ta thấy bức tượng này rất đẹp nhưng chưa hoàn hảo. Nên sửa vài chi tiết chỗ này, chỗ này...! ”
Michelangelo liền sai các phụ tá bắc thang trèo lên bức tượng, cầm búa đục gõ leng keng. Nhưng ông dặn tuyệt đối không đục đẽo gì thêm vào bức tượng, không cần sửa gì cả, bức tượng đã hoàn tất rồi.
Sau một hồi, các phụ tá leo xuống. Nhà vua tiến lại gần ngắm nghía bức tượng và nói: "Thấy chưa Michel, bây giờ thì nó đã là một tác phẩm tuyệt mỹ."
Nhà vua đi khỏi, Michel nói với các phụ tá: "Bức tượng đã hoàn hảo, cái chúng ta vừa làm chỉ là thỏa mãn cái ẩn ức của nhà vua thôi"...
Tóm lại: "Đừng cãi với người ngu khi họ đang nắm quyền! “
Gửi: Thu Mar 20, 2025 9:04 pm Tiêu đề: Chuyện dài chiếc radio tại Việt Nam
Chuyện dài chiếc radio tại Việt Nam
Ảnh minh họa
Chuyện dài chiếc radio tại Việt Nam
(Phú Lan sưu tầm)
Ngày còn bé tôi vẫn thầm tự hỏi tại sao con người có thể thu nhỏ để chui vào trong một chiếc hộp nhỏ xíu, để từ đó phát ra đủ thứ âm thanh mà mọi người (từ ông già bà cả cho đến trẻ ranh như tôi) phải nghe một cách chăm chú đến như vậy?
Không phải chỉ có một người mà có đến rất đông người chờ sẵn trong đó. Chỉ cần chờ một động tác là họ thay nhau thay đổi từ ca hát cho đến nói chuyện bao gồm cả đàn ông lẫn đàn bà, một cách bí ẩn.
Lớn hơn chút nữa tôi mới khám phá cái hộp đó chính là chiếc “radio” chạy bằng đèn điện nhỏ có cái tên Philips. Nhỏ xíu nhưng lại rất huyền diệu, lúc nào cũng chờ người trong nhà bật lên để nghe những gì mình thích... Từ ca nhạc giải trí cho đến tin tức thời sự khắp mọi nơi!
Mẹ tôi thích nghe cải lương, mấy anh chị lớn lại chuộng ca nhạc còn bố tôi lại bật những chương trình tin tức, phóng sự để theo dõi tình hình trong nước và cả thế giới. Radio ngày xưa là phương tiện giải trí duy nhất của gia đình. Không như ngày nay còn có TV, mạng internet... phục vụ mọi sở thích của con người.
Tôi vốn thích đá banh cho nên hôm nào có chương trình “trực tiếp truyền thanh” trận cầu quốc gia hay quốc tế là đứng thật gần (thiếu điều là “ngửi” radio... thay vì nghe) những lời tường thuật của phóng viên trên sân cỏ.
Ảnh minh họa
Huyền Vũ là phóng viên túc cầu có một không hai của Đài phát thanh Sài Gòn ngày ấy! Trong suốt 25 năm, ông là một ký giả thể thao lão thành mà hàng triệu người say mê bóng đá mến mộ qua làn sóng điện.
Ngoài giọng nói thiên phú, ông còn có một kiến thức sâu rộng về chiến thuật, kỹ thuật bóng đá. Thêm vào đó là những tên của cầu thủ (Việt Nam cũng như nước ngoài) ông thuộc làu làu. Cũng vì thế một số khán giả trên sân còn mang theo chiếc “radio transistor” để vừa nghe, vừa xem tường thuật của Huyền Vũ.
Những câu tường thuật “lịch sử” của Huyền Vũ như “bàn thắng trong đường tơ kẽ tóc”, “cú đá sút sấm sét”, “trái banh vượt sà ngang trong gang tấc”... thậm chí còn có những câu tả cảnh rất đời thường như “màng lưới của hai bên vẫn còn... trinh bạch”!
Về ca nhạc kịch, Đài phát thanh Sài Gòn có ban kịch Dân Nam do Anh Lân sáng lập và điều hành ; sau đó là một loạt các ban kịch của những nghệ sĩ nổi tiếng như Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng, Túy Hoa, Kiều Hạnh, Bích Sơn, Mỹ Chi, Tú Trinh... Ngoài ra còn có ban Việt Nhi của nhạc sĩ Nguyễn Đức chuyên giới thiệu các giọng ca học trò.
Chương trình “Phát thanh thương mại” chuyên phát nhạc boléro xen kẽ với quảng cáo thuốc bổ Activit, kem đánh răng Hynos và xe máy Suzuki... xuất hiện trên Đài Sài Gòn. Ngoài ra còn có chương trình “Trả lời thính giả” cung cấp nhiều kiến thức và “Giờ của bạn trẻ”, một dạng tạp chí văn nghệ truyền thanh với thời lượng 60 phút, phát vào mỗi chiều chủ nhật.
Đài phát thanh Quân đội, mục đích chính là phục vụ quân nhân cũng chiếm được cảm tình của những người lính xa nhà nhưng lúc nào cũng hướng về hậu phương. Nổi bật nhất là phát thanh viên Dạ Lan hằng đêm thủ thỉ với các chiến sĩ nơi tiền đồn heo hút.
Hồi diễn ra “Pháp nạn 1963”, quần chúng Phật tử đã biểu tình trước đài phát thanh Huế yêu cầu phát lại chương trình lễ Phật đản. Ba năm sau, đài phát thanh Đà Nẵng do phong trào đấu tranh ly khai với chính quyền đã chiếm giữ và điều hành gần ba tháng mới bị quân đội tái chiếm.
Trong chiến dịch Xuân Mậu Thân 1968, Đài phát thanh Sài Gòn là một mục tiêu tấn công dẫn đến hy sinh, tổn thất của rất nhiều sinh mạng. Vào trưa ngày 30 Tháng Tư 1975 Trịnh Công Sơn cũng đã đến đây kêu gọi đoàn kết, hòa giải rồi hát bài “Nối vòng tay lớn”.
Miền Bắc có Đài Hà Nội và Đài Giải Phóng để phục vụ mục đích chiến tranh. Thính giả nghe đọc truyện “Sống như anh” của Trần Đình Vân, và thú vị nhất là nghe đọc những bài báo viết từ nội thành Sài Gòn của Nguyễn Ngọc Lan, Lý Chánh Trung hay thơ của Đông Trình, Nguyễn Quốc Thái...
“Radio” nghe có vẻ xa lạ đối với người Miền Bắc hơn từ “đài” thường được dùng trong cuộc sống hàng ngày. “Đài” đã trở thành một phương tiện truyền thông quen thuộc đối với người dân Miền Bắc phải trải qua thời chiến tranh... “vì Miền Nam ruột thịt”.
Không chỉ có vậy, giữa những chiếc đài với nhau còn là sự phân chia đẳng cấp trong xã hội. Thời đó, việc nhận được một chiếc đài do Nhà nước phân phát sẽ phụ thuộc vào chức vụ đang giữ, anh chức to thì được đài to và tốt hơn còn chức nhỏ thì được đài nhỏ và chất lượng không tốt bằng.
Do điều kiện kinh tế của Miền Bắc còn khó khăn nên nhà nào có được một chiếc đài là đã thuộc thành phần khá giả. Chiếc đài nghiễm nhiên trở thành một vật để phân biệt giàu nghèo. Trên “giấy chứng nhận sở hữu một chiếc đài” còn có thêm câu “không nghe đài địch”!
Sau ngày 30/04/1975, một số bộ đội vào Sài Gòn cố tìm cách “săn lùng” ba món hàng ăn khách nhất ở chợ trời là “Đạp, Đổng, Đài”. Ba món được đánh giá là “đỉnh cao” của sự sung túc theo tiêu chuẩn người Miền Bắc.
Xe đạp thì Sài Gòn cũng không hiếm và chạy đầy đường, kiểu cách thì đa dạng không như xe Phượng Hoàng của Trung Quốc vốn lâu nay làm chúa đường phố Hà Nội. Đồng hồ họ thích loại có “cửa sổ” (một cửa sổ thì có ngày, hai cửa sổ thì có cả ngày lẫn thứ).
Đài thì ở Miền Nam hầu như gia đình nào cũng có, nào là Sony, National, Zenith... có đủ cả AM lẫn FM. Lại còn có “radio ấp chiến lược” do Cơ quan Viện trợ Mỹ cung cấp. Tình thế đã thay đổi vì đã “giải phóng” nên nhu cầu nghe radio không còn cần thiết đối với dân Sài Gòn. Cách tốt nhất là đem ra chợ trời bán lấy tiền mua gạo thay bo bo trong bữa cơn hàng ngày.
Tin của Reuters cho biết Tổng thống Mỹ Donald Trump vào ngày 15/03/2025 đã ký sắc lệnh hành pháp yêu cầu cắt giảm hoạt động của 7 cơ quan liên bang, trong đó có Đài Tiếng nói Hoa Kỳ (Voice of America – VOA) và Đài Á châu Tự do (RFA). Sẽ có hơn 1.300 nhân viên của VOA đã bị cho “nghỉ phép” kể từ ngày 21/03.
VOA là dịch vụ truyền thông đối ngoại chính thức của chính phủ Hoa Kỳ thông qua các chương trình sản xuất nội dung số, TV và radio bằng 45 ngôn ngữ trên toàn cầu, được thành lập năm 1942 tại Wahington D.C.
Có điều chính quyền Việt Nam luôn coi RFA và VOA là “thế lực thù địch”, thường phản đối tiếng nói của hai đài này. Việt Nam rất nhiều năm đã cố gắng vận động hành lang để chính phủ Hoa Kỳ thu hẹp, đóng cửa hoặc thay đổi quan điểm của 2 đài này khi nói về các vấn đề ở Việt Nam.
Nhưng vấn đề là hai cơ quan này vẫn một mực duy trì sự tuân thủ theo nguyên tắc trung thực, khách quan khi đưa tin về Việt Nam. Trên trang Facebook của Luật sư Lê Quốc Quân, một nhà hoạt động xã hội nhân quyền đồng thời là nhân vật bất đồng chính kiến với Việt Nam, có một status nửa khôi hài nửa thẳng thắn:
“Có một điều tôi cứ nhớ mãi và muốn viết một lời cám ơn: Đó là Mẹ tôi biết tôi sắp ra khỏi nhà tù và ngồi ở hiên nhà đợi tôi gần một ngày, cho đến khi tiếng nói đầu tiên bà nghe được rằng con mình đã “được tự do” là qua tiếng nói qua Đài Á Châu Tự Do (RFA). Mẹ tôi nói đã khóc khi nghe bản tin đó. Bố tôi thì nghe được nhiều về thời sự đất nước từ hơn 50 năm trước cũng qua Ban Việt ngữ của VOA và BBC”.
BBC (British Broadcasting Corporation), trong thời kỳ cuối của cuộc xung đột Nam-Bắc nhiều người lại có “cảm giác” là cơ quan truyền thông của Anh quốc khi đó đưa tin còn nhanh đến nỗi “Miền Bắc chưa kịp hoàn toàn giải phóng một địa phương nhưng đội quân phóng viên của BBC đến “tiếp thu” rồi! ”
Radio “Ấp chiến lược” do Mỹ cung cấp
Những người đã từng sử dụng “radio ấp chiến lược” cũng vẫn còn nhớ đây là một món quà của Viện trợ Mỹ USAID gửi biếu người Miền Nam như một sự hỗ trợ tinh thần trong cuộc chiến khốc liệt đến nỗi phải vào các ấp chiến lược để tránh bom đạn với những chiếc radio!
Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) là cơ quan có vai trò xúc tác nhằm hỗ trợ thúc đẩy các thành tựu về phát triển trên khắp thế giới. Các hoạt động của USAID hướng tới việc thể hiện sự hào phóng của nhân dân Mỹ cũng như góp phần thúc đẩy hành trình tiến tới tự chủ và bền vững của bên nhận tài trợ.
“Trò chơi chính trị” biến hóa thật khôn lường và câu chuyện về chiếc radio tại Việt Nam cũng không thể nào thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn đó!
Gửi: Fri Apr 04, 2025 12:47 pm Tiêu đề: Vì còn đây...
Vì còn đây…
Mai Hữu Thọ chọn ảnh minh họa
Vì còn đây...
(Phú Lan sưu tầm)
Vũ trường Ruby nổi tiếng nhờ nhiều thứ. Đào trẻ, đẹp, nhảy giỏi, chịu chơi. Ban nhạc sành điệu và một quản lý tuyệt vời. Quản lý thôi mà, chỉ là người làm công, thay mặt chủ mà làm, nhưng khách chơi đa phần tới đây là vì cách tiếp đón của chị. Chị duyên dáng, chị lịch thiệp. Chị nhớ từng tên khách quen và sở thích của họ. Chị chiều rất khéo, nhưng không để họ đi quá xa. Ở cái chốn, thiên hạ đốt tiền cho những cuộc vui. Ở cái nơi, người ta có quyền mua và bán, tất cả những thứ có thể mua bán được, giữ mình không dễ chút nào. Chị cũng bán nhiều thứ, chỉ không bán mình!
<! >
Chị đã từng có một gia đình êm ấm. Chính cái nghề nghiệp này, cái nghề tiếp xúc thường xuyên, với những gã đàn ông thừa tiền lắm của. Chị đã phải khó khăn, đã phải chịu đựng, đè nén bao ham muốn để thoát ra khỏi cái quyến dụ của nó. Chồng chị là một nhà giáo. Anh hiền nhưng cộc tính. Hai người đã có với nhau một đứa con gái. Anh biết, mọi thứ mang lại cho cuộc sống tạm sung túc hiện tại, phần lớn là nhờ vào đồng tiền của chị. Anh cũng biết, vợ mình bản lĩnh. Nhưng để phải chấp nhận, một người phụ nữ, ngày nào cứ 8,9 giờ tối, bỏ chồng ở nhà dỗ con. Son phấn, áo quần, rời nhà, tới quá nửa đêm mới mò về, người rã rượi và nặc nồng mùi bia rượu, thì quả là ngoài sức chịu đựng của một thằng đàn ông. Chưa nói tới, về là chị mệt nhoài, lăn ra ngủ, bỏ mặc anh với những thèm muốn bình thường nhứt. Bạn bè cùng trường dèm pha, bàn tán. Anh khó chịu, anh nhục nhã! Những lục đục, cải vã thường xuyên.
Mối nghi kỵ trong anh cứ lớn dần. Chị vẫn cương quyết không nghỉ việc. Không phải chỉ vì đồng tiền, mà chị đã quen mùi vũ trường, quen cuộc sống về đêm mất rồi. Chị yêu cái gia đình nhỏ của mình, đồng thời yêu luôn cái không khí đầy khói thuốc và tiếng ồn của những giai điệu quen thuộc, những bóng người xoắn lấy nhau, nhịp nhàng theo tiếng nhạc. Ở đó, chị luôn nhận được những khen tặng và tán tỉnh. Thứ hiếm hoi không còn tìm thấy ở anh nữa. Ở đó, nhân danh công việc, chị có những đêm vui bất tận. Nhưng cũng vì anh, chị đã bỏ qua rất nhiều cơ hội kiếm tiền. Chị cố hết sức để không phải lún sâu vào cái nghề nhiều tai tiếng này. Chị tự đặt cho mình những nguyên tắc. Từ chối những gì cần từ chối. Vài vị khách đa tình, ham của lạ, thích chị, rồi rủ rê. Chị đều lắc đầu, chuyện đó để dành cho em út, cho mấy đứa dưới tay. Làm quản lý chứ không làm tú bà. Chị không ngó ngàng, không quan tâm tới chuyện sinh hoạt, đi khách của mấy em ca-ve. Không chia phần, không dính dáng. Chị cố sống tử tế được tới đâu hay tới đó. Vậy mà, việc gì tới vẫn tới. Họ chia tay. Chị nhận nuôi con, nhận phần lỗi về mình. Sống một mình, chị buộc phải thận trọng hơn. Cái còn lại, chị có được là lòng yêu mến của đồng nghiệp, trong đó có hắn.
Hắn chơi organ. Hắn mồ côi. Dân tu xuất, học đàn trong nhà dòng từ nhỏ.Hắn gần như là đầu tàu của ban nhạc. Hắn chơi hết mình. Luôn hào hứng và nhiệt tình. Ca sĩ trẻ, mới vô nghề, hát với hắn luôn được giúp đở tận tình. Có lỗi nhịp, có trật tông, có mất hơi, quên lời, hắn dìu lướt qua hết. Bạn bè, anh em yêu mến hắn, không phải vì tay nghề và kinh nghiệm mười mấy năm chơi nhạc của hắn. Nhiêu đó mà nhằm nhò gì. Họ quý hắn vì cái quyết tâm làm lại cuộc đời của hắn. Không ai tin được, trong một con người có tâm hồn, đam mê âm nhạc như hắn, lại tiềm tàng cái máu Lục vân Tiên. Hắn cũng chẳng đòi làm tay anh chị gì cho cam.Chỉ là,không hiểu sao, ngay từ hồi còn trẻ, hắn rất ghét những kẻ sống núp váy đàn bà. Hắn luôn sôi máu với những tên ma cô, dắt gái, mấy thằng có cái tên chung rất kêu: Nài.
Chuyện đời, chuyện giang hồ, hắn không rành lắm, nhưng chuyện bất bình thì hắn ít chịu bỏ qua. Hồi mới đi làm ban nhạc chưa được năm, hắn đã được bạn bè nhắc tới nhiều, vì cái tánh ngang tàng, ngược đời này. Gái vũ trường thì hởi ơi, đủ thập loại chúng sinh, đầy hoàn cảnh và hoàn cảnh, thiệt giả lẫn lộn.Hắn giang tay hết, em nào nhờ, hắn cũng giúp, nhứt là ba cái chuyện ăn chận, làm khó của mấy tay nài. Người thương nhiều, kẻ ghét cũng không ít.Hắn ngây thơ gây thù chuốc oán, không biết mình vô tình đập bể nồi cơm người khác.
Tối đó về trễ, mới ra khỏi cửa. Đang loay hoay đeo cây đàn, thì ăn nguyên cái chai từ phía sau phang tới. Tiếng miễng chai bể, lạo xạo cắm vô đầu, vô gáy ngọt xớt, máu bắn tung toé. Hắn buông cây đàn, tưởng hắn gục, nhưng không.Thằng đằng sau chưa kịp định thần, thì bị hắn tóm gọn.Máu tuôn mặc máu, bao nhiêu sức lực còn lại, hắn trút hết vào những đòn thù lên người thằng nọ. Lúc mọi người nhào ra can thì đã hết tuồng. Thằng nọ nát như cái giẻ rách và hắncũng đổ ụp xuống bên cạnh.
Nằm ở bịnh viện cả tuần, lúc tỉnh lúc mê. Hắn giựt mình khi nghe thằng nọ chết. Hắn không nhớ hắn đã ra tay như thế nào nữa. Phần thằng nọ dân “sì”, độp thuốc lâu ngày, xương cốt rệu rạo sẵn, thêm hắn dập trong cơn đau điên cuồng, bao nhiêu xương sườn bể nát, lục phủ ngũ tạng tanh bành, thằng nọ đi luôn là phải. Ra tòa, xét đủ mọi tình tiết giảm nhẹ, hắn lãnh 5 năm tù. Gở được 3 cuốn lịch, làm quen thêm một mớ ngày tháng khốn nạn, thì hắn được ân xá cho về.
Về đời, mang cái án giết người, xin việc làm đâu dễ. May mà Trời còn thương, anh em chơi nhạc cũ, nhớ cái tình, lôi vô vũ trường Ruby làm. Từ đó, hắn hiền như cục đất. Hỏi chuyện cũ, hắn lắc đầu không nhớ, không muốn nhắc.
Mới đó mà đã gần 10 năm. Vũ trường cũng đã đổi chủ. Chủ mới là một Việt kiều giàu có, lớn tuổi. Cũng chẳng ảnh hưởng gì tới những người làm công như hắn. Chị vẫn được giữ lại làm, nhờ quá nhiều kinh nghiệm trong nghề, chỉ vất vã hơn lúc trước vì những thay đổi và đòi hỏi nhiều hơn của chủ. Ở Ruby, chị luôn là người tới sớm nhứt và ra về sau cùng. Mấy năm sau này, khi không còn ở với chồng, nhiều tối chị nhờ hắn đợi để về chung. Đường khuya, sợ cướp bóc thì ít, sợ lẽ loi lại nhiều. Cái cảm giác đơn độc trên đường, rồi đơn độc cả lúc đã về nhà, làm chị sợ.
Đôi khi, cả hai dừng lại ăn tô mì, tô cháo. Nói chuyện bâng quơ trên trời dưới đất. Hắn ở cái nhà trọ dưới chân cầu, bên kia sông. Ban ngày, hắn tới nhà dạy đàn cho vài đứa nhỏ con nhà giàu. Sống cu ki một mình nên cũng tạm ổn. Chị hỏi:
– Sao không lấy vợ?
Hắn cười buồn:
– Ai chịu lấy thằng sát nhân mà lấy!
Chị ở cái chung cư bên này sông. Đứa con gái chị đã học trung học. Hỏi, chị cười, cũng buồn in hệt nụ cười của hắn:
– Nhà có hai má con, ở chung cư cho nó yên.
Không biết yên, là chị nói tới chuyện chỗ ở, hay chuyện chị không đi bước nữa. Chỉ có vậy, đưa chị tới nhà, hắn lặng lẽ qua cầu về chỗ của mình. Chưa một lần chị mời hắn ghé chơi. Hắn cũng thấy mình chẳng có lý do gì để ghé!
Chiều nọ, lúc ban nhạc đang dợt bài mới, lão chủ dắt lại một em mướt rượt, nói ca sĩ mới, nhờ tụi hắn tập. Cô tên Hằng. Ca sĩ Thanh Hằng. Cô có giọng ca hoàn toàn trái ngược với cặp chân dài và thân hình bốc lửa của mình. Cô mù nhạc lý, mù luôn cả giai điệu và kiến thức tối thiểu về âm nhạc. Không sao, thứ này nhiều. Rất phù hợp với khuynh hướng coi hát hơn nghe hát hiện nay. Tập sơ cho cô vài bài tủ. Tối đó, cô lên sân khấu, là tay chủ muốn vậy, dĩ nhiên có lý do của lão. Còn cô, dặn rồi, nói rồi, tới hồi lên hát, nhạc ở bờ đông, cô chèo bờ tây! Ban nhạc theo muốn hụt hơi. Rồi cũng xong. Chủ hài lòng. Cô vui vẻ. Và tụi hắn được chủ thưởng ít tiền, đủ bữa nhậu ngoài vĩa hè. Ngồi với anh em, lẽ ra hắn phải vui. Không hiểu sao mới có mấy ly, qua tới ly kế, tay hắn bắt đầu run, như không còn chút khí lực nào. Ly rượu nhỏ xíu tuột khỏi tay, rơi xuống bể tan. Đầu óc quay cuồng, hắn đứng dậy đòi về, trước cái nhìn ngơ ngác của bạn bè, tửu lượng của hắn ai cũng biết, mấy ly mà xỉn gì? Tay hắn cứng đơ, ráng lắm mới đưa được chiếc Dream về tới chỗ ở.
Sáng đi khám bịnh, chụp hình, siêu âm hết một mớ tiền. Bác sĩ nói:
– Do vết thương cũ, làm rối loạn chức năng của não và dây thần kinh. Coi như vô phương. Phẩu thuật rất phức tạp và tốn kém vô cùng. Tạm thời, uống thuốc cầm chừng coi sao...
Tối đi làm, hắn mới thấy rõ điều tệ hại này. Chơi chưa hết một “tua” nhạc, mấy ngón tay đã tê buốt, hắn chệch choạc luôn mấy nốt. Biết không ổn, hắn ngó qua Phong guitaz ngầm ra hiệu. Chơi chung với nhau lâu, Phong gật đầu hiểu ý. Từ đó cho tới hết buổi, hắn chỉ đứng đó cho có tụ, mở nguồn, chạy phần đệm nhạc gài sẵn trong máy, ca sĩ hát, tung hứng đã có tiếng guitaz của Phong che lấp giùm.
Sáng hôm sau, hắn làm một vòng, xin nghỉ mấy chỗ dạy, đồng nghĩa với mất đi một khoản thu nhập cần thiết. Phải chịu thôi! Chơi cho mình còn không được thì dạy ai. Hai bàn tay hắn, những ngón tay tài hoa, giờ vụng về như đứa mới học đàn, nói ai nghe?
Hắn tới vũ trường sớm, chị đã có mặt. Chị nhìn hắn ái ngại. Chị biết hết chuyện hắn chơi nhạc kiểu gì tối qua:
– Ít tiền mọi người góp lại giúp anh mua thuốc. Có bớt chút nào không? Đừng nói với ai. Cứ tạm như vậy, rồi từ từ tính.
Hắn không muốn, nhưng vẫn phải nói cảm ơn và cầm lấy. Hắn thực sự cần tiền. Thu nhập duy nhất để sống của hắn, giờ cũng chỉ còn trông cậy vào nơi này.
Khuya, một mình chong đèn. Hắn lôi cây đàn ra chơi câm. Không có một âm thanh nào phát ra, những phím đàn nhún nhẩy gượng gạo. Hắn nghe trong đầu từng đoạn nhạc rã rời, đứt đoạn. Những ngón tay không chịu nghe lời hắn nữa. Hắn chán nản, hắn suy sụp thấy mình bất lực. Hắn rùng mình khi nghĩ tới những ngày sắp tới. Hắn giận ông Trời bất công, muốn lấy, sao không lấy đi thứ gì khác của hắn, mà là đôi tay?
Hắn vẫn biết không thể kéo dài cách chơi tạm bợ này được, nhưng không ngờ nó tới nhanh quá. Cuối tuần, có ca sĩ Thanh Hằng hát. Hắn mở nguồn với phần đệm cài sẵn. Cô chới với, cô rớt nhịp, cô lạc tông, và cô quên lời. Cô cho là hắn muốn phá, đổ thừa mọi thất bại là do hắn. Sự nghiệp ca hát của cô tiêu tan là bởi tiếng đàn của hắn. Cô học lại, cô tỉ tê tâm sự với chủ. Lão chủ lịnh xuống và chị là người thực hiện.
Lần này, nghe chị dặn ở lại gặp, hắn biết ngay không phải để chờ chị về chung. Mọi người đã về hết. Chị ngồi sau chiếc bàn, đầu cúi xuống. Hắn lên tiếng trước, cho bớt ngột ngạt, cho chị bớt ái ngại:
– Anh T. muốn thay người phải không?
Chị ngước lên nhìn hắn, như chờ đợi một sự cảm thông, rồi lại cúi xuống, không nói. Hắn tiếp, giọng chùng xuống:
– Không sao, chị đừng lo. Trước sau gì cũng phải thay. Tôi chịu được mà...
Chị lấy trong bóp ra 2 cái bao thơ, chị nói:
– Cái này là tiền lương của anh. Còn cái này... Anh em quyết định, mỗi người góp một chút hằng tháng, cho anh thuốc men. Chừng nào anh khoẻ, đi làm lại thì thôi.
Hắn cầm lấy một cái, cái kia hắn để lại:
– Cảm ơn chị, cảm ơn mọi người. Giúp nhau lúc ngặt, tôi mang ơn. Nhưng nghèo giúp sao được. Anh em cũng khổ. Tôi không nhận đâu. Không chơi đàn, thì tôi kiếm việc khác!
Hắn lãng qua chuyện, hắn không muốn chị vì hắn mà buồn:
– Về chưa? Ghé ăn cháo?
Chị bật cười:
– Chờ chút. Con nhỏ dọn dẹp, mắc chứng nghỉ ngang xương, đang kêu đứa khác chưa được...
Hắn đứng bật dậy, xếp những cái ghế bị xô lệch về cho ngay ngắn:
– Hay quá! Cái này tôi làm được, khỏi kêu! Tôi biết chỗ cất đồ nghề rồi!
Không đợi chị trả lời, hắn đi nhanh về phía nhà kho sau lưng sân khấu, lôi ra đủ thứ: chổi, xô, chậu, khăn lau... Sàn nhảy trống trơn. Hắn ôm lấy cây lau nhà, xoay mấy vòng điệu nghệ,miệng lẩm nhẩm hát mấy câu nhạc như đùa cợt với mình. Chị nhìn theo, chỉ còn biết thở dài...
Vậy là hắn có việc làm mới. Có cái cớ để lui tới Ruby, có cái cớ để gặp chị, để nghe những âm thanh, để nhìn được những hình ảnh quen thuộc. Những thứ gắn bó với hắn bao nhiêu năm dài, dù là phải đứng sau sân khấu nhìn ra, hắn vẫn còn thấy lấp ló chút niềm vui, chút hy vọng. Dạo này hắn không về chung đường với chị nữa, vì trái giờ. Có tới sớm, hắn cũng tránh không gặp, để không ai phải áy náy. Hắn không muốn nhìn thấy sự thương hại trên mặt người khác.
Thuốc men gần 2 tháng trời vẫn không thấy thuyên giảm. Hai bàn tay hắn ngày càng tệ. Trước lúc đi làm mỗi đêm, hắn đều lôi cây đàn ra ngắm nghía, vuốt ve từng phím một.Với hắn, cây đàn là người bạn thân thiết nhứt, là người tình luôn mang lại cho hắn cảm giác êm ái, những cảm xúc rất thực. Chỉ cần hắn đặt tay vào đó, là bao nhiêu kỷ niệm, bao nhiêu mơ ước tràn về.
Vậy mà...
Gần tới kỳ tái khám, hắn đã phải quay mặt đi, cắn chặt môi để khỏi bật ra tiếng khóc khi chia tay nó. Hắn cần tiền đã đành. Cái chính là hắn muốn trả cho cây đàn sự sống. Ở đây, nó đang chết dần cùng hắn. Nó phải được reo vui, được ở đúng nơi cần nó. Ở nơi mà khi nó ngân tiếng, có thể xua đi bóng tối, có thể mang lại cho mọi người một hành trình tốt đẹp. Hắn bán nó! Như bán đi hai bàn tay mình, đau ghê lắm. Tay đã vô dụng, thì phương tiện đi lại hằng ngày của hắn là chiếc Dream, cũng từ từ trở thành vô dụng. Lái xe cực quá, vật lộn với nó từng đoạn đường một. Coi như có thêm tiền thuốc men, có đi đâu nhiều mà giữ. Vậy là còn... cặp chưn, hắn cũng bán luôn!
Ruby bữa nay có tiệc. Sinh nhựt ca sĩ Thanh Hằng. Chủ ưu ái cho tổ chức party ngay tại vũ trường. Lúc hắn tới làm, cuộc vui vẫn còn. Khách đông nghẹt. Chỗ đâu mà dọn dẹp. Hắn cũng không muốn đợi. Việc quái gì phải đợi. Người ta trả tiền làm thì hắn làm, có trả tiền đợi đâu. Ai chơi mặc ai, hắn làm việc của mình, rồi về. Bữa sau lãnh tiền, đố cha thằng nào dám thắc mắc. Nghĩ vậy, hắn lấy đồ nghề, dọn toilet trước, chừng nào về hết ra ngoài dọn sau. Xong cái toilet nam, người ướt nhẹp, nồng nặc mùi thuốc tẩy. Hắn xách đồ qua toilet nữ. Đang lui cui chà sàn thì cô ca sĩ Thanh Hằng đẩy cửa vô. Hắn tảng lơ như không thấy, cứ làm tiếp. Cô đã quá say, mắt nhắm mắt mở, bước chân xiêu vẹo. Tưởng không có ai, không thèm vô trong. Cô tốc váy, tuột sì-líp ngồi ngay xuống trước mặt hắn. Ngồi xuống rồi, cô mới thấy hắn. Cô hét toáng lên như bị ai hiếp. Lão chủ lịch sự đưa cô tới, đứng đợi bên ngoài, tung cửa vô liền. Cô một tay kéo quần lót, một tay chỉ hắn. Hắn đứng dựa vách, chỉ xô nước và cái bàn chải dưới sàn. Tới phiên lão chủ hét:
– Đi ra!...
Hắn biết lão muốn lấy uy với gái, muốn chứng tỏ mình là chủ. Tự nhiên hắn thấy tởm. Hắn tỉnh bơ:
– Ai ra?
Tới lúc này lão chủ mới nhận ra hắn. Trong bộ đồ lao động, hắn khác xa với lúc trên sân khấu. Lão vẫn còn ghim chuyện cũ Thanh Hằng kể, không ngờ gặp hắn ở đây. Hai mắt lão long lên giận dữ. Lão thừa biết không phải lỗi hắn, nhưng trước mặt cô ca sĩ ưa thích, không cần phân biệt phải trái đúng sai, lão chồm qua nắm lấy ngực áo hắn lôi ra ngoài. Tới đây thì lão lầm. Lầm tai hại. Biểu hắn chà cầu tiêu, đổi lấy miếng ăn thì được, nhưng đụng chạm thân thể hắn, sỉ nhục hắn thì không! Không bao giờ hắn chịu. Mấy ngón tay cứng đơ, tê buốt. Cánh tay hắn vẫn còn ngon lành. Không cần suy nghĩ, hắn lật cái chỏ ngang vô mặt lão như trời giáng. Lão bật ra té nhào xuống. Cô ca sĩ tính la lên, bắt gặp cái nhìn đáng sợ của hắn, bụm miệng nín khe. Hắn lặng lẽ đi ra. Đám đông vẫn ồn ào. Hắn thoáng thấy chị đang cười nói với ai đó. Hắn rất muốn lại chào, nghĩ lại thấy không nên. Ngày mai hắn không còn tới đây nữa. Chẳng còn lý do gì để hắn có mặt nơi này. Tới cái công việc tồi tệ nhứt, hắn còn không giữ nổi, gặp chị làm gì?
Bên ngoài, trời se lạnh. Hắn bắt đầu đi bộ chậm rãi. Không có ai đuổi theo. Đi qua khu nhà chị, hắn dừng lại, ngó lên mấy căn phòng còn sáng đèn của chung cư, tự hỏi căn nào là của chị. Căn phòng nào có đứa con gái, còn thức đợi mẹ hay đã say ngủ từ sớm. Căn phòng mà hắn ao ước, được tới chơi một lần trong đời. Giờ thì không còn cơ hội nữa. Hắn đi lên cầu. Vắng hoe. Hắn không vội, hắn chưa muốn về nhà lúc này. Hắn đứng giữa cầu, nhìn xuống dòng nước đục ngầu. Nó như đời hắn. Có trôi nhanh hay chậm thì mãi vẫn chảy dưới cầu. Giống như câu chuyện tình của hắn vậy. Vói mãi không tới được gầm cầu. Hắn chồm người qua lan can cầu, hắn gọi tên chị. Hắn bắt đầu nói, nói hết với dòng sông những gì hắn nghĩ, hắn muốn nói với chị. Hắn tin là dòng sông đang nghe. Hắn tin những thứ rác rưởi trên đó rồi sẽ trôi đi, chỉ còn những lời yêu thương của hắn ở lại. Chìm xuống dưới đáy, ở hoài. Người hắn tê cứng như hai tay. Hắn nghĩ, ở trên này hay bên dưới, có gì khác nhau? Biết đâu ở dưới đó, mưa nắng chỉ đi qua hờ hững, ân oán tìm không tới! Mọi thứ muôn đời sẽ không thay đổi. Hắn vẫn còn là hắn, với hai bàn tay nguyên vẹn và những dạo khúc, ru người tha thiết! Gió sông thổi lên, mơn trớn, níu kéo. Hình ảnh chị và lời tự tình của hắn ẩn hiện. Thành cầu chao đảo. Mặt sông chao đảo. Người hắn chao đảo...
Cuộc vui đang ngon trớn, bỗng ngưng ngang vì tiếng la hét của cô ca sĩ Thanh Hằng trong toilet. Người ta dìu lão chủ ra, mặt bê bết máu. Cả hai vẫn chưa hoàn hồn, ú ớ tiếng còn tiếng mất. Bộ dạng cô ca sĩ đã thảm, lão chủ còn thảm thương hơn. Một bên hàm bể nát, miệng lệch qua một bên. Cô ca sĩ gào lên một cái tên. Tên hắn. Cô khóc nức nở, cô kể lể. Hắn bị đuổi việc, hắn thù cô! Hắn rình trong toilet để làm nhục cô. Xui cho hắn là bị lão chủ phát hiện, ra tay can thiệp. Hắn hành hung luôn lão, kiếm đường thoát chạy. Thứ côn đồ! Quân giết người!...
Nhiều cái miệng anh hùng, cứu nhân độ thế, lên tiếng theo:
– Báo công an! Báo công an! Còng đầu nó lại. Cho nó tù mọt gông!...
Chị đứng yên một góc tê tái. Chị biết chắc hắn chính là tác giả chuyện này, chỉ không tin vào bất kỳ lời nói nào của cô. Phải có lý do lớn lao hơn.Chị rành hắn sáu câu. Chị đâu có lạ gì cách sống của hắn. Tuyệt đối hắn không phải loại người này. Chị hối tài xế chở lão chủ vô bịnh viện. Chị nhìn những con người a dua, đạo đức giả. Nhìn những gương mặt đỏ gay sau bữa tiệc, đang hả hê khinh thị, buộc tội người khác. Chị chợt nhớ, thì ra bấy lâu nay mình không sai. Mấy năm trời, ly dị chồng, chị sống lủi thủi nuôi con. Những cuộc vui tạm bợ hằng đêm, không hề lấp đi được chút nào, cái khoảng trống cô đơn sâu thẳm trong chị. Không có anh, chị thèm thuồng từng câu hỏi han, từng câu vỗ về an ủi. Thèm cái san sẻ buồn vui thực lòng. Thèm cái hơi ấm, cái vòng tay của một thằng đàn ông đúng nghĩa. Những hào hoa phong nhã, những trau chuốt, lịch sự của những gã chung quanh chị, chỉ như tấm áo rách, che không hết cái tồi tàn, cái ích kỷ bên trong. Dạo sau này, chị hay nghĩ về hắn. Chị quý cái chịu đựng, cái thật thà. Chị nhớ và thương từng cái cử chỉ thô lỗ, vụng về, ngang tàng mà ngu ngơ của hắn. Rất nhiều lần chị muốn nói, muốn gợi ý với hắn về một nơi ở mới, một khung cảnh sống mới. Chị chần chừ. Những rũi ro liên tiếp làm chị do dự, chị lo ngại hắn tự ái, hắn từ chối. Giờ thì không có gì cản được chị. Chị sẽ nói với hắn, nói hết. Nói chị cần hắn, cần cái tình của hắn như hơi thở, như ánh sáng trong đêm dài cô quạnh...
Bỏ mặc thiên hạ xúm xít quanh cô ca sĩ, bỏ mặc lão chủ vừa được dìu lên xe đi bịnh viện. Chị tất tả lấy xe đi tìm hắn. Chị sẽ ôm chầm lấy hắn mà thủ thỉ. Cho dù có chuyện gì đi nữa, chị cũng không rời bỏ hắn. Con đường quen thuộc, con đường những đêm có hắn chạy xe bên cạnh nói cười. Con đường có quán mì, quán cháo, có gã đàn ông sẵn sàng làm tất cả vì chị. Con đường giờ còn mình chị, dáo dác kiếm tìm. Chạy tới khu chung cư, vẫn không thấy hắn. Chị cho xe đi tiếp, tới giữa cầu, chị dừng xe lại. Không thấy hắn. Không có ai trên cầu. Chị ngồi lặng trên xe, nghe gió thổi qua người. Nghe như có tiếng gọi tên mình. Nghe đâu đó dưới sông, đong đưa câu hát:
“Vì còn đây câu nói yêu em. Âm thầm soi lối vui tìm đến”.
Gửi: Sat Apr 12, 2025 12:47 am Tiêu đề: HUẾ THƯƠNG
HUẾ THƯƠNG
"Nhìn nắng hàng cau
nắng mới lên"
Mai Hữu Thọ
chọn ảnh minh họa
Đây Thôn Vĩ Dạ
Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên.
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay?
Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà?
Hàn Mặc Tử
HUẾ THƯƠNG
"Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc"
Mai Hữu Thọ chọn ảnh minh họa
HUẾ THƯƠNG
(Phú Lan sưu tầm)
Từ tháng 8, 2023, các bạn tôi rầy rà nhắc nhở tôi viết về ‘Huế Ngày Nay’ để họ thỏa lòng nhớ Huế Xưa. Vâng, tôi về lại Thôn Vỹ từ ngày ấy và muốn làm vừa lòng các bạn vàng của tôi mà ròng rã gần hai năm không tìm ra bài thơ Thôn Vỹ của Ni Sư Trí Hải họa vần bài thơ Thôn Vỹ của Hàn Mạc Tử. Tôi muốn giới thiệu bài thơ tả rõ Thôn Vỹ, đã lâu rồi, không còn là Thôn Vỹ của Hàn Mạc Tử, và xứ Huế không còn là xứ Huế mộng mơ của bao người con xa Huế. Sáng nay tình cờ tìm được bài thơ của Ni Sư, mừng hết lớn, vội vàng ghi ra đây và sẽ tả chân xứ Huế tân thời cho các bạn thưởng lãm.
Họa vần bài thơ Thôn Vỹ của Hàn Mạc Tử:
Ni sư Trí Hải
Tôi không muốn về chơi Thôn Vỹ
Vì giá nhà lên, giá đất lên
Bờ lau đã biến thành hàng quán
Cũng chẳng còn chi ruộng với điền.
Người cũ về thăm từ chốn xa
Vườn xưa dơ quá nhìn không ra
Nơi nơi nhà mọc lên như nấm
Cảnh đấy tình đây hết đậm đà.
Mộng tưởng tàn phai theo khói mây
Còn đây tâm đạo chẳng lung lay
Mai sau dù có bao giờ nữa
Cũng nguyện một lòng son sắt nay.
Đúng vậy, Thôn Vỹ không còn là Vỹ Dạ của Hàn Mạc Tử, một chốn tĩnh lặng của đất Thần Kinh mà mấy ông quan chọn xây phủ đệ để an hưởng tuồi vàng, nơi mà nhà nhà núp bóng dưới những rặng tre xanh, với những bờ dậu hoa ngâu, cây cao bóng mát, hoa trái quanh năm bên dòng Hương Giang lững lờ như ngừng trôi trong một không gian yên ả:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Giòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Rất thất vọng khi về lại Thôn Vỹ không còn thấy nhà vườn nào hết. Cách đây chừng chục năm thì còn lại độc nhất nhà vườn của họ Nguyễn Khoa ở ranh giới Vỹ Dạ và Tây Thượng. Rồi cửa ngỏ nhà vườn cũng không còn khi con cháu bán đi mảnh đất phía trước và chủ mới đã xây lầu cao che khuất nội thất nhà thờ và mảnh vườn có chắn bình phong. Từ Đập Đá xuống Chợ Dinh, đến tận cửa biển Thuận An, hai bên đường toàn là hàng quán, văn phòng. Không còn gì thơ mộng nữa, không còn vườn nhà ai mướt quá xanh như ngọc nữa! Không những chỉ ở Vỹ Dạ mà các nơi khác hàng quán cũng mọc lên cùng khắp. Có chăng chỉ còn vườn nhà Hoài Nam (con Bà Tuần Chi, cựu hiệu trưởng Đồng Khánh), bạn học thuở Trung Học, ở Kim Long mà nay muốn vào thăm phải mua vé!
Những năm tôi lớn lên ở Huế chỉ có tiệm ăn Chú Béo ở Ngã Giữa tức đường Phan Đăng Lưu bây giờ. Nhà hàng Tàu này có món cơm chiên Dương Châu bất hủ do ông chủ --hay bếp chính—là một ông Tàu to béo đứng làm. Tụi con nít chúng tôi thích lắm! Cho đến bây giờ chưa thấy cơm chiên Dương Châu ở đâu ngon bằng. Còn nhớ có tiệm Lạc Thành ở Cửa Thượng Tứ mà nay vẫn còn nhưng không ngon bằng ngày trước. Tôi và Cô Nguyệt thường ghé ăn cháo bột báng thịt bò, thêm quả trứng gà, ngon ghê! Ngày nay thì ngỏ ngách nào cũng có hàng quán bán đủ mọi thức ăn, từ những món truyền thống như bún bò, cơm hến, bánh canh Nam Phổ, Cơm Âm Phủ, bánh khoái, nem lụi, các thứ bánh, nậm bèo lọc, bánh ram bánh ít... nhưng dĩ nhiên hương vị khác xưa. Không còn tô bún bò với cái tô đít nhỏ, vành to cùng sợi bún to riêng cho bún bò. Ngày ấy chỉ có một thứ bún bò giò heo, vài cọng rau răm, và hành ngò, về sau có thêm ít bắp chuối thái chỉ. Xin ghi lại đây bài Bún Huế (1) của bs Nguyễn Minh Dũng để thấy tô bún bò mụ Giánh (truyền thống) mà tôi thường được ăn trước khi đạp xe qua trường Đồng Khánh nay đã không còn!
Bún bò Huế ngày nay sợi nhỏ có thêm chả cua...
Không chỉ mất đi tô bún bò truyền thống, bánh canh Nam Phổ -- đặc sản của Huế -- cũng khác xưa dù vẫn do nghệ nhân làng Nam Phổ gánh về Huế bán. Tất cả phụ nữ làng (mấy trăm người) vẫn giữ nghề bán bánh canh nhưng cách nấu cũng khác. Ngày trước, tô bánh canh không có mấy viên chả nhỏ lềnh bềnh, độ sánh của nước lèo cũng có khác, không đặc quá mà cũng không lỏng quá như ngày nay. Tuần trước em tôi đã tìm được một lão bà 84 tuổi, người phụ nữ cuối cùng của làng Nam Phổ, biết nấu bánh canh truyền thống. Thường một tô chỉ 10 -15 ngàn, bà sẽ nấu bánh canh truyền thống, chất lượng, 30 ngàn một tô và chúng tôi được thưởng thức bánh canh Nam Phổ truyền thống, sợi bánh và độ sánh rất đạt, đúng như khẩu vị tôi nhớ nhưng vẫn có nhiều viên chả (tôm thịt) nhỏ lềnh bềnh, một thay đổi của thế kỷ! Ngày nay ngoài bánh canh Nam Phổ -- chỉ bán buổi chiều từ 2 đến 5 giờ -- Huế còn có nhiều loại bánh canh khác được nhập từ các nơi về.
Cơm hến cũng được khai sinh từ Huế, món ăn dân dã, rẻ tiền mà cũng đã hớp hồn được nhiều thực khách. Đầu bếp lừng danh của New York đã ăn hết hai tô cơm hến ở vỉa hè của Huế, ông Anthony Bourdain hứa hẹn sẽ về Huế lần nữa!
Tôi không hảo cơm hến nên không biết cơm hến ngày nay có thay đổi gì không, chỉ nhớ ngày xưa được dọn với rau thái mỏng từ thân cây chuối. Bún hến thì tuyệt nhiên ngày xưa không có! Nhưng bánh nậm ngày trước gồm thịt ba rọi băm với tôm tươi, đậm đà hơn nhân tôm bây giờ. Bạn nào siêng làm thử bánh nậm với nhân tôm thịt xem. Bánh ram cũng có con tôm dùng với bánh ít, không phải chỉ miếng bột được chiên lên! Các bạn xa Huế chắc còn nhớ đã từng ăn bánh bèo chén ở chân núi Ngự Bình hay ở Tây Thượng nay cũng không còn. Tây Thượng bây giờ nằm trong khuôn viên thành phố với hàng quán, siêu thị sầm uất rồi. Núi Ngự Bình cũng là một phần của thành phố với Trường Đại Học Ngoại Ngữ thuộc Đại Học Huế, ở ngay chân núi cùng nhiều hàng quán dọc đường. Hàng rong thì nhiều hơn ngày trước và được cải tiến, đỡ khổ cho người bán. Họ không còn phải rao lớn tiếng mà dùng máy rao giùm, trứng vịt lộn, cháo gạo đỏ, đậu hủ... Có người đi xe đạp, người đi xe gắn máy, không phải tay xách nách mang hay gồng gánh lội bộ quanh làng xóm nữa. Món kẹo kéo và yến thòn mà ngày bé chúng tôi rất thích, lớn lên cũng còn thích mà nay không thấy nữa! Lục tàu xá cũng không còn.
Cũng thật lạ là Huế không còn tiệm ăn Tàu nào cả. Chỉ gần đây có tiệm Hấp Thủy Nhiệt Hong Kong nhưng do người Việt quản lý. Tiệm Hấp Thủy Nhiệt rất phổ biến ở Saigon, rất mới ở Huế. Hầu như tất cả món ăn được đặt lên nồi hấp trên bàn trước mặt khách, không chiên xào dầu mỡ gì cả, rất tốt cho sức khỏe. Huế ngày nay không có nhà hàng Tàu nhưng có nhiều nhà hàng Tây, Ý, Địa Trung Hải, Nhật, Đại Hàn, Lào, Thái và Cơm Niêu tức là cơm gia đình truyền thống Huế gồm canh rau, cá bống thệ kho khô, rau xào, tofu. Cơm thì nấu trong cái niêu (nồi đất nhỏ) và dọn ra trong niêu luôn. Huế cũng có nhiều nhà hàng buffet đủ loại: sushi, sashimi, hải sản, đồ nướng của các nước, lẫu... Nhưng lạ nhất và chắc không nơi nào có là nhiều quán cơm chay mà nhà hàng nào cũng đông khách. Ngày rằm, mồng một ta thì thường là hết chỗ và hết đồ ăn sớm và ngày hôm sau tức là ngày 16 và mồng hai thì tất cả các nhà hàng chay đóng cửa vì ngày hôm trước mệt quá rồi! Ẩm thực Huế rất đa dạng, muốn ăn gì cũng có, ăn khuya, ăn chiều, giờ nào cũng có, cả món phở Bắc, hủ tiếu miền Nam, mì Quảng, hamburger, pizza, gà rán KFC, quán cà phê Starbuck...
Cách ăn mặc của dân Huế cũng khác xưa nhiều. Nữ học sinh không còn mặc đồng phục áo dài trắng, quần trắng cỡi xe đạp đến trường.
Thật sự thì không còn ai mặc áo dài nữa trừ ngày lễ, Tết đi chùa. Chẳng bù với ngày trước, phụ nữ ra đường là mặc áo dài kể cả người buôn thúng bán bưng. Bà nội tôi ngủ dậy là khoác chiếc áo dài và mặc áo dài suốt ngày cho đến tối đi ngủ mới thay. Chiếc nón bài thơ thì trở thành vật lưu niệm cho du khách. Cho nên không còn cô gái Huế yểu điệu thục nữ với áo dài và nón lá! Không còn tìm đâu ra cô gái Huế của cụ Phan Châu Trinh: “hình ảnh cô gái Việt Nam tiêu biểu nhất, e ấp, dịu dàng mà đằm thắm” vì không còn tìm đâu ra:
Em gái Huế, thướt tha tà áo tím,
Dáng nhẹ nhàng loang cả bóng đường xưa.
Nón nghiêng nghiêng che dáng nhỏ về trưa,
Làn tóc xả bồng bềnh theo cơn gió
(khổ đầu của bài thơ Huế -- Tà áo tím của Uyên Ương).
Thi sĩ này trú ngụ ở California vẫn nhớ về cô gái Huế của một thời. Có dịp về thăm Huế chắc ông sẽ vỡ mộng! Ngày nay con gái Huế cũng hùng dũng cỡi xe gắn máy rú chạy khắp phố phường như gái Hà Nội, gái Saigon trong trang phục của người phụ nữ Hồi giáo che kín từ đầu đến chân vì sợ nắng! Đôi guốc mộc cũng bị khai tử rồi. Còn nhớ ngày trước, học trò chúng tôi khua đôi guốc khắp các nẻo đường đến khi guốc mòn gót lép xẹp gót chân chạm đường mới được mua đôi guốc mới.
Gái Huế ngày nay
Đường sá thì đông đúc với nhiều xe hơi, xe gắn máy đủ cỡ, đủ loại, xe đạp điện, xe ba gác chen chúc tranh đường, mạnh ai nấy đi, không theo luật lệ giao thông làm những khách phương xa về không ai dám lái xe. Ấy vậy mà cũng ít tai nạn giao thông, cũng lạ! Xe kéo (xích lô) thì chỉ chở du khách tham quan phố thường thôi, không còn là phương tiện giao thông nữa. Chợ hoa ngày Tết chắc mới khai sinh gần đây thôi vì ngày tôi lớn lên ở Huế không có.
Huế cũng bắt kịp những thành phố văn minh với dịch vụ mua sắm online, từ quần áo, đồ ăn đến những thứ gia dụng mà còn tiện lợi hơn là người tiêu thụ không phải trả tiền trước, chỉ sau khi đã hài lòng món hàng nhận được mới phải trả tiền. Hai tháng trước, tôi đặt mua 6 cái áo, khi hàng về, tôi chỉ thích một cái nên trả tiền cái đó thôi, trả về 5 cái kia mà không phải chịu tiền cước phí.
Tuy chỉ hơn 300,000 cư dân trong chu vi thành phố, Huế có đến 3 siêu thị lớn. Siêu thị mới nhất là của người Nhật. Aeon Mall là một shopping mall 4 tầng, lớn không thua Takashimaya Shopping Center ở Singapore. Ngoài ra còn có những siêu thị con như siêu thị Đại Hàn, siêu thị Nhật bản, Đức v. v... chỉ là những cửa hàng nhỏ nhập hàng hóa của những nước ấy. Chợ Đông Ba của Huế, đủ tất cả các mặt hàng, vẫn sinh hoạt bình thường và những khu chợ địa phương vẫn nhóm họp nhưng không đông khách như xưa.
Huế cũng có suối nước khoáng thiên nhiên, có dịch vụ tắm bùn kiểu Nhật và dịch vụ đấm bóp (massage) thì đầy dẫy ngõ ngách nào cũng có và có nhiều salon sửa sắc đẹp nữa, không cần đi Nhật hay Đại Hàn. Bạn có thể ở nhà gọi dịch vụ đấm bóp, dịch vụ làm móng tay móng chân hay gội đầu về nhà mình thoải mái mà giá nhẹ hơn ở các cửa hiệu.
Cũng nên nhắc là Huế được nâng cấp là thành phố thứ 6 trực thuộc Trung Ương ngày 1 tháng 1, năm 2025 và mất đi hai chữ Thừa Thiên, chỉ được gọi là thành phố Huế. Diện tích thì lớn hơn Saigon và Hanoi nhưng dân cư thưa thớt, chỉ hơn một triệu thôi. Saigon thì hơn 10 triệu từ lâu rồi và Hà Nội cũng không thua lắm.
Ngoài những lăng tẩm của triều Nguyễn, Huế còn có Đền Huyền Trân được xây cất năm 2007 để kỷ niệm vị công chúa nhà Trần đã đem về cho nước nhà Châu Ô và Châu Rí, là Quảng Trị và Huế ngày nay. Huế có Đồi Vọng Cảnh ở thượng nguồn sông Hương, có Phá Tam Giang ở gần biển là một vùng nước lợ lớn nhất Đông Nam Á. Gần đây, Huế còn có chùa Huyền Không Sơn Thượng, một ngôi chùa rất nên thơ do một thiền sư thi sĩ tạo dựng ở một vùng núi không xa Huế mấy. Và Huế còn có Làng Ma, một khuôn viên lăng mộ độc nhất vô nhị được xây cất tráng lệ hơn cả lăng mộ vua chúa! Làng Ma tọa lạc ở làng An Bình gần cửa biển Thuận An. Là một làng chài nghèo khó nhưng sau biến cố 75, nhiều cư dân kéo thuyền ra biển theo dòng người vượt biên và định cư tại Mỹ. Họ trở lại nghề đánh cá và trở nên giàu có. Họ nhớ nơi chôn nhau cắt rốn, ông bà tổ tiên nên gởi tiền về giúp thân nhân làm nhà, xây lăng đắp mộ cho tổ tiên, ông bà. Nhà nào cũng muốn lăng mộ nhà mình đẹp hơn nên thi đua xây lăng đắp mộ nhà mình thật đẹp và biến khu mộ thành một Làng Ma tráng lệ, là điểm đến của khách du lịch bây giờ. Nghe đâu chính quyền không cho xây thêm nữa.
Làng Ma ở Huế (Hình báo Tiền Phong)
Phố xá ở Huế cũng lạ lắm. Ta thường thấy dòng xe xích lô chở khách du lịch dài cả mấy nhịp cầu Tràng Tiền tham quan thành phố. Ngày trước phố xá chỉ gồm ba con đường bên tả ngạn sông Hương. Ngày nay thì phố xá phía hữu ngạn sầm uất lắm với bảng hiệu bằng tiếng Anh nhiều lắm, có lạ không! Không những bảng hiệu bằng tiếng Anh rất phổ biến mà trường học, trung tâm lớn cũng ghi chỉ dẫn bằng tiếng Anh, làm như Huế là một thành phố quốc tế.
Ngày chúng tôi lớn lên thì không có cửa hàng bán quần áo may sẵn như bây giờ. Tôi nhớ mỗi mùa hè, mẹ cho gọi thợ may đến nhà đo đạc và may cho chúng tôi mỗi đứa hai bộ quần áo đi học, và ngày Tết thì may áo mới mặc Tết.
Huế hiện nay tân thời đủ mọi mặt nhưng dân chúng vẫn không thoát được lề thói cũ, có thể còn dị đoan hơn. Vẫn cúng bái thần tài, cúng đất một năm hai lần cầu bình an, thịnh vượng. Cúng cả xe hơi vì tin rằng thần xe sẽ phù hộ lái xe được an toàn! Và khắp cả thành phố nơi nào cũng thấy trang am thờ, thờ ai? Mà có nơi có cả ba cái trang liền nhau! Ma quỷ ở cùng chúng ta sao? Tôi đi khá nhiều nơi, thấy ở Huế cúng kiến khá nhiều, am miếu khá nhiều, chắc vì là kinh đô cũ đã kinh qua nhiều biến cố hãi hùng từ thời đại Chiêm Thành. Lâu lâu người ta vẫn tìm thấy tro cốt của người Chiêm trong những cái om nhỏ.
Cầu Phú Xuân & Trường Tiền Cầu Dã Viên
Đặc biệt ở Huế có tiệm ăn Xã Hội 5 ngàn đồng một xuất cơm trưa gồm 4 món chất lượng dành cho sinh viên nghèo do một người Việt ở Úc thành đạt tài trợ. Ông muốn giữ tên quán cơm Xã Hội tuy chỉ phục vụ cho sinh viên vì ông nhớ ngày còn đi học, nhà nghèo, ông không bị đói nhờ quán cơm Xã Hội ở Huế, gọi cơm và nước mắm thì khỏi trả tiền! Một xuất cơm bình dân ngày nay thì từ 20 đến 30 ngàn. Ở Thành Nội thì có quán cơm chay thiện nguyện 0 đồng giúp cho người nghèo, mỗi ngày 200 xuất cơm trưa. Chủ nhân là người giúp quản lý quán cơm Xã Hội. Cô tự mình gây quỹ cho quán cơm chay và giúp thêm cho quán cơm Xã Hội.
Một đặc biệt nữa của Huế ngày nay là không còn mưa dầm như Nguyễn Bính than thở:
Giời mưa ở Huế sao buồn thế!
Cứ kéo dài ra suốt mấy ngày...
Tôi ở Huế qua nhiều mùa mưa, có năm mưa cả tháng không dứt, vậy mà năm ngoái và năm nay không còn thấy mưa lê thê nữa. Có người cho rằng Huế đã nhập (import) cơn mưa trộ (shower) từ Saigon về. Mưa thật to, sấm sét đùng đùng rồi dứt, mặt trời từ từ ló ra, vạn vật tươi mát! Cả mùa Đông năm nay không hề có trận mưa nào kéo dài cả ngày. Có thể là kết quả của biến đổi khí hậu. Huế cũng không còn bị những cơn lụt dữ dội hoành hành. Mùa mưa lụt vừa rồi chỉ có vài nơi nước lên vì xã lũ, không phải vì lũ lụt nước sông dâng lên.
Để nhớ Huế của một thời xa xưa, Huế mơ, Huế mộng, nguồn cảm hứng của nhiều tao nhân mặc khách, Huế của bao người đã yêu Huế như yêu người tình đầu, xin ghi ra đây bài thơ yêu Huế của chị Hoàng Hương Trang, một người con của Huế:
Huế tình đầu
Hoàng Hương Trang
Ai xa Huế mà không nhớ Huế
Nhớ chuông chùa Diệu Đế, nhớ Văn Lâu
Nhớ Trường Tiền da diết sáu nhịp cầu
Nhớ Kim Long, nhớ bến đò Thừa phủ.
Nhớ dốc Nam Giao, nhớ bờ sông Bến Ngự
Nhớ Hàng Bè, Thượng Tứ, nhớ Bao Vinh
Nhớ sông Hương chan chứa thiết tha tình
Nhớ thông reo đỉnh Ngự Bình gió mát,
Nhớ Tịnh Tâm, hồ sen bát ngát
Nhớ đò Cồn, An Cựu, Chợ Dinh
Nhớ con đường Vỹ Dạ bóng cây xanh
Nhớ Gia Hội, Đông Ba, Hàng Me, Đập Đá.
Nhớ Ngự Viên, nhớ Nội Thành, Mang cá...
Huế của ta ơi, biết nhớ mấy cho vừa!
Ai xa Huế mà không thương Huế
Thương mẹ già lặn lội mùa Đông
Thương em thơ đi học mưa dầm
Thương chị, thương anh mùa hè cháy nắng
Thương bữa cơm nghèo, nồi canh mướp đắng
Thương đĩa mắm cà, con cá thệ kho khô...
Huế của ta ơi, thương biết chừng mô!
Ai xa Huế mà không mơ về Huế
Dạo bước trên cầu, áo trắng tung bay
Vành nón nghiêng nghiêng che mái tóc mây
Ánh mắt trong veo dòng Hương gợn sóng
Đêm trăng hè trời cao lồng lộng
Chiều thu êm tím ngát cả không gian
Tiếng hò trên sông ngơ ngẩn bàng hoàng
Hò ơ hò... chiều chiều trước bến...
Mơ sớm mai chèo đò qua cồn Hến
Trái bắp tươi non, nấu chén chè thơm
Dĩa bánh bèo tôm chấy hồng ươm
Đọi cơm hến, bánh canh, bánh ướt...
Nhớ biết mấy những món quà quê hương
không gì thay thế được
Dải đất quê nghèo mà mặn nồng yêu thương
Ai đã từng uống nước sông Hương
Ai đã từng hưởng ngọn gió chiều đỉnh Ngự
Ai đã từng bước đi trên những con đường tình tứ
Ai đã thả hồn trên những chiếc võng âm thanh
Ai đã đắm say tình Huế quê mình
Dẫu xa xôi mà không mơ về Huế
Huế tình đầu thơm ngát, Huế yêu ơi!
Những ai hoài niệm Huế Xưa sẽ không thất vọng vì nhiều trang mạng đã tải lên nhiều áng thơ, văn, nhạc thổn thức thương về xứ Huế mộng mơ đọc hoài không hết!
Hoàng thị Quỳnh Hoa
Đây Thôn Vĩ Dạ - Thơ : Hàn Mặc Tử - Ngâm : Phạm Mai
Bạn không có quyền gửi bài viết Bạn không có quyền trả lời bài viết Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn Bạn không có quyền tham gia bầu chọn