TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG :: Xem chủ đề - Bệnh bạch hầu: Nguyên nhân và cách nhận biết
TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG
Nơi gặp gỡ của các Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Phan Rang - Ninh Thuận
 
 Trang BìaTrang Bìa   Photo Albums   Trợ giúpTrợ giúp   Tìm kiếmTìm kiếm   Thành viênThành viên   NhómNhóm   Ghi danhGhi danh 
Kỷ Yếu  Mục Lục  Lý lịchLý lịch   Login để check tin nhắnLogin để check tin nhắn   Đăng NhậpĐăng Nhập 

Bệnh bạch hầu: Nguyên nhân và cách nhận biết

 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Sức Khỏe và Y Học
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Người Post Đầu Thông điệp
Mây tím



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 10922

Bài gửiGửi: Mon Jul 08, 2024 11:34 pm    Tiêu đề: Bệnh bạch hầu: Nguyên nhân và cách nhận biết

Bệnh bạch hầu: Nguyên nhân và cách nhận biết


Bạch hầu là bệnh do nhiễm vi khuẩn bạch hầu gây ra, có thể dễ dàng lây lan từ người sang người qua đường hô hấp hoặc qua tiếp xúc. Những triệu chứng của bạch hầu tương đối giống với cảm lạnh thông thường, khiến nhiều người chủ quan lầm lẫn. Bệnh bạch hầu có tỉ lệ tử vong cao, và có thể bùng phát thành dịch.


Một màng bám dày và xám bao phủ amidan, biểu lộ của bệnh bạch hầu...


1. Bệnh bạch hầu

Bệnh bạch hầu là một bệnh nhiễm trùng nhiễm độc rất nặng do vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây ra. Bệnh có thể lây lan cao, có thể trở thành dịch bệnh với tỉ lệ tử vong cao từ 5-10% [1], ảnh hưởng chủ yếu đến người trẻ. Với những người chưa chích ngừa, tỉ lệ tử vong có thể tới 30%. [2] Trẻ nhiễm bệnh càng nhỏ tuổi thì tỉ lệ tử vong càng cao.

Bệnh bạch hầu đặc trưng bởi lớp giả mạc tuyến hạnh nhân, thanh quản, hầu họng, mũi, có thể xuất hiện ở da, kết mạc mắt hoặc bộ phận sinh dục.

Bệnh rất dễ lây lan qua đường không khí ở dạng bụi nước hoặc qua tiếp xúc bề mặt. Bệnh bạch hầu rất hiếm gặp ở các nước phát triển nhưng vẫn còn là căn bệnh phổ thông ở nhiều quốc gia trên thế giới.



2. Nguyên nhân gây bệnh

Bệnh bạch hầu do vi khuẩn gram âm, hiếu khí có tên là Corynebacterium diphtheriae, thuộc họ Corynebacteriaceae. Họ này gồm các giống Corynebacterium, Erysipelothrix, Listeria, ký sinh trong đất, súc vật và trên cơ thể người. Phần lớn các vi khuẩn thuộc họ Corynebacteriaceae không gây bệnh, chỉ có một số ít gây bệnh cho người.

Vi khuẩn bạch hầu có 3 loại gồm: Gravis, Mitis và Intermedius.

Vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae có thể sinh ra độc tố tiêu diệt tế bào của cơ thể. Điều đó làm cho bệnh bạch hầu nguy hiểm hơn một số loại bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn khác.

Vi khuẩn bạch hầu thường lây lan qua những bụi nước từ mũi hoặc miệng khi hắt hơi hoặc ho.

Một số người cũng mắc bệnh bạch hầu khi chạm vào khăn lau tay, khăn giấy đã qua sử dụng của người bị nhiễm bệnh hoặc bất kỳ vật dụng nào khác trong nhà có thể chứa vi khuẩn.

Bạn cũng có thể mắc bệnh bạch hầu khi chạm vào vết loét hoặc vết loét hở của người bị nhiễm bệnh. Những người mắc bệnh bạch hầu rất dễ lây lan cho đến 48 giờ sau khi họ bắt đầu được điều trị bằng trụ sinh.

Một người cũng có thể mang vi khuẩn bạch hầu mà không có bất kỳ triệu chứng nào. Các bác sĩ gọi người này là “người mang mầm bệnh”. Người mang mầm bệnh có thể lây bệnh cho người khác trong tối đa 4 tuần.

Nếu bạn nhiễm khuẩn bạch hầu từ người mang mầm bệnh, ngay cả khi người đó khỏe mạnh, vi khuẩn vẫn có thể gây nên nhiễm trùng nghiêm trọng.



3. Các loại bệnh bạch hầu

    • Bạch hầu cổ điển: Bệnh bạch hầu cổ điển là loại thường gặp nhất, tổn thương xảy ra toàn bộ đường hô hấp trên từ mũi, cổ họng, amidan và thanh quản. Các triệu chứng có thể khác nhau tùy thuộc vào vị trí bị thương.

    • Bạch hầu họng, mũi: Bạch hầu họng, mũi đặc trưng bởi lớp giả mạc dày và dai, màu trắng ngà, bám chắc vào amidan hoặc có thể lan rộng bao phủ cả vùng vòm họng. Bệnh nhân có thể có triệu chứng sưng to các hạch vùng cổ và vùng dưới hàm.

    • Bạch hầu thanh quản: Bệnh bạch hầu thanh quản thường xuất hiện với các giả mạc tại thanh quản hoặc từ vòm họng lan xuống bên dưới. Bệnh bạch hầu thanh quản biểu lộ tình trạng nhiễm độc nhiễm trùng. Bệnh này thường gặp ở trẻ em từ 2 – 7 tuổi nên còn gọi là bạch hầu thanh quản ở trẻ em. Bệnh thường lây qua các hoạt động tiếp xúc như nói chuyện trực tiếp, ho, hắt hơi,... giao lưu giữa người lành và người bệnh.

    • Bạch hầu cấp: Bệnh bạch hầu cấp (bạch hầu ác tính) thường xuất hiện từ 3-7 ngày sau khi khởi phát. Người bệnh sốt cao từ 39-40 độ C, tình trạng nhiễm trùng, nhiễm độc nặng, giả mạc trắng ngà lan rộng, hạch cổ sưng to làm biến dạng cổ dẫn đến hình cổ bạnh.

    • Bạch hầu ngoài da: Đây là loại bạch hầu hiếm gặp nhất, đặc trưng bởi phát ban da, xuất hiện vết loét hoặc mụn nước ở bất kỳ đâu trên cơ thể. Bệnh bạch hầu da phổ thông hơn ở các quốc gia thuộc vùng khí hậu nhiệt đới hoặc những nơi có mật độ dân cư đông đúc, điều kiện sống và vệ sinh chưa được tốt.


Hầu họng là nơi trú ẩn của vi khuẩn bạch hầu


4. Vi khuẩn bạch hầu có ở đâu?

Vi khuẩn bạch hầu có trong cơ thể người bệnh và người lành mang mầm bệnh.

Ở bên ngoài cơ thể, vi khuẩn bạch hầu có thể chịu được khô và lạnh, có thể sống trên đồ vật từ vài ngày đến vài tuần, sống được 30 ngày trên đồ vải, 20 ngày trong sữa, nước uống và trên 2 tuần trong tử thi.

Tuy nhiên, vi khuẩn bạch hầu sẽ chết trong vài giờ dưới ánh sáng mặt trời. Ở nhiệt độ 58 độ C, vi khuẩn bạch hầu tồn tại trong khoảng 10 phút.



5. Triệu chứng, dấu hiệu để nhận biết bệnh

Khi vi khuẩn bạch hầu phát triển trong lớp lót ẩm bên trong mũi và cổ họng sẽ bắt đầu tạo ra một lượng lớn chất độc. Chất độc này giết chết các tế bào và tạo ra một lớp màu trắng đục gọi là giả mạc. Giả mạc được hình thành từ tế bào chết, vi khuẩn, chất thải và protein.

Giả mạc này có thể bao phủ các mô mũi, amidan, thanh quản và phần còn lại của cổ họng. Đây là triệu chứng rõ ràng nhất của bệnh bạch hầu và có thể khiến bệnh nhân khó thở và khó nuốt.

Từ cổ họng, chất độc có thể xâm nhập vào máu và gây ra nhiều tổn thương cho các mô và cơ quan khác trên khắp cơ thể.

Các triệu chứng có thể có của bệnh bạch hầu bao gồm:

• Đau họng

• Cổ sung to

• Khó thở

• Nói khó

• Sốt và ớn lạnh

• Mệt mỏi

• Chảy nước mũi



6. Các biến chứng của bệnh bạch hầu

Nếu không điều trị, bệnh bạch hầu có thể dẫn đến các biến chứng nguy hiểm như sau:

• Nghẽn đường thở

• Tổn thương tim (viêm bắp thịt tim)

• Tổn thương thần kinh (bệnh đa dây thần kinh)

• Mất khả năng di chuyển (tê liệt)

• Suy thận

• Tử vong



7. Điều trị như thế nào

Bạch hầu đã có phác đồ điều trị. Các bác sĩ sẽ chỉ định loại thuốc để chống lại độc tố do vi khuẩn tạo ra bằng cách chích tĩnh mạch hoặc truyền tĩnh mạch. Bệnh nhân cũng sẽ cần dùng thuốc trụ sinh – điển hình là penicillin – để tiêu diệt vi khuẩn bạch hầu trong cơ thể.

Nếu các triệu chứng của bệnh rất nghiêm trọng và khiến bệnh nhân khó thở. Khi đó sẽ cần can thiệp với máy thở.

Thông thường, bệnh nhân sẽ cần nghỉ ngơi từ 4 đến 6 tuần.

Nếu trong nhà có người nhiễm bệnh, không ai nên đến gần bệnh nhân.

Bác sĩ cũng sẽ cần điều trị cho các thành viên thân thiết trong gia đình nếu bạn được chẩn đoán mắc bệnh bạch hầu. Họ cũng sẽ được dùng thuốc trụ sinh để bảo đảm vi khuẩn không lây lan thêm.

Thu Anh biên tập


Tài liệu tham khảo:

Bệnh bạch hầu, Pan American Health Organization.

Bệnh bạch hầu, World Health Organization.

Về Đầu Trang
Mây tím



Ngày tham gia: 24 Oct 2007
Số bài: 10922

Bài gửiGửi: Mon Jul 15, 2024 11:14 pm    Tiêu đề: Biến chứng nguy hiểm của bệnh bạch hầu

Biến chứng nguy hiểm của bệnh bạch hầu

Vi khuẩn bệnh bạch hầu


Một người bị nhiễm trùng, nhiễm độc do vi khuẩn bạch hầu có thể tử vong rất nhanh trong khoảng 7 ngày nếu không được phát giác và điều trị kịp thời.

Bạch hầu là căn bệnh nhiễm khuẩn cấp tính, do vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae gây ra, có thể làm bệnh nhân tử vong trong vòng 6 – 10 ngày, với tỷ lệ tử vong lên đến 20%.

Đây là bệnh nhiễm khuẩn cấp tính có giả mạc ở tuyến hạnh nhân, hầu họng, thanh quản, mũi, khí phế quản, trong đó 70% là bạch hầu họng. Bệnh có thể xuất hiện ở da, các màng niêm mạc khác như kết mạc mắt hoặc bộ phận sinh dục.

Thời gian ủ bệnh

Vi khuẩn Corynebacterium diphtheriae có 3 tuýp là Gravis, Mitis và Intermedius.

Khi ở bên ngoài cơ thể, chủng vi khuẩn này có sức đề kháng cao và chịu được điều kiện khí hậu khô, lạnh. Nếu được chất nhầy bao quanh, vi khuẩn có thể sống vài ngày, thậm chí vài tuần trên đồ vật.

Tuy nhiên, khi chịu sự tác động của ánh nắng mặt trời, vi khuẩn sẽ chết sau vài giờ. Dưới nhiệt độ 58 độ C, vi khuẩn chỉ sống được 10 phút; đối với phenol 1% và cồn 60 độ, vi khuẩn chỉ sống được 1 phút.

Khi vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể, nó sẽ tạo thành một ổ chứa, tồn tại ở cả người bệnh và người lành. Đây cũng là nguồn truyền bệnh chủ yếu.

Thời gian ủ bệnh trung bình từ 2 – 5 ngày. Thời kỳ lây lan bệnh có thể kéo dài khoảng 2 tuần hoặc ngắn hơn, ít nhất là trên 4 tuần.

Người lành mang vi khuẩn bạch hầu có thể từ vài ngày đến 3, 4 tuần; hiếm có trường hợp mang vi khuẩn mạn tính kéo dài trên 6 tháng.

Vi khuẩn lây qua đường hô hấp do tiếp xúc với người bệnh hoặc người lành mang vi khuẩn bạch hầu. Ngoài ra, việc tiếp xúc với đồ vật có dính chất bài tiết từ người bệnh cũng có thể gián tiếp lây lan virus.

Khi một người bị nhiễm trùng, nhiễm độc do vi khuẩn bạch hầu có thể dẫn đến tử vong rất nhanh trong khoảng 7 ngày nếu không được phát giác và điều trị kịp thời.

Ai dễ mắc bệnh bạch hầu?

Bệnh bạch hầu có thể lây lan ở mọi độ tuổi, nhưng nguy cơ sẽ cao hơn khi bạn thuộc vào một trong những nhóm dưới đây:

    • Trẻ em và người lớn chưa được tiêm vaccine phòng bệnh.

    • Người đi du lịch đến vùng dịch tễ.

    • Những người sống trong điều kiện đông đúc, mất vệ sinh.

    • Trẻ em dưới 15 tuổi chưa có miễn dịch.

    • Trẻ sơ sinh có miễn dịch thụ động từ mẹ truyền sang con nên không dễ mắc bệnh. Tuy nhiên, miễn dịch thụ động sẽ mất đi khi trẻ 6 tháng đến 1 tuổi. Nếu không được tiêm vaccine, trẻ có nguy cơ mắc bệnh cao.

    • Những người suy giảm miễn dịch rất dễ mắc bệnh và có tỷ lệ tái nhiễm bệnh từ 2%-5%.

Các triệu chứng của bạch hầu dễ lầm lẫn với cảm cúm. Nhưng so với người mắc bệnh cảm cúm, người bệnh bạch hầu vừa nhiễm trùng, nhiễm độc nên mặt rất đừ. Do đó khi thấy đau viêm họng nhiều, đừ người, có giả mạc trắng nên nhanh chóng đến cơ sở y tế để khám sức khỏe.

Các biểu lộ của bệnh bạch hầu sẽ khác nhau và phụ thuộc vào vị trí vi khuẩn gây bệnh:

    • Mũi trước: Sổ mũi, chảy ra chất mủ nhầy đôi khi có máu, có màng trắng ở vách ngăn mũi. Người mắc bệnh này thường nhẹ do độc tố vi khuẩn ít xâm nhập vào máu.

    • Hầu họng và amidan: Mệt mỏi, đau cổ họng, chán ăn, sốt nhẹ. Sau 2, 3 ngày xuất hiện một đám hoại tử tạo thành lớp giả mạc màu trắng xanh, dai và dính chắc vào amiđan, hoặc có thể lan rộng bao phủ cả vùng hầu họng. Một số bệnh nhân có thể sưng nề vùng dưới hàm và sưng các hạch vùng cổ. Đối với người bị nhiễm độc nặng sẽ phờ phạc, xanh tái, mạch nhanh, đờ đẫn, hôn mê. Nghiêm trọng hơn, những bệnh nhân này có thể tử vong trong vòng 6 – 10 ngày.

    • Thanh quản: Có dấu hiệu sốt nhẹ, khàn tiếng, ho, các giả mạc tại thanh quản hoặc từ hầu họng lan xuống. Với trường hợp nghiêm trọng, các giả mạc có thể gây tắc đường thở, làm bệnh nhân suy hô hấp và tử vong nhanh chóng.

Biến chứng nguy hiểm của bệnh bạch hầu

Người mắc bệnh bạch hầu nếu không được điều trị kịp thời, có thể dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm và tử vong.

    • Biến chứng thông thường nhất là viêm bắp thịt tim và viêm dây thần kinh. Độc tố bạch hầu có thể ảnh hưởng đến tim, gây rối loạn nhịp tim, suy tim và có thể tử vong. Tình trạng này có thể xảy ra ở giai đoạn toàn phát hoặc có thể chậm vài tuần sau khi người bệnh khỏi. Đối với dây thần kinh, nó cũng có thể gây ra các biến chứng tê liệt các dây thần kinh vận nhãn, bắp thịt tứ chi. Tình trạng này có thể phục hồi hoàn toàn nếu bệnh nhân không tử vong vì những biến chứng khác.

    • Vi khuẩn bạch hầu sẽ tạo lớp màng giả màu trắng bám vào trong vòm họng, các lớp màng này lan ra nhân lên có thể gây lấp đường hô hấp, ngạt thở, suy hô hấp cho người bệnh.

    • Dây thần kinh bàng quang bị ảnh hưởng, khiến bệnh nhân gặp các triệu chứng như đi tiểu thường xuyên, tiểu rắt, mất kiểm soát bàng quang...

    • Bắp thịt hoành có thể bị tê liệt rất đột ngột, kéo dài hơn nửa giờ hoặc lâu hơn. Nếu bắp thịt hoành tê liệt, ngừng hoạt động, người bệnh có nguy cơ tử vong.

    • Trong trường hợp bắp thịt hoành bị liệt hoàn toàn, triệu chứng khó thở sẽ biểu lộ thường xuyên hơn, có thể gây viêm phổi và suy hô hấp.

    • Liệt màn khẩu cái (màn hầu) là một biến chứng khác có thể gặp ở bệnh bạch hầu, thường xuất hiện vào tuần 3 của bệnh. Liệt các dây thần kinh vận nhãn, liệt bắp thịt tứ chi và bắp thịt hoành có thể xuất hiện vào tuần thứ 5 của bệnh. Viêm phổi và suy hô hấp có thể xuất hiện do hậu quả liệt bắp thịt hoành. Ở trẻ em có thể gặp các biến chứng như viêm kết mạc mắt hoặc suy hô hấp.

(theo Chấn Hưng)

Về Đầu Trang
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Sức Khỏe và Y Học Thời gian được tính theo giờ GMT - 4 giờ
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn

    
Powered by phpBB © 2001, 2005 phpBB Group
Diễn Đàn Trung Học Duy Tân