Gửi: Mon Jan 25, 2021 3:17 am Tiêu đề: TRANG VĂN - SỎI NGỌC
Sám hối
Như ngày hội hoa đăng, ngày nhập học tại trường nam trung tiểu học Lasan Taberd, tất cả các nam sinh đều mặc quần dài xanh đậm, áo trắng còn thơm mùi vải mới cắt, giày bata trắng, tụm năm, tụm bảy cười đùa náo nhiệt, tâm sự kể cho nhau nghe những chuyện trong ba tháng hè vừa qua đã làm gì. Lác đác trong góc sân trường có những bạn lạc lõng đứng yên lặng đưa mắt nhìn quanh tìm một gương mặt quen biết trong số hàng mấy trăm học sinh …
Các freres đứng trên bục cao nhận học sinh cho năm học mới. Ai cũng mặc áo dài màu đen đến tận gót. Họ phấn khởi nhìn từng đoàn học sinh tuy huyên náo nhưng thật vô tư thánh thiện trong những chiếc áo trắng học sinh giữa sân trường.
Tất cả các em trung tiểu học đứng xếp hàng thật ngay ngắn dưới cột cờ theo lớp của mình sau khi tiếng chuông reo báo hiệu giờ tập trung, yên lặng nghe vị giám hiệu của trường, mái tóc hoa râm, với đôi kính trắng trễ xuống mũi, dõng dạc nói lời chào mừng những học sinh mới vừa ghi danh cho năm học mới và hân hoan đón những người cũ tiếp tục theo học trường.
Tôi từ Dalat chuyển xuống Saigon theo gia đình, bố tôi được nhậm chức vị mới cao hơn ở Saigon, hòn ngọc Viễn Đông, thủ đô miền Nam Việt Nam.
Tôi bước vào trường với những bước chân lưỡng lự bỡ ngỡ vì tôi biết cuộc đời mình sẽ hoàn toàn thay đổi ở thành phố lớn này, tại ngôi trường mới với những bạn bè và sinh hoạt mới so với thành phố nhỏ bé yên lặng và êm đềm của Dalat.
Chúng tôi theo hàng vào lớp. Lớp tôi nằm ở cuối hành lang.
Gọi là vào trung học, tưởng đã trưởng thành nhưng khi nhìn sang bên cạnh, tôi bắt gặp một cặp mắt tròn to lóng lánh, rất lạ với mái tóc ngắn à la garconne, khuôn mặt mang một chút nét… con gái, chiếc mũi thẳng cao, chiếc miệng vuông vắn; hắn đang nhìn về phía tôi và rút trong cặp ra con gấu bông trắng thật xinh, dụ tôi:
- Thích không? …giữ đi!
- … cho mình sao?
- Ừm… tặng đó!... tên gì?
- Thiêm… Còn bạn?
- Tuệ Khanh…
- …con gấu trắng bông… thật đẹp quá, mình rất thích! Cám ơn Tuệ Khanh nhe.
- Thiêm… không phải là học sinh cũ của trường phải không? từ đâu vào vậy?
- Mình từ Dalat…
- Ah! …hèn chi đôi má lúc nào cũng hồng hồng, đẹp ghê…
Tôi bỗng đỏ mặt thêm:
- Saigon, con trai da nâu ngăm ngăm trông thật mạnh khỏe!
- Tuệ Khanh rất thích nhìn …đôi má hây hây… Chút nữa giờ ra chơi … mình cùng đi ăn chung nhe.
Mới nhập học, tôi chưa kịp quen ai trong lớp, đã gặp Tuệ Khanh, hắn quấn lấy tôi từ đầu đến cuối giờ, hết tặng tôi con gấu lại lấy đồ ăn trưa cho tôi ăn chung. Cái nhìn chăm chú kỳ lạ của hắn làm tôi cảm thấy không mấy an toàn, nhưng nghĩ lại hắn chỉ muốn làm thân với tôi thôi, tại sao tôi lại có ý nghĩ nghi ngờ về lòng tốt của hắn chứ, nên cố gắng xua đuổi ý nghĩ ấy ra khỏi đầu.
Tình bạn chúng tôi bắt đầu từ đó, hắn hay bảo tài xế đến đón tôi đi học cùng với hắn, nhưng hôm nay tôi muốn làm một bất ngờ cho hắn! Bố mẹ tôi đã đi làm từ sáng sớm, tôi cố ý đạp xe qua nhà hắn trên con đường Trần Quý Cáp để rủ hắn đi học.
Không hẹn gì cả, tôi muốn giành một ngạc nhiên cho hắn nên dấu chiếc xe đạp ở một nơi hơi xa nhà hắn rồi đi bộ lại phía sau nhà, tôi tưởng tượng khuôn mặt hắn với chiếc miệng há hốc ngạc nhiên vì sao tôi lại biết địa chỉ nhà hắn mà đến đúng phóc!
Từ xa, ngôi nhà hắn sừng sững rộng lớn, ba tầng, chắc phải là nhà giàu, trong sân có hai chiếc xe to một đen và một trắng, chiếc màu đen tôi đã thấy tài xế thường chở hắn đến trường rồi, thỉnh thoảng ba hắn cũng đến đón hắn bằng chiếc này.
Vòng ra phía sau nhà để nấp cho kín, tôi nghe tiếng ba hắn nói thật to:
- Bà đừng có thương chiều nó quá nhe, nó sẽ hư cho mà xem, cứ mua ba cái thứ đồ gì đâu cho con mặc à…Nó là con trai đó!!
- Nó thích vậy mà ông!
- Thích thì thích chứ, giống gì phải ra giống đó, nửa nạc nửa mỡ là tôi đánh cho chết đó! Tôi không chứa mấy thứ đó đâu!
- Thôi thôi, ông đừng có la nữa… mới sáng sớm cho con ăn uống rồi đi học đi, rồi tối về mình từ từ dậy nó …
- Mới sáng ra đã thấy nó ăn mặc mấy thứ đó là tôi sẽ….đem đốt hết!
Tôi nghe tiếng ông hứ giận dữ bỏ lên lầu.
Bỗng mẹ hắn đi về phía sau nhà, thấy bóng tôi lấp ló, bà gọi to:
- Cháu… là bạn của Tuệ Khanh phải không?... đi học hả cháu? Để bác gọi nó!
Bà bước lên vài bậc cầu thang:
- Khanh à, có bạn con tới rủ đi học nè!
- Vâng ạ! Con xuống ngay!
- Thay đồ đi hãy xuống nhe, mẹ có để bộ đồng phục ủi thẳng ngay cửa tủ đó con.
- Dạ, con thấy rồi!
Bà quay sang tôi hỏi :
- Con đến hồi nào sao không bấm chuông đi cửa trước mà…
- Con xin lỗi bác, con tính làm ngạc nhiên cho bạn Khanh….
- Ừm… không sao đâu, lần sau đi phía trước để Tuệ Khanh ra đón con vào chơi nhe!
- Dạ vâng!
- Nhà con có gần đây không?
- Dạ nhà con trên đường Sương Nguyệt Ánh ạ!
- Hai đứa đi xe đạp cẩn thận, ngoài đường xe như mắc cửi…
- Thưa bác con đi!
Tuệ Khanh với mái tóc mượt đen mun, dài che lỗ tai, cắt ấp vào khuôn mặt, với đôi hàng lông mi dài rậm, cong lên trông giống như con búp bê không hơn không kém; hắn đạp xe trước tôi thật nhanh nhẹn, dáng người dài thon, lâu lâu ngoái lại nhìn chừng xem tôi có lạc hắn không vì tôi là dân mới vào thành phố đông đúc nên chưa biết đường nhiều bằng hắn.
Chúng tôi cùng nhau đi học như thế được nửa năm, tình bạn thắm thiết hơn, hắn lo cho tôi và để ý đến cách ăn uống của tôi, biết tôi thích những món gì, hắn mang đồ theo buổi trưa cho tôi ăn, không thích tôi chơi với các bạn khác, hắn kiếm chuyện khi thấy tôi đứng nói chuyện lâu với một người bạn nào đó trong lớp; có lúc tôi giảng thích lâu về một bài toán cho một bạn ngồi cạnh …cũng bị hắn cằn nhằn một chập.
Tôi rất quý hắn, nhưng tính tôi không thích giải thích dài dòng, hay trầm ngâm, thích đọc sách, tuy ít nói nhưng vẫn thích có người bạn ngồi cạnh, Tuệ Khanh lúc nào cũng thao thao bất tuyệt, kể đủ thứ chuyện, từ lúc đầu giờ học đến cuối buổi, đến nỗi khi thấy tôi có vẻ lơ là nghe hắn nói là hắn kéo khuôn mặt tôi lại đối diện với khuôn mặt hắn, hắn châu môi dí sát vào mặt tôi :
- Có nghe Khanh nói không hở? sao cứ đọc sách hoài vậy? trong sách có gì hay chớ!
Tôi chưa kịp đối đáp, hắn đã giằng quyển sách khỏi tay tôi, tôi nhấc mặt lên, hắn xuýt đặt lên môi tôi ….một nụ hôn!!
Tôi giật mình, hắn lấy tay bụm miệng lại, tôi lùi lại phía sau, quyển sách bất thần rơi xuống đất, hai mắt căng to ngạc nhiên, tôi chưa kịp nói câu gì, hắn đã tiến lại sát tôi, một tay bịt miệng tôi, một tay ôm qua người tôi, cặp mắt van lơn :
- Thiêm…. Đừng… đừng… la!... mình rất thích bạn!
- Khanh…nói gì vậy?
- Khanh nói thật … Thiêm đừng cười, đừng xua đuổi mình nhe, cũng đừng sợ mình, ai cũng tránh né mình cả, mà thực ra mình đâu có bệnh gì đâu chứ, chỉ là… mình …mình…
Khanh bỏ tay ra khỏi miệng tôi, nhìn xung quanh xem có ai nhìn chúng tôi không, xong không thấy gì, hắn có vẻ yên tâm, kéo tôi ngồi lại xuống ghế. Trong cơn hoảng loạn, tôi ngồi tuột ra đầu ghế cách xa hắn gần hai thước vừa đưa hai tay xô hắn ra.
Nước mắt hắn bắt đầu nhỏ giọt, vừa bị chạm tự ái lẫn tổn thương vì hành động xua đuổi của tôi, hắn chậm nước mắt liên hồi để những bạn khác không thấy cảnh kỳ quặc của hai đứa con trai ngồi nói chuyện bên nhau mà có một đứa đang khóc giống như cảnh đôi trai gái đang giận hờn vậy.
Lúc này tôi mới nhìn hắn thật kỹ, mái tóc ngắn bum bê ôm sát với khuôn mặt, cặp mắt với ánh nhìn thật ướt át, dưới cặp lông mi cong dài như con gái, dáng người mình dây, chả lẽ hắn là…là… con gái sao? mà giống … con gái hơn là con trai! Nhưng mà… ngồi trước mặt tôi là … đứa con trai cơ mà, tôi không hiểu nổi tại sao tôi lại có ý nghĩ kỳ quặc như thế nữa! Nếu hắn là con trai thì tại sao hắn lại muốn… hôn tôi lúc nãy?
Tôi bàng hoàng, chờ cho tim bớt đập mạnh, lên tiếng :
- Khanh… Khanh…hãy nói cho Thiêm biết…
- Khanh là….
- …
- Khanh không phải là… con trai!
- Vậy… Khanh là ….
- Là … con gái!
Theo phản xạ tự nhiên, tôi bật dậy khỏi chiếc ghế đá, đứng ra phía sau và dựa người vào ghế cho khỏi té, tôi nhìn xung quanh xem có ai nghe được mẩu đối thoại của chúng tôi không,… Còn những ai như thế nữa trong sân trường này đang dấu diếm thân phận của mình không? hay trong nghìn người mới có một như …Khanh?
Chuyện gì vậy? chuyện gì đang xảy ra vậy? tôi không thể tin được vào đôi tai của chính mình nữa! Người cùng tôi đi học mỗi sáng, cùng tôi làm bài chung, ăn chung cùng mâm, có lúc nằm lăn ra giữa bãi cỏ, gối lên chân nhau, mặc chung một chiếc áo mưa…tại sao bỗng nhiên biến thành một người khác… phái vậy? tôi muốn bịt tai lại để khỏi nghe câu chuyện hoang đường từ miệng hắn!
Trong khoảnh khắc thực tại, tôi cảm thấy thật bất mãn, thật ghét hắn, hận hắn và thấy hắn đã giả dối, lợi dụng tình bạn đẹp đẽ bao lâu nay của tôi để rồi ném cho tôi cái kết quả đã rồi! Nếu tôi chơi với hắn tiếp tục nữa thì có phải là tôi … cùng chấp nhận cái giới tính kỳ quặc của hắn không chứ! Rồi tôi sẽ bị các bạn nam khác tẩy chay, kể cả phái nữ cũng không muốn gần tôi nữa!
Bất giác tôi vụt bỏ chạy như ma đuổi vào lớp, không thèm quay nhìn lại hắn, tôi cảm thấy thật ghê tởm hắn! tim đập thình thịch trong lồng ngực, tôi xấu hổ vì hắn, xấu hổ vì tình bạn đã cho hắn cả nửa năm qua. Chạy vào toilet nam, tôi soi khuôn mặt tôi trong gương, không biết có dính chút nước miếng nào của hắn trên khóe môi hay không, tôi vội vàng mở vòi nước thật to, để nước chảy ồ ạt thật mạnh trên mặt để làm trôi đi sự kinh tởm nhơ nhuốc ấy.
Những ngày tiếp theo đến trường, tôi không thèm để ý đến hắn, không thèm nhìn về phía chỗ hắn ngồi xem hắn có mặt hay không nữa, trong tôi như khối núi lửa đang phun nham thạch, bất mãn cái hình hài hắn vừa tuyên bố với tôi, tôi cảm thấy mình khinh bỉ hắn quá! Tôi mong hắn đừng bao giờ xuất hiện trước mặt tôi nữa!
Một tuần trôi qua, tôi không bóng dáng hắn đến trường, có lẽ vì tự ái hay vì xấu hổ đã không dám vào lớp. Một chút lo lắng thoáng qua trong đầu, không biết hắn có bị gì không? Đầu óc tôi quay cuồng với những ý nghĩ không hay về hắn! Mặc dù đã nói mặc kệ hắn, khinh bỉ hắn, nhưng sao tôi cứ bị dằn vặt vì những kỷ niệm đẹp của tình bạn hơn nửa năm qua…
Đang đạp xe gần đến đầu đường nhà, bất giác tôi nghe tiếng gọi nhỏ :
- Thiêm… Thiêm…
Tôi quay đầu ngoái lại, hắn xuất hiện từ một gốc cây, trông khuôn mặt có vẻ hốc hác hơn trước, hắn dắt xe đạp lại gần tôi :
- Có thể… nghe Khanh nói một chút được không?
Tôi vội nhìn quanh mình… hắn trấn an tôi :
- Ở đây không có ai rình mình đâu, cũng chả có bạn nào trong trường đi qua đây vào giờ này đâu, Thiêm đừng lo …Khanh hỏi thật Thiêm, có phải Thiêm giận và ghét Khanh lắm không? Khanh xin lỗi Thiêm nhe, thật tình Khanh cũng không muốn để Thiêm biết thân phận của mình lúc này, nhưng không hiểu sao Khanh lại làm vậy nữa, cũng chỉ tại vì Thiêm thật dễ thương, từ ngày quen Thiêm, Khanh chỉ muốn sau này được làm ….người yêu của bạn mà thôi! Khanh nói thật đó!... Khanh biết Thiêm không thể chấp nhận… nhưng …. Khanh muốn nói sự thật này cho Thiêm biết, không muốn dấu diếm, cũng không muốn tránh né thực tế nữa…
- Vậy gia đình bạn đã biết … chuyện này chưa? … Có đồng ý không?
- Có! ở nhà mẹ đã biết Khanh là con gái, bà vẫn rất yêu quý và tôn trọng sự lựa chọn của Khanh, nhưng ba thì… không chấp nhận, ông vẫn cứ nói là Khanh bị ma nhập, là Khanh chỉ muốn đóng kịch giả vậy thôi, rồi theo thời gian sẽ trở thành con trai. Thiêm biết đó, gia đình của Khanh chỉ có mình Khanh thôi, nếu Khanh mà có bị gì thì mẹ không thể sống nổi đâu! … còn ba …thì mẹ đang thuyết phục ba chấp nhận!
- Tại sao ngay từ đầu Khanh không nói chuyện này cho Thiêm biết? Khanh đã lừa dối mình, lừa dối tình bạn đẹp đẽ … để rồi bây giờ mới nói thật cho mình biết!
- Hãy hiểu cho Khanh, Khanh không thể nào nói chuyện này cho ai nghe được đâu, trừ khi người đó là… người yêu của Khanh…
Vừa nói đến đó, những giọt nước mắt nhỏ xuống má Khanh, làm ướt cả quyển sách hắn ôm trước ngực. Lòng tôi nặng xuống theo từng giọt nước mắt của người bạn thân, tôi nghĩ hắn bị bệnh hơn là chấp nhận thực tế con người của hắn, tôi ái ngại nói :
- Bây giờ Thiêm đã hết … giận Khanh, nhưng không muốn… mình tiếp tục làm bạn nữa, hãy về… chữa bệnh đi, đến khi nào hết … thì hãy đến gặp Thiêm!
Tôi quay đầu xe đạp và định đạp đi, hắn nắm chặt xe tôi :
- Khiêm! Đừng bỏ Khanh, …Khanh sẽ chết nếu bạn bỏ mình!
- Xin lỗi Khanh!
- … đừng hối hận sau này đó!
Trong lòng tôi đầy dằn vặt, vừa tức tối, vừa thương, giận…Tôi cắm đầu đạp xe và không muốn nghe lời trần từ nào nữa từ chiếc miệng bệnh hoạn kia!
Sau lần đó, chúng tôi không gặp nhau nữa, tôi nhất quyết xin đổi trường!
Miền Nam Việt Nam cùng lúc có vấn đề chính trị thật gây cấn, những đường phố đều bị ngăn cấm, hoàn cảnh sôi sục vào lúc ấy; dân quân kẻ ở người đi, cả một đất nước rối tung lên lẫn với máu và nước mắt!
Gia đình tôi cùng nhau rời khỏi quê hương trong vội vã hoảng loạn không để lại lời giã biệt cho một ai…
Qua đến Canada, bố mẹ tôi bắt tay vào tìm việc, tôi phải tiếp tục học lại, cuối tuần phải làm thêm một chân chạy bàn ở những nhà hàng để phụ tiền nhà cho bố mẹ. Tôi không còn thì giờ để nhớ đến một ai nữa vì khi nằm xuống mỗi đêm là hai mắt nhíu lại không cho phép tôi nhớ đến quá khứ hay mộng mị…
Như chiếc thoi đưa…20 năm trôi qua…
Phải chật vật lắm tôi mới học xong ngành dược, giờ đã 34 tuổi, may mắn tôi làm dược sĩ cho pharmacie do chính tôi làm chủ; bố mẹ tôi sắp về hưu và cứ mãi hối thúc vợ chồng tôi sanh con để ông bà có cớ về hưu trông cháu. Vợ chồng tôi mới lấy nhau được một năm thôi nên chưa tính đến chuyện con cái, chúng tôi còn muốn đi chơi đây đó trước khi thực sự bận rộn chuyện gia đình.
Vợ tôi làm bác sĩ phụ khoa nên thời gian với gia đình còn hiếm hơn tôi, nhưng lúc nào cũng rất chu đáo. Nàng phone tôi dặn dò :
- … Hôm nay em lại phải có hẹn với khách, sẽ về nhà trễ, nếu anh đói thì ăn trước đi nhe!
- Không! anh sẽ chờ em về cùng ăn … em trễ nhiều không?
- Cái hẹn cuối của em là 5 :00pm
- Ok không sao, anh cũng xong khoảng 5 :00 hơn, sẽ mua đồ làm sẵn rồi về nhà chờ em về luôn…
- Nếu anh đói cứ ăn trước…
- Ừm được mà… cẩn thận em nhé!
- Vâng, bye anh!
Nàng và tôi quen nhau khi cả hai cùng học đại học, nàng như con mọt sách suốt ngày trong thư viện, tôi cũng không thua gì nên cả hai đã gặp nhau vào một ngày cuối tuần trên sân thượng của thư viện, nơi mà chẳng có ai lên đến cả, rất xa phòng đọc chính và thật yên ổn không ai làm phiền!
Chúng tôi mỗi đứa một chồng sách cao ngất, học từ sáng đến chiều khi mặt trời đã lặn, ánh sáng tự nhiên không đủ để đọc sách nữa thì chúng tôi mới cùng giao nhau ở đầu cầu thang dẫn xuống phòng đọc chính, những câu chào hỏi thông thường mỗi tuần đã làm chúng tôi xích lại gần nhau, nhất là những tách café nóng hổi vào mỗi sáng thứ bảy tôi bất chợt mua đến cho người cùng yêu sách cạnh tôi… không ngờ lại làm nàng cảm động và như nàng thường nói với tôi là tuy đôi mắt để trên trang sách nhưng trái tim thì đập cùng nhịp với chàng bốn mắt ngồi cách đó không xa. Bố mẹ nàng không có mặt ở Canada nên nàng xem tình yêu thương của gia đình tôi đối với nàng thật trân quý mỗi lần tôi dắt nàng về nhà ăn cơm với gia đình….
Tình cảm dần nẩy nở từ một tình bạn bình thường đến thành vợ chồng một cách nhẹ nhàng và đơn giản như thế.
Ngày nàng ra trường bác sĩ chỉ mình gia đình tôi là người gần gũi nhất, đến chúc mừng với nàng, nàng đã cảm động và ôm chặt cổ tôi, mặc cho những dòng nước mắt chảy ướt cổ áo trắng tinh mà tôi đã định mặc để cho buổi lễ đăng quang của tôi sau đó….
Chúng tôi đã thành vợ chồng được một năm nay, nghĩ lại giống như một câu truyện cổ tích khó tin mà có thật!
Mới năm giờ thôi nhưng nhìn ra đường đã thấy xụp tối, tôi nghĩ chắc nàng đang có cuộc hẹn với khách, tôi ghé vào chợ mua ít đồ ăn về làm bữa tối rồi chờ nàng về dùng cơm luôn, cũng tiện trên đường về nhà.
Lúc ra trả tiền ở quầy, một cô gái chạy theo đưa tôi chiếc khăn quàng:
- Anh… anh làm rơi chiếc khăn quàng ở đàng kia…
- Cám ơn cô!
Tôi nhận lại chiếc khăn quàng đã đánh rơi lúc nãy ở quầy bánh mì, ngước mặt nhìn cô gái vừa trả lại cho tôi. Cô có mái tóc dài thật mượt dài ngang lưng rất đẹp, chiếc miệng vuông vắn, khuôn mặt có vẻ như quen quen mà tôi không thể nào nhớ ra đã gặp ở đâu.
Cô ta cũng nhìn lại tôi thật lâu, bất ngờ trong đôi mắt lộ vẻ vui mừng, rồi lại cúi đầu xuống như che dấu cảm xúc. Một chút lính quýnh trong hành động…
Bỗng cô vụt bỏ đi thật nhanh về hướng cửa ra khỏi chợ, bỏ lại cả chiếc xe đầy đồ ăn đã chọn từ lúc nãy!
Tôi ngoái lại nhìn giỏ xe hàng của cô ta, một quyển sách bị bỏ quên nằm hờ hững trên những gói đồ trong lúc quá vội vàng bỏ đi.
Tôi nhanh tay với lấy quyển sách, tung người chạy theo cô ra ngoài cửa để trả; nhưng vừa ra khỏi cửa thì thấy chiếc xe hơi trắng của cô lao vút thật nhanh qua mặt tôi như sợ trễ hẹn…hay …lẩn trốn!
Tôi quay lại chợ, suy nghĩ mông lung về cô gái với những hành động lạ lùng ấy, trả tiền hàng hóa và ôm luôn cả quyển sách của cô gái về nhà một cách vô thức….
Vừa chờ nồi thịt chín, vừa tiện tay tò mò lật vài trang sách của cô gái lạ mặt lúc nãy để quên, từ trong ấy rơi xuống đất một tấm hình, tôi nhặt lên…
Tuệ Khanh! Tuệ Khanh đây mà…. Người bạn học dưới trung học với tôi hồi lớp tám ở Taberd, không thể nào tôi quên được! tại sao tấm hình này lại rơi ra từ quyển sách này?? khuôn mặt bầu bĩnh thật trẻ với đôi mắt trong sáng, với hàng lông mi thật dài như con gái, khuôn miệng rộng hơi vuông vắn nhất quyết làm gì cũng phải đạt mục đích, mái tóc cắt úp ôm lấy khuôn mặt con gái! Tấm hình còn thơm mùi giấy mới cắt … hình như mới rửa in lại ngày hôm nay, tôi thầm nghĩ :
- Bây giờ bạn ra sao? bạn khỏe không? … mà sao cô con gái mảnh khảnh hồi chiều lại có tấm hình này của bạn? …bạn là gì của cô ta? Nếu tính về tuổi tác từ thuở đó đến bây giờ thì bạn không thể làm con được vì cô ta cũng không lớn tuổi hơn để làm mẹ! tôi cũng biết bác gái mẹ của bạn, không phải là cô gái hồi chiều ....vậy bạn là gì của cô ta? Em trai? Hay …một người bạn trai? … mà hồi xưa bạn đâu muốn làm con trai? Bạn còn muốn làm… người yêu của tôi mà!
Tôi lắc đầu không hiểu nổi tấm hình này có quan hệ thế nào với cô gái hồi chiều nữa!
Nhưng phải công nhận cô gái ấy có nụ cười y hệt Tuệ Khanh!... chả lẽ….
Ngay lúc ấy, tiếng khóa lách cách mở cửa, vợ tôi xuất hiện, nàng hít hít ngửi :
- Anh đang làm món gì mà ngon thế? Em ngửi thấy mùi thơm bay ra tận ngoài cửa..
- Em đói chưa?
- Dĩ nhiên đói lắm rồi, mình ăn đi anh.
Nàng lại gần bếp nhìn vào nồi thịt kho của tôi, bên cạnh là quyển sách còn mở toang và tấm hình của Tuệ Khanh cũng còn mở trên trang sách ấy.
Nàng nhặt thật nhanh tấm hình lên, mắt dọ hỏi tôi :
- Anh… anh lấy từ đâu tấm hình này?
Tôi còn đang ngạc nhiên chưa trả lời thì nàng tiếp lời :
- Cô … bệnh nhân của em đã … tìm kiếm tấm hình này khá lâu…
- Hình này có quan hệ gì với cô bệnh nhân ấy?
- Là… em đã hứa không thể nói chuyện này ra được đâu!
- Tại sao phải hứa? …bộ quan trọng lắm sao?
- Phải …rất quan trọng!
Tôi thấy nàng có vẻ nhìn về xa xăm như đang nhớ về một chuyện gì đó, có vẻ không muốn nói cho tôi nghe, nàng cất tấm hình vào bóp một cách gọn lỏn:
- Em …xin được giữ nó, cho em xin nhé!
Nàng kiễng chân lên, đặt lên cạnh môi tôi một chiếc hôn ấm áp, như trả giá cho việc mua tấm hình, với tay lấy chiếc bóp và đi thẳng vào buồng tắm!
Tôi thừ người nhìn theo dáng nàng, không hiểu chuyện gì đã xảy ra trong đầu vợ tôi, và cũng chưa kịp giải thích lời nào về bức hình đó cả, không biết nàng có biết tôi đã rất thân với người trong ảnh hay không, sao nàng không tìm hiểu thêm về mối quan hệ quá khứ của tôi với người ấy, mà …lẳng lặng cất tấm hình như thế chứ!
Tôi hơi bất ngờ vì hành động của nàng, cũng …đang chờ câu hỏi của nàng, thế mà…cả hai vẫn cứ yên lặng…Bộ nàng quen biết thân với người ấy? vậy… nàng và Tuệ Khanh có quan hệ gì? So với số tuổi thì Tuệ Khanh bằng tuổi tôi, tức là hơn nàng hai tuổi. Tôi bóp trán suy nghĩ… Nàng có liên hệ ra sao với Tuệ Khanh? Nàng chưa muốn nói hay muốn giấu tôi luôn? Bao nhiêu câu hỏi dồn dập vẫn không có câu trả lời.
Từ xưa đến nay chúng tôi sống bên nhau rất yêu thương hạnh phúc, chưa bao giờ nàng giấu tôi điều gì, nhưng đặc biệt những hồ sơ bệnh nhân thì nàng cũng chưa từng hé lộ cho tôi biết về ai… Nàng làm việc rất nguyên tắc, tôn trọng sự bảo mật cá nhân của khách hàng, và tôi rất tôn trọng điều ấy!
Vợ tôi cầm tách café uống ngon lành và tỉnh bơ sau bữa cơm tối, tay lật tờ báo xem tin tức… Tôi phát tức, muốn tra hỏi về chuyện tấm hình, nhưng không biết bắt đầu từ đâu. Sao nàng lại ung dung tự tại, bình tĩnh như thế chứ? Sao nàng không hỏi tôi làm sao tôi có tấm ảnh đó? Sao nàng không nói cho tôi nghe tí gì về sự quen biết với Tuệ Khanh?
Không thể nào ngồi yên lặng chờ đợi nàng bật mí, và cũng không thể kềm chế được sự tò mò, tôi bèn đi thẳng vào vấn đề:
- Nói cho anh biết, em quen thế nào với người trong tấm ảnh vừa rồi vậy?... xin lỗi em, anh thật sự muốn biết …
Nàng ngước mặt nhìn tôi, trong đôi mắt đầy vẻ ngạc nhiên của nàng như muốn nói với tôi là tại sao tôi lại muốn biết chuyện đời tư quá khứ của ai đó, mà nàng không tiện nói!
Nàng đứng lên bỏ đi, đứng dựa người vào thành cửa số, tư lự. Vẫn giữ im lặng.
Bỗng nàng lên tiếng :
- Có bao giờ… anh kể cho em nghe chuyện anh quen với … cậu bé trong hình chưa?
- …Ưm… cậu bé trong hình là chuyện xưa cũ hồi anh còn ở Việt Nam đi học thời trung học… Mà anh không thấy quan trọng nên không kể em nghe, với lại bạn bè lớn lên xa nhau … là chuyện thường mà …đâu có gì để kể!
- Vậy anh cũng đâu cần biết lý do tại sao em đã cất giữ nó!
- Anh …không hiểu em muốn nói gì cả!
- Người con gái anh gặp hồi chiều …
- Anh không hề quen… anh đánh rơi chiếc khăn, cô ta nhặt trả lại tình cờ thế thôi!
- Anh… không nhận ra cô ta sao?
- …không! anh …không hề quen!
- Hãy từ từ suy nghĩ đi!
- Thật mà! Anh chưa hề….mà hình như khuôn mặt khá quen thuộc, anh không biết đã gặp ở đâu!
- Để em nhắc cho anh nhớ nhé
Tôi há mồm ngạc nhiên… nghe nàng kể lể:
- Hãy nhìn tấm hình này và cô gái hồi chiều …có điểm nào giống nhau không?
Tôi cố gắng nhìn thật kỹ, từng điểm, từng nét trên khuôn mặt của Tuệ Khanh và liên kết với cô gái hồi chiều…. Hình như… Tôi thảng thốt kêu lên:
- Chả lẽ….không lẽ….
- Phải!
Vợ tôi bắt đầu giải thích cặn kẽ:
- Hồi cậu học trò ấy còn trẻ đã rất ao ước biến thành nàng công chúa xinh đẹp, muốn sống với chính bản thân mình, nhưng gia đình cấm đoán không cho. Bố cậu bé đã coi như đây là một căn bệnh khó trị, đem cậu đi chạy chữa thầy pháp, lên đồng, gọi hồn, cậu bị họ đánh đập để đuổi quỷ ma và cho uống những thứ thuốc trừ tà mà khi uống vào là nằm vật vờ mấy ngày ói mửa…
Đến năm 15 tuổi với sự giúp đỡ của người mẹ lúc nào cũng gần gũi và hiểu thấu sự mong mỏi của con, bà đã dắt người con trai ấy sang Thái Lan …đổi hệ. Sau hơn một năm ròng rã khám và mổ … người con trai Tuệ Khanh ấy biến thành nàng con gái xinh đẹp mà anh đã gặp hồi chiều!
- Sao em lại biết chuyện này? Em làm sao quen được Tuệ Khanh?
- Em không những là người em họ rất thân mà khi chị ấy và mẹ qua Thái sinh sống một thời gian đã từng ở nhà ba mẹ em để chữa bệnh, mà còn là một người bạn thân cho chị ấy trút bao muộn phiền, tự ti, đau khổ của bản thân…
Còn anh là mối tình đầu của chị ấy khi vừa biết yêu. Bị anh ruồng bỏ, tuôn ra những lời phũ phàng và tránh chị ấy bằng cách qua trường khác học, là một trong những nguyên nhân chính thôi thúc chị chuyển giới! Chị muốn thực sự là con gái để được người đối diện tiếp nhận, sống thực với con người mình, và không lừa dối người mình yêu! Chị đã khóc rất nhiều, rất khổ sở khi bị anh khước từ. Những chuyện này chị kể cho em nghe sau khi mình cưới nhau, trong một dịp em gởi hình đám cưới mình đến cho chị ấy xem, thì chị nhận ra anh, khóc sướt mướt và kể cho em nghe chuyện chị ấy đã quen anh từ trung học…
- Còn bây giờ…cô…ta sống ra sao?
- Thật tội nghiệp! kiếp sống người chuyển giới thật mong manh, nhạy cảm; ông Trời không cho họ sống lâu trong một thân phận của kẻ khác… chị đang vướng một bệnh khó chữa, và chị cũng không muốn thực sự chữa chạy, chị muốn chấm dứt cuộc sống khó khăn này, không muốn chịu đựng những câu nói cay nghiệt chua chát làm chị suy nghĩ ngày đêm, tránh mọi cái nhìn thiếu thiện cảm của người chưa chuyển giới, tự ti mặc cảm chính bản thân mình… Chị ấy thật đáng tội nghiệp chứ không như anh nghĩ chỉ là một căn bệnh!! hay là… nửa người nửa ngợm như những người lớn tuổi thường trách móc! Khi biết được em và anh lấy nhau thì chị buồn ghê lắm, như mất đi một thứ quý giá mà cả đời tìm kiếm chưa ra, khi tìm ra thì bị người khác cuỗm mất! em rất hiểu thứ tình cảm ấy của chị, nhưng biết làm sao để thay đổi được hoàn cảnh!
Tôi tiến lại nắm lấy cánh tay bé nhỏ của vợ, dắt nàng cùng ngồi xuống chiếc sofa:
- Anh thật hối tiếc những gì mình đã làm hồi xưa một cách vô ý thức… không ngờ lại đưa đến những hậu quả như vậy! Thời này, ai cũng có cuộc sống riêng, họ suy nghĩ rộng rãi hơn về vấn đề chuyển giới, anh nghĩ nếu …cô ấy muốn sống một cách tự nhiên, đi làm và lo cuộc sống thì xã hội cũng không khe khắt đâu. Hãy thuyết phục cô ta chữa bệnh nhé!
- Chị đã quyết định bỏ uống thuốc cả nửa năm nay rồi, em sợ …sẽ không lâu nữa đâu!
- Sao anh gặp cô ta…có vẻ khỏe mạnh và rất ok mà!? Chỉ có hơi xanh xao thôi!... còn những tấm hình còn nhỏ này …
- Những tấm hình thuở xưa khi cho anh… chị ấy muốn rửa lại đế nhớ về kỷ niệm một thời tuổi thơ thật đẹp ấy trước khi….ra người thiên cổ, chị ấy nói với em vậy đó!
- Anh… có thể gặp cô ta được chứ?
- Em cũng không biết có sao không nữa! … em sẽ chuyển lời của anh, sẽ cho anh biết sau. Khoảng một tuần sau em mới gặp lại chị ấy, vì bây giờ chị đã đi thăm mẹ ở Mỹ một tuần rồi…
Tôi đang làm việc ở pharmacie, nghe tiếng phone reo, tiếng thảng thốt của vợ tôi bên kia đầu dây, vừa nói vừa khóc:
- Anh à! Mình đã …không kịp rồi, chị đã mất rồi!
Tiếng khóc nàng thê lương, càng to hơn nữa… tôi sững sờ, cả người như băng đá, đánh rơi cả hộp thuốc đang cầm trên tay, miệng mấp máy không thành lời, và tôi cũng đoán nạn nhân là ai :
- Sao em biết? em … đang ở đâu? …em chắc chắn chứ?
- Anh à! … em thật hối hận đã không theo chị về thăm bác gái! …đã không nghĩ ra là chị đã muốn kết liễu đời mình… Lỗi tại em ….anh à!
- Em! Đừng tự dằn vặt mình, anh sẽ đến! em ở đâu?
- …ở trong nhà xác của nhà thương X, họ gọi em đến để nhận dạng, chị đã mất một mình trong ấp của chị, không ai bên cạnh, chị tự kết liễu đời mình bằng cả một hộp thuốc ngủ an thần…chị đi trong giấc ngủ nhẹ nhàng an bình mà trên tay còn giữ chặt tấm hình của cậu bé Tuệ Khanh hồi trung học! chắc chị thất vọng vì cuộc đời đã không giành những phần ưu tiên ngọt ngào cho chị! Em …hối hận lắm!... hôm nay đến thăm chị ấy em định hẹn cho anh gặp chị, để nói tất cả mọi thứ một lần cuối cho chị hiểu, thế mà…
Chị đã dối em, nói về thăm mẹ cả tuần, nhưng thực ra chị chỉ ở nhà, nấp mình trong bóng tối, nghĩ lại hồi ức xa xưa, tự dằn vặt mình, cuối cùng là kết liễu cuộc đời trong cô đôc!
- Mẹ của chị đã biết chưa?
- Bác cũng mới biết đây thôi, bác đau khổ lắm vì chị là con một, chị muốn gì bác gái cũng chiều cả!... Chuyện vậy mà em cũng không đoán ra! Em có một phần lỗi trong việc này….
- Anh sẽ đến, chờ anh nhe!
- …thôi…anh đừng đến!
Tôi ba chân bốn cẳng bay ra parking, nhảy lên xe…
Tìm mãi không ra chùm chìa khóa xe, tôi lại phải quay vào phòng để tìm kiếm; lục tung hết ngăn kéo, trên mặt bàn vẫn không thấy, lúc sờ tay vào túi áo trong thì chùm chìa khóa nằm ngay ngắn ở trong ấy, mà sao lúc ở ngoài garage tôi đã lục túi áo mà vẫn không thấy chúng! Thật lạ! Tôi tự nhủ chắc phải có điềm gì!
Quay lại nơi để xe thì đúng vào giờ ra về của các nhân viên, xe đông như mắc cửi làm tôi không thể nào chạy nhanh hơn được nữa, cứ chờ đợi hết chiếc này đến chiếc kia trước đầu xe tôi.
Lúc ra được tới bên ngoài, điện thoại của vợ tôi gọi:
- Anh à! Thôi đừng đón em nữa, em đi quá giang với một người bạn về rồi đây, giờ đóng cửa của nơi chị nằm ở nhà thương rồi…
- Nhưng anh…. Chưa gặp được chị ấy mà!
- …cả đời đã không có duyên thì …phút cuối cùng này đâu còn quan trọng nữa!
- Sao em lại….
- Vâng! Chị ấy để lại một bức thư cho em, có nói là không muốn gặp lại anh nữa, không muốn anh nhìn cảnh chị mất đi trong thất vọng đau khổ…chị muốn được thiêu và rải tro trên đồi, chị chỉ muốn ra đi thảnh thơi và không vướng mắc gì nữa cả!
- Nhưng mà….
- Em nghĩ… chị đã tha lỗi cho anh rồi…anh và chị ấy không đủ duyên gặp nhau…
Vợ tôi khóc xưng mắt mấy tuần liền mỗi lần nhìn thấy hình Tuệ Khanh, tự trách, tự trừng phạt bằng cách nhốt mình trong bốn bức tường mỗi ngày cuối tuần để nhớ về người chị quá cố; nàng không còn muốn cùng tôi đi dạo hay ra ngoài mua sắm nữa!
Con đường về nhà hôm nay hình như dài hơn bao giờ hết!
Những lời đe dọa của Tuệ Khanh từ thời trung học còn vang vọng bên tai “đừng bao giờ hối hận nếu bỏ em đi…” tôi vẫn không màng đến những lời nói của “nàng” khi xưa! Tôi cứ cứng đầu cho đó là mối tình bệnh hoạn, tôi phũ phàng quăng nó vào xọt rác không tiếc thương! Đâu ngờ đó là một tình yêu sớm nảy nở trong trái tim người bạn gái mang vóc dáng người nam! Thật trớ trêu thay!
Giờ tôi hối hận cũng đã muộn màng! Tuệ Khanh hận tôi cũng phải, nàng đã bị dằn vặt với những kỷ niệm không đẹp đó cho đến lớn; sau khi chuyển giới, nàng vẫn không dám đặt niềm tin vào người đàn ông nào cả, sợ họ giả dối và nhất là sự tự ti trong nàng mãi đè nặng…
Từng chiếc lá vàng của mùa thu rơi xào xạc trên con đường dẫn về nhà, tôi thật buồn, xót xa cho một người bạn vắn số, trách mình thật vô tâm, một hành động hay lời nói vô tình làm tổn thương người khác sẽ gây ra bao thứ chuyện mà cả đời này ăn năn cũng không bù đắp được!
Từ phía xa, sương phủ mờ xuống phía trước mặt, lan tỏa rộng ra cả lối đi, không thấy rõ đường trước mặt để bước, cơn gió nhẹ của mùa thu lành lạnh đôi vai, tôi rảo bước nhanh về nhà… Bỗng ngay phía trước mặt tôi thấy hiện ra cái bóng thật mờ đứng quay lưng lại với mái tóc đen dài ngang lưng, người con gái ấy lấy hai tay chặn lối không cho tôi tiến lên.
Đang trong cơn bối rối, bàng hoàng, cùng lúc ấy tôi nghe tiếng thắng xe rít trên mặt đường.
Một người đàn ông bước xuống xe tức giận to tiếng với tôi:
- Ông nhắm mắt đi hay sao mà không nhìn đường vậy? … cũng may có cái ổ gà trước mắt mới làm tôi thắng xe lại, chứ không thì cái mạng của ông cũng đi đoong rồi!
Hoàn hồn, tôi vội vàng xin lỗi ông ta, tiếp tục nhanh chân về nhà…
Bây giờ tôi mới tin vào thế giới thứ ba, sau cái chết còn có sự sống của phần hồn, chắc chắn phần hồn của Tuệ Khanh đã hiểu trái tim tôi, đã tha lỗi cho tôi nên mới cứu tôi qua khỏi cái chết vừa qua!
Tôi tự hứa với lòng sẽ cùng vợ đọc lễ cầu siêu cho Tuệ Khanh sớm siêu thoát về cõi bình an, cũng như từ đây trở đi sẽ xem nàng như một phần tử trong gia đình để mỗi năm có thể làm giỗ, tưởng nhớ đến nàng, như một chút lòng sám hối của tôi….
Tôi đang sửa soạn làm cơm chiều cho cả nhà, bỗng nhiên nghe tiếng chìa khóa mở cửa, thằng em Út xuất hiện với chiếc cặp còn trên vai, Tính không để ý đến tôi đang đứng làm bếp, nó quăng chiếc cặp lên salon, nằm dài ra ghế, tay trái với lấy chiếc remote control để trên bàn bấm lấy bấm để tìm đài đánh box trên TV xem, tay phải thì thò vào gói bắp rang bốc một nắm, nhét đầy vào miệng nhai ngồm ngoàm cho đỡ cơn đói; bàn tay nó xục xạo vào túi bắp rang bé xíu mạnh quá làm đổ tràn ra đầy sàn những hạt bắp vàng mỡ và muối, tạo ra những vết bẩn đen trơn nhầy ngay dưới chỗ ngồi của nó.
Vì quá nhiều muối và bơ Tính cảm thấy khát nước, nó phóng vào bếp với đôi chân không, mở tủ lạnh và lôi ra chai nước lọc thật lạnh, ngửa cổ tu ừng ực, những giọt nước chảy tràn ra ngoài miệng, chảy dài xuống cổ, ướt cả ngực áo và chảy xuống sàn nhà, hòa với những mẩu bắp rang rơi rớt lúc nãy tạo thành một vũng lầy đen bẩn giữa phòng khách.
Cơn đói đã vơi, Tính gác một chân lên thành dựa lưng của chiếc ghế dài salon lúc lắc, mắt dán vào màn ảnh xem trận đấu giữa hai tên võ sĩ người Mexico, thật đau đớn, máu me chảy càng nhiều hình như tạo thêm phần phấn khích cho Tính… Nó vẫn không để ý đến tôi bận rộn đứng ngay bếp luộc rau cho bữa cơm chiều! Tôi cũng chả buồn mắng hay nhắc nhở gì nó cả, vì những hành động cẩu thả này của nó đã quá quen thuộc với tôi.
Khoảng 15 phút sau, anh Khôi bước vào nhà, khuôn mặt hốt hoảng khi thấy cổng bên ngoài không khóa; nghe tiếng ồn ào của TV, anh vội chạy vào xem tình hình trong nhà vì chưa bao giờ xảy ra tình huống kỳ lạ như thế; thấy Tính nằm dài trên sofa, TV mở thật lớn với những trận đánh nhau thiếu sống thiếu chết, mặt mày của hai tên võ sĩ đầy máu me, xưng húp. Còn Tính thì gào thét cổ vũ:
-Ráng lên, ngồi dậy đánh tiếp đi!
Anh Khôi với tay lấy cái remote trên bàn bấm tắt phụt.
Tính giật mình quay lại, mặt hùng hổ, xem ai đã “thất lễ” như thế, thấy anh Khôi với vẻ mặt nghiêm nghị, nó quay lại chỗ ngồi, lí nhí:
-Anh… mới đi làm về hả?
-Phải! còn em làm gì mà vặn TV thật to vậy?… Ai về mà không khóa cửa vậy?
-Ồ! Em xin lỗi, em quên. Dạ… em sẽ tập từ từ để nhớ! Hồi ở bên nhà, nhà không bao giờ có cửa để khóa, chỉ ra vào vậy thôi… Em sẽ nhớ phải khóa!
Anh Khôi nhìn chung quanh chỗ Tính ngồi, cao giọng:
-Sao em ăn uống gì mà rơi vãi đầy ra nhà vậy? Em có phải là con nít 5 tuổi nữa đâu, em hãy đi hốt và lau chùi lại nhà cửa đi, ba mẹ sắp đi làm về rồi đấy, nếu ai cũng làm như em thì nhà này sẽ thành cái chuồng heo đó!
Nói xong anh Khôi bỏ vào phòng để tránh không tranh luận lớn tiếng với Tính nữa.
Tính nhìn theo anh, giận dỗi, mặt bí xị, nhưng cũng cầm cái khăn ra lau nhà để chút nữa ba mẹ về đừng la rầy nó, trong nhà này nó chỉ nể nhất là anh Khôi.
Tôi vừa làm cơm, vừa theo dõi cảnh thằng út và anh Khôi, vẫn không lên tiếng lời nào.
Tôi nhớ cách đây 15 năm:
Tháng Tư 1975, ngày miền Nam-Việt Nam thất thủ, quân đội VNCH người vứt súng, cởi bỏ quần áo lính, giầy… quăng đầy đường, kẻ phẫn uất đi đến tự sát, chối bỏ chế độ độc tài cộng sản, rời bỏ quê hương ra nước ngoài ngay ngày hôm ấy theo chân quân đội Mỹ. Ngoài đường tiếng súng nổ chói tai, lúc ấy không một người dân nào dám ra đường cả, ai cũng núp trong trong hầm trú ẩn vì sợ lạc đạn và cũng sợ quân “giải phóng” với nón cối, dép râu hiên ngang lăm le khẩu súng muốn kết liễu đời kẻ nào họ cảm thấy thích trên con đường họ gặp!
Chúng tôi nghe lời mẹ ngồi yên trong hầm trú ẩn với những bao cát xung quanh, không dám nói lớn vì sợ phá tan cái yên lặng đáng sợ ấy, cái yên lặng đè nặng, đe dọa mà ở tuổi chúng tôi chỉ hiểu lõm bõm rằng nếu làm tiếng động to sẽ bị “chúng nó” phát hiện, giết cả nhà không nương tay, lúc ấy chỉ dám nhìn nhau và cần lắm chỉ thì thầm với nhau.
Mẹ tôi nhẹ nhàng gói ghém những giấy tờ cần thiết, vài tấm hình của anh chị em tôi để khi cần dùng làm visa hay giấy thông hành khi đến đảo, bông băng, thuốc nhức đầu, vài bộ quần áo cho mỗi anh em chúng tôi trong một gói nhỏ, mẹ dặn Út Tính với giọng thật nhỏ bên tai nó, lúc ấy mới chỉ 5 tuổi:
-Con không được chạy xa anh Khôi và chị Phụng nghe chưa, coi chừng lạc đó!
Rồi quay qua chúng tôi, mẹ nhỏ nhẹ:
-Khôi và Phụng lúc nào cũng phải để mắt đến em nhé, nó còn nhỏ lỡ chạy mất thì khổ lắm, mình không phải đi chơi đâu, nên nhất định phải nắm tay em nghe không! Mình sẽ chờ ba về…
Lúc ấy anh Khôi lên 8, tôi thì 6 tuổi, nên chúng tôi cũng chỉ biết giương mắt nhìn mẹ và gật đầu nghe lời trong sự lo lắng.
Khi ba về đến nhà, chỉ cần làm dấu hiệu với mẹ, mẹ dắt chúng tôi lên chiếc xe Jeep có những người đàn ông mà chúng tôi chưa bao giờ gặp mặt, không ai nói với ai lời nào, mặc dù chúng tôi có khoanh tay cúi đầu chào họ như ba mẹ tôi đã từng dậy khi khách đến nhà chơi. Nhưng chả ai để ý đến cái chào hỏi lễ phép của chúng tôi mà đã vội vàng nhấc bổng ba chị em tôi lên xe. Chiếc xe phóng như tên bay, đường xá lúc ấy thật vắng, không một bóng người, nên xe chạy hết tốc lực lao như tên bay vào phi trường Tân Sơn Nhất.
Tôi để ý thấy hai bên đường đầy rẫy những quần áo nhà binh của chế độ cũ, súng, huy hiệu… rất nhiều thứ. Lúc ấy tôi đã hiểu đất nước tôi sẽ không còn yên bình như những ngày tháng xưa nữa, bất chợt hai dòng nước mắt tuôn chảy ra ở cái tuổi ăn chưa no, lo chưa tới ấy, tôi đã hiểu cả gia đình chúng tôi sẽ phải rời bỏ nơi đây mãi mãi!
Tới phi trường Tân Sơn Nhất, trái ngược hẳn với những con đường mà chúng tôi vừa vượt qua, vắng vẻ lúc nãy, thì nơi đây hình như tất cả dân quân của cả miền Nam đều dồn về! Đông đến nghẹt thở, mẹ tôi bế em Tính, hai chúng tôi phải nắm chắc tà áo bà ba của mẹ, theo sau. Tôi thấy ba ra hiệu cho mẹ đứng chờ ở một nơi để ba vào nói chuyện với những người trong phòng họp. Ai cũng thật lo lắng, căng thẳng, quên cả đói khát dù đã đi cả ngày trời.
Bỗng nhiên anh Khôi mặt nhăn nhó rên khẽ:
-Mẹ ơi, con… con muốn đi… con đau bụng quá!
Mẹ dặn tôi trước khi dắt anh Khôi đi vào nhà cầu ở không xa đấy:
-Con ở đây nhớ trông em, mẹ sẽ trở lại khoảng 5 phút nữa nghe không.
Khi mẹ vừa quay đi với anh Khôi thì thằng Út Tính tự nhiên vụt khỏi tay tôi, chạy theo mẹ, miệng la:
-Mẹ! mẹ…
Tôi cũng chạy theo nó để kéo lại, nhưng đoàn người thật đông đảo từ đâu tràn vào, ngăn giữa hai chị em tôi, tôi biết nó đi không xa tôi, ở đâu đây rất gần nhưng tôi không thể nào chạm được vào tay Út; miệng tôi la thật to:
-Út ơi Út đừng bỏ chị! Út…
Tiếng nó khóc thật to, hòa vào với tiếng người nói, la, hét, tất cả như một âm vang chói tai, chóng mặt đến quay cuồng. Tội thấy giữa những kẽ chân người đứng, bóng dáng nhỏ xíu của em té nhào xuống đất, bị người ta vấp vào em, cứ thế đá em đi xa tôi. Tôi cúi người xuống định kéo em về với tôi, nhưng đôi tay tôi quá ngắn để chạm được đến Út. Thế rồi đám đông ở đâu kéo tới tràn về hướng máy bay. Tôi không thấy Út trong tầm mắt của tôi nữa, tôi sợ đến mồ hôi túa ướt cả người. Tôi không còn biết phương hướng nào để đi tìm Út nữa cả, một rừng người đang quấn chặt lấy tôi, vừa mếu máo vừa gọi tên em, cho đến lúc mệt quá, sắp té nhào xuống đất thì mẹ từ đâu xuất hiện với anh Khôi, đỡ lấy tôi, hỏi dồn dập:
-Thằng Út Tính đâu rồi?
-Con… không biết!
Mẹ bảo tôi và anh Khôi đứng yên một chỗ, một mình mẹ chen vào đám đông, gọi thật to:
-Út Tính! Út Tính! Út T.í.n.h…
Anh Khôi và tôi cũng khóc ròng, lo lắng vì đã khá lâu không thấy mẹ quay lại, máy bay quân sự Mỹ đã đậu xuống từ khá lâu rồi để đón tất cả những gia đình của quân đội VNCH còn sót lại, đi chuyến cuối cùng. Hai anh em tôi nắm chặt tay nhau, mồ hôi đượm ướt cả hai bàn tay bé nhỏ đến trơn tuột, mà chúng tôi không dám rời ra sợ lạc như đã lạc thằng Út.
Một lúc sau, mẹ quay trở lại, ôm chúng tôi trong nước mắt:
-Mẹ không tìm thấy Út nữa, nhưng phải rời đi thôi! Không chần chừ được lâu vì đây là chuyến cuối, có thể sẽ hết chỗ và họ sẽ bỏ mình lại!
-Ba có đi cùng với mình không mẹ?
-Ba sẽ đi với các chú lúc nãy trong một máy bay nhỏ hơn. Thôi mình đi!
Mẹ vội vàng kéo chúng tôi đẩy lên những bậc cầu thang máy bay cao hơn cả thân người bé nhỏ của anh em tôi, vừa leo lên mẹ vừa ngoái lại từ trên cao xem thử trong đám đông bên dưới ấy có thấy được dáng nhỏ bé của Út không, nhưng… vô vọng!
Đoàn người bên dưới cứ tiếp tục đẩy chúng tôi lên, mẹ không thể nào quay lại bên dưới được nữa, đám đông ùn ùn kéo lên máy bay mặc dù họ không có tên trong danh sách, đến nỗi không còn một chỗ hở nào cho mẹ có thể ngoái đầu lại sau lưng.
Chúng tôi cực nhọc và khổ sở mới vào đến bên trong thì chiếc cửa sắt to lớn cũng đóng sập lại vì đã quá số lượng của họ cho phép rồi. Mẹ đau đớn, nước mắt ràn rụa, quỵ xuống ngay cánh cửa máy bay vừa khép lại. Hai anh em chúng tôi cũng thê thảm không kém, tóc tai bù xù, mặt mũi lem luốc vì nước mắt nước mũi chảy, quần áo xốc xếch, hai tay bé nhỏ vẫn nắm chặt lấy chéo áo mẹ sợ lạc! Mẹ vẫn vật vã khóc gọi:
-Tính ơi Tính!
Chúng tôi ở đảo Guam không bao lâu thì được qua California vì có gia đình cô chú bảo lãnh. Trong suốt thời gian ấy, không phút giây nào cả gia đình không nghĩ đến Út. Chúng tôi đi lễ, cầu nguyện, gởi đơn đến Cao ủy Tỵ nạn …
Thời gian từ từ trôi qua với bao nỗi bận rộn hằng ngày, đi học đi làm ở xứ người. Nụ cười của ba mẹ tôi hiếm khi nào được nở trọn vẹn trên khuôn mặt vì kỷ niệm đau thương ấy mãi cứ vấn vương trong tim óc.
Không chút tin tức nào của Út sau năm năm tìm kiếm, ba mẹ tôi nghĩ chắc Út đã bị đè bẹp chết trong đám đông của ngày lịch sử ấy, nên lập bàn thờ với hình ảnh của em. Chúng tôi chấp nhận nỗi đau thương xé lòng này và sống với những kỷ niệm tuổi thơ còn sót lại trong tim. Tuy vậy mẹ vẫn ngầm gởi tiền về Việt Nam nhờ chú Huy quen biết với gia đình tôi từ bao lâu nay, tiếp tục tìm kiếm Út, mẹ vẫn mãi giữ niềm tin mong manh ấy!
***
Mười lăm năm trên xứ người, anh Khôi và tôi đã sắp ra đại học, chúng tôi đã bắt đầu đi làm gánh bớt phần nào chi phí cho ba mẹ, chúng tôi tiếp tay trả phần tiền còn lại cho căn nhà mới mua không lâu cho ba mẹ, cả hai vẫn tiếp tục đi làm vì còn sức khỏe.
Bất ngờ một hôm đầu tuần, chúng tôi nhận thư điện tử của chú Huy, chú nói đã tìm ra một người có tên Hoàng Văn Sơn có khuôn mặt khá giống trong hình mà mẹ tôi đã gởi cho chú, chú Huy chưa chắc chắn là cháu này có phải là con của ba mẹ không. Chú chỉ cầu may thôi vì cháu cũng có hoàn cảnh lạc cha mẹ từ khi 5 tuổi ở Tân Sơn Nhất, nên muốn hẹn gặp chúng tôi qua zoom với người ấy để có thể nhận diện người thân.
Mặc dù chưa chắc chắn, nhưng mẹ tôi có linh cảm đây là em trai thất lạc của chúng tôi… Tôi không ngờ có thể tìm lại được em sau 15 năm mất tích; thật là một tin vui không thể tưởng tượng được, cả gia đình ngủ không yên, phập phồng, lo lắng, bồi hồi xúc động nhớ đến những tháng ngày xa xưa…
Chúng tôi mừng như người được sống lại lần thứ hai. Mong chờ từng phút, từng giờ đến ngày gặp lại em trai Út Tính của gia đình tuy chỉ họp và nhìn nhau qua zoom.
Ngày hẹn gặp trên zoom đã đến giữa gia đình tôi, chú Huy, và gia đình em trai tôi hiện đang ở Rạch Giá, Việt Nam.
Khuôn mặt người đàn ông với bộ râu tua tủa, quần áo nâu sòng còn dính bùn, mái tóc dài đến ngang tai, dáng người cao gầy, cặp mắt sắc lạnh, khuôn mặt rám nắng, nghiêm nghị, nhìn kỹ thì hắn mang nét của ba và anh Khôi; tuy đã 15 năm xa cách, chúng tôi chắc chắn đó là Út Tính, không nhầm lẫn vào ai được! Hai bên nhìn nhau qua màn ảnh nhỏ. Sau một lúc im lặng, mẹ tôi bỗng òa khóc:
-Tính! Con… con khỏe không?
Vẫn khuôn mặt thật lạnh lùng, Út quay qua người đàn ông ngồi cạnh hỏi:
-Cha! Sao… bà ta gọi ai là Tính vậy cha?
Người đàn ông lên tiếng giải thích:
-Chắc là tên con hồi đó đó! Để cha nói với họ… Thưa ông bà chúng tôi nhặt được thằng bé này vào ngày 30/4 tại Tân Sơn Nhất, nó đã ngất xỉu ở bên đường, đói khát, mặt mày thân thể bị trầy xước, máu me đầy hết, chúng tôi đã nuôi nó từ đó đến nay được 15 năm, gọi nó là Sơn, vì không biết tên thật là Tính, nhưng những người hàng xóm cho nó thêm cái tên nữa là Sơn Lầm Lì, vì nó ít nói, lạnh lùng, lầm lì, ít tâm sự với ai lắm…
-Dạ rồi… làm sao ông biết nó là con chúng tôi?
-Tui đang vớt cá vào một buổi sáng sớm, tự nhiên thấy có ông công an phường xuống gặp, đi với chú Huy đây, đưa tấm hình của thằng Sơn hồi 5 tuổi, nhìn là biết nó ngay vì từ hồi nào đến giờ chỉ có một khuôn mặt, không thay đổi, cũng may đó! Công an hỏi tôi về vụ liên hệ sao với thằng Sơn Lầm Lì, tôi phải kể sự thật, rồi ông ta mời tôi về phường họp, họ báo cáo lên trên, cả mấy tháng sau mới tìm ra manh mối với ông bà đó. Tui cũng nghe nói là Cao ủy Tỵ nạn ở ngoại quốc vẫn tiếp tục tìm kiếm những người thân thất lạc của những gia đình quân đội VNCH xưa từ ngày 30/4 đó! Tôi thành thật chúc mừng ông bà!
Ba mẹ tôi nghẹn ngào, nói không ra lời:
-Cám ơn ông đã nuôi cháu từ hồi đó đến giờ…
Chú Huy kể cho chúng tôi nghe về hoàn cảnh Sơn:
-Cách đây 15 năm, ông Năm, cha nuôi của Sơn, vào ngày lịch sử ấy đạp xích lô chở người vào Tân Sơn Nhất, khi ông vừa quay xe đi thì thấy một cháu bé trai 5 tuổi nằm bất tỉnh ngay sát cổng ra vào phi trường, bé bị trầy xước khắp mình mẩy, máu me dính khắp quần áo, đầu tóc, ông thấy thương nên đem bé về băng bó, cho ăn uống. Lúc ấy nhà ông còn ở khu Gia Định, không có vợ con, nên ông ăn gì cho nó ăn cái đó. Ông chở nó đến Tân Sơn Nhất một tuần liên tiếp để lỡ cha mẹ hay ai đó nhận lại nó, nhưng chờ hoài không thấy ai nhận lãnh, ông liều đem nó về nuôi như con vậy.
Được một năm thì gia đình ông bị đuổi về quê làm nương rẫy, vì ở thành phố ông không có nghề chính, thế là hai cho con khăn gói về Rạch Giá, quê mẹ của ông hồi xa xưa. Nơi đó ông cho Sơn đi học chút chút, ông thì vớt cá bán lấy tiền nuôi sống gia đình hai người của ông. Thằng Sơn rất thông minh sáng dạ, nhưng chơi với tụi trong xóm thất học du côn, lập băng đảng, sớm trở thành tay anh chị, phóng dao rất cừ, tuy chỉ mới 15. Có lần có người mướn nó giết người, nó đã bắt nạn nhân, chỉ với cặp mắt sáng quắc dữ tợn, khuôn mặt lạnh như thép của nó và thêm vài cái tát tai, cú đấm mạnh mẽ nhanh nhẹn của nó đã làm người ấy trả tất cả số tiền đã nợ cho chủ nợ và chạy bán mạng, thoát thân. Nó cũng đã từng bị ở tù, mấy người trong vùng nghe đến tên nó đều ớn lạnh.
Chú Huy tiếp:
-Sơn bây giờ phải nói là tên du côn của giới giang hồ thứ thiệt, chứ không phải một thằng con ngoan có giáo dục như các cháu Khôi và Phụng đâu! Tôi không biết sau khi biết sự thực này anh chị còn muốn bảo lãnh cháu qua ở với gia đình nữa không? Tôi chỉ e nó sẽ là con sâu làm rầu nồi canh…
Mẹ tôi sụt sùi:
-Cháu đã mất cha mẹ, thiếu tình thương và sự giáo dục của gia đình 15 năm qua, không may cháu lại đi không đúng hướng, nếu mình kệ nó, lơ nó thì tương lai sau này của nó sẽ ra sao khi chúng tôi mất? Tôi là mẹ của ba đứa con, hai đứa kia thì được hưởng sự giáo dục, nuôi nấng đầy đủ, chỉ có mình nó bị thiếu thốn tất cả, lại đi sai đường, đây cũng là một phần lỗi chúng tôi! Tôi nhờ chú làm giấy tờ bên ấy, tôi sẽ gởi đơn lên Cao ủy Tỵ nạn bên này, sẽ kể câu chuyện đau lòng này, tôi sẽ nhận và đón cháu qua đây, cũng hậu tạ cho cha nuôi của Út Tính một số tiền đền bù.
Ba tôi lo lắng:
-Không biết khi qua đây ở lứa tuổi lỡ cỡ 20 của nó, nó có bị tự ái khi học lại từ lớp nhỏ với mấy đứa nhỏ tuổi hơn không. Nếu không thì phải cho nó học một lớp riêng của người lớn cho nó theo đuổi kịp chương trình học; khổ nỗi là nó chưa thành thạo tiếng nói, cuộc sống… thì làm sao theo kịp chương trình!
Anh Khôi thêm vào:
-Con sẽ dậy thêm cho em ở nhà những gì em nó không hiểu, miễn sao nó muốn tiến thân…
Giấy tờ bảo lãnh gởi đi ngay hôm sau.
Từ giây phút ấy, anh em tôi mong chờ Út với đầy thương nhớ, hồi hộp lẫn băn khoăn, muốn bù đắp cho Út tất cả những chịu đựng thiếu thốn của cả 15 năm qua, tất cả mọi thứ chúng tôi làm đều nghĩ về Út.
Gần một năm sau, Tính đoàn tụ với gia đình. Ngày đón nó ở phi trường Los Angeles, chúng tôi đem hoa, bong bóng, gấu bông thấp thỏm chờ bên ngoài.
Khi cửa mở ra, một người đàn ông trẻ với mái tóc dài ngang tai, mặc một chemise trắng, quần Jean, khuôn mặt đẹp với chút hấp dẫn, không chút nụ cười nào trên môi. Anh Khôi và tôi vội chạy lại ôm hai vai Út, nó vẫn lạnh lùng đón nhận gấu bông, hoa, cadeau với khuôn mặt nặng như chì! Chúng tôi chưng hửng khi thấy thái độ xa lạ, như đóng kịch của nó! Ba nháy mắt với chúng tôi như có ý nói ”thôi kệ bỏ qua cho em đi, vì nó còn lạ”.
Trên đường về nhà chị em chúng tôi tíu tít hỏi thăm:
-Út Tính! Kể cho tụi chị nghe ở bên đó đời sống em ra sao?
Vẫn thái độ hờ hững, trả lời:
-Có gì lạ đâu, hôm nào cũng ra biển câu cá!
-Em có nhớ nhà không nếu qua đây?
-Có! Em… sẽ ở đây thử, nếu không quen… em sẽ về!
Mẹ nghe vậy liền nói:
-Ở đâu rồi cũng sẽ quen! Con ở đây với ba mẹ, anh Khôi, chị Phụng, anh chị ấy sẽ giúp con về việc học, đi làm…
Út quay lại nhìn anh Khôi, rồi lại nhìn tôi, hỏi:
-Anh chị đang làm gì?
-Anh Khôi sắp ra trường làm luật sư, còn chị cũng sẽ làm trưởng phòng kế toán cho một công ty xuất nhập quần áo vì đã ký contract rồi.
-Con đường của em đi còn dài lắm, phải hội nhập cuộc sống, học tiếng nói của họ, học chương trình đào tạo của họ rồi mới có thể đi làm được…
-Cuộc đời còn dài, em cứ từ từ, trước hết làm quen với cuộc sống Mỹ này cái đã nhe, tất cả anh chị sẽ dắt em đi từng bước, đừng lo!
Một buổi sáng cuối tuần, cả nhà vui vẻ cùng quây quần ăn sáng trong nhà, bỗng chúng tôi nghe tiếng ré đau đớn não ruột của một con mèo như bị thương phía sau nhà.
Mẹ vội bước ra, tiếp theo là tiếng hét của mẹ:
-Tính! Sao con… giết con mèo vàng vậy?
Tính vẫn đứng yên, lưng quay về phía mẹ, mẹ lại gọi:
-Tính! Tính!
Chúng tôi ùa ra theo tiếng gọi của mẹ, con mèo vàng đi hoang hay đến nhà tôi nằm phơi nắng, nó vừa đẻ xong bầy mèo ba con được một tuần lễ nay, nó không giống những con mèo mẹ khác nằm ấp con, cho con bú trong một tuần đầu, con mèo vàng này lại bỏ con ngay khi mới sinh. Tôi thấy nó bị một con dao cắm sâu vào ngực một cách dã man, một dòng máu đỏ chảy bên khóe miệng và chết oan uổng.
Chúng tôi nhìn nhau miệng há hốc, không nói được lời nào, chưa bao giờ thấy cảnh tàn ác này với súc vật từ khi chúng tôi ở Mỹ. Mẹ tiếp tục tra hỏi Tính:
-Nói cho mẹ biết tại sao con lại giết con mèo một cách độc ác vậy? Con còn tính người không vậy? Nó làm gì con hả? Bên đây ai giết súc vật như vậy thì cảnh sát sẽ bắt vào tù đó!
Tính quay người lại, cặp mắt hằn học:
-Nó có con mà không trông con, lại bỏ con đi nơi khác; tối hôm qua nó kêu ngao ngao cả đêm ngay phòng con như tìm trai vậy, con phải kết liễu cuộc đời nó, đúng là đồ súc vật!
Ba tôi bất ngờ nghe những lời cay đắng ấy, vội lên lớp:
-Con đã là người trưởng thành, con sống với ba mẹ bên Mỹ, một đất nước rất dân chủ, yêu thương súc vật, tôn trọng phụ nữ… Ba yêu cầu con không bao giờ được hành động tàn ác như thế đối với súc vật nghe không, đây là lần đầu cũng như lần cuối! Ba hy vọng con hãy sống trong yêu thương và không tùy tiện làm đau kẻ khác kể cả súc vật, con hiểu chứ! Ba không muốn nhìn thấy cảnh này một lần nào nữa!
Tính vẫn hầm hừ không trả lời, ba tôi nổi nóng tiến đến chỉ mặt nó:
-Tính! Con có nghe ba nói gì không? hãy trả lời đi!… Tính!
-Con không phải là Tính!… con là Sơn, Sơn Lầm Lì! Cha con bên nhà cho con toàn sự tự do, cuộc đời con do con quyết định, cha không bao giờ làm phiền con, không bao giờ bảo con hay cấm con làm gì! Gia đình này làm phiền con quá! Phải thế này, thế nọ!… Nó chỉ là một con mèo, giết có sao mà ba mẹ làm quá lên, bên nhà con giết mấy trăm ngàn con cá một ngày, mấy chục con chó làm mồi cho mấy bợm nhậu, có ai cấm cản bắt bớ gì đâu! Ở đây sao phiền phức quá!
Bốp! bốp! hai cái tát chát chúa vào mặt Tính! Không vừa, nó nhào lên, đôi mắt long lên sòng sọc với đầy tức giận muốn trả đũa, túm lấy cổ áo của ba một cách nhẹ nhàng như có nghề. Ba cố gạt tay nó ra nhưng mãi vẫn không được, cái nắm tay của nó cứng chắc như gọng kìm sắt.
Khi hai khuôn mặt sát vào nhau, đỏ tía, muốn ăn tươi nuốt sống nhau, anh Khôi hét lên:
-Tính! Mày làm gì vậy! Mày điên rồi à! Bỏ ba ra! Bỏ ngay!
Tính hãy còn tức giận, mặt hầm hầm, thả lỏng cổ áo của ba ra, thêm một câu:
-Ba đừng ép tôi quá!
-Đồ…. côn đồ! Mất dậy! tao không muốn thấy mặt mày một phút nào nữa! Đúng là tên côn đồ, cút đi!
-Phải! Tôi là côn đồ đó! Tôi không phải là Tính ngoan hiền của ông bà đâu, mà là Sơn Lầm Lì, ông bà hiểu chưa! Sơn Lầm Lì!
Bốp! lại một cái tát nữa từ mẹ tôi:
-Mẹ đã tìm kiếm con trong 15 năm trời, mẹ cầu xin Trời Phật cho gặp lại con, giá nào mẹ cũng chịu, nhưng không phải như thế này đâu Tính! Mẹ không muốn con là thằng Sơn Lạnh nào đó đâu! Hãy là đứa con ngoan của mẹ, là thằng Tính hiếu thảo mà mẹ đã từng yêu thương từ khi lọt lòng; nếu con cứ tiếp tục như thế… Mẹ sẽ trả con về với cha con ở Rạch Giá, con hãy suy nghĩ đi! Mẹ không muốn gia đình mình sau 15 năm đoàn tụ với một thảm cảnh như thế này đâu, thật oan gia mà!
-Chính ông bà đã tìm lại tôi, ông bà bắt tôi phải qua đây với gia đình này, tôi chỉ muốn ở lại với cha của tôi, ổng không bao giờ nhìn vào cuộc sống của tôi, tôi làm gì mặc xác tôi, miễn sao có tiền đem về cho hai bữa cơm là được. Ổng vui khi tôi được đám bạn tung hô là can đảm, không sợ máu khi có người mướn tôi giết cả mấy chục con heo, ngàn con gà, chứ một con mèo thế này nhằm nhò gì mà ông bà lại đánh tôi! Hãy trả tôi về với nơi tôi sanh ra, nơi ấy tôi làm vua với bầy cá, bầy heo và đám côn đồ còn hơn là nơi đây, phải vào khuôn khổ, đi đứng nằm ngồi đều bị mọi người kiểm soát, tôi không cảm thấy sự tự do chút nào ở đất nước này…Tôi chán ngán lắm rồi!
Tính hùng hổ nói, mặt xưng xỉa đến nỗi tôi không thể nào tin được kẻ ấy đã từng là thằng Út Tính, em tôi của năm xưa mà tôi đã từng chơi đùa yêu thương nó! Nó đã trở thành kẻ gian ác dưới chế độ CS từ 15 năm nay rồi, họ đã dậy dỗ nó từng ngày tháng, trong cái xã hội oan nghiệt ấy, đảng du côn đã hoan hô khi nó đạt được những chiến công lưu manh cướp giựt từ trong trứng nước, bây giờ nó đã lớn lên với tất cả bản chất dã man trong máu, gia đình tôi có thể chuyển hướng nó được hay không? Mẹ, ba có còn đặt niềm tin vào nó sau những hành động vừa rồi không?
Tôi không thể nào tin vào mắt mình cảnh vừa qua nữa, phải làm sao để cứu em tôi? Và gia đình tôi đây?
Tính yên lặng ngồi sau góc vườn cả một ngày không nói năng với ai cả, tôi thấy nó nửa đáng trách, nửa thật đáng thương vì đã bị nhiễm tính xấu xa nhất của xã hội VN, của băng đảng, môi trường xấu xung quanh đã tác động lên nó. Bây giờ dưới mắt ba tôi, Tính là thằng côn đồ, là thành phần xấu bẩn thấp hèn nhất của xã hội mà ba không muốn nhìn mặt nó nữa!
Tiếng thút thít mẹ khóc năn nỉ ba tha lỗi cho thằng em lưu manh của chúng tôi:
-Nó chỉ mới đến ở với chúng ta chưa đầy hai tháng, nó chưa hiểu chuyện, chưa biết quy tắc gia đình, xã hội này, có thể trong nó có những sự xáo trộn, nó từ một miền quê chỉ có cá, heo, gà, con người quê thật thà, nhưng nó lại giao du với tụi du côn du đãng không ai dậy dỗ cả 15 năm nay, như cây sậy cây lau mọc dại, mình phải uốn nắn nó từ từ, chứ lẽ nào lại bỏ nó khi nó lầm lỗi hay sao? Mình đã nhọc công tìm kiếm, cầu khẩn Chúa Phật bao lâu nay, hãy cho nó thêm một cơ hội làm lại đứa con tốt, cũng cho mình một cơ hội hiểu và gần gũi con hơn nữa…
-Thằng côn đồ lưu manh… sẽ mãi mãi là thứ côn đồ, mình không thể nào chuyển hóa nó được đâu! Tôi chẳng còn muốn nhìn mặt nó nữa!… Gia đình mình đứa nào cũng ăn học tử tế, có vị trí trong xã hội, có ai như nó không? Có đứa nào du côn đảng phái như nó không?…
-Hãy cho tôi dậy bảo nó trong thời hạn một năm được không? Tôi đã mang nặng đẻ đau… Tôi không thể nào nói bỏ là bỏ được đâu!
***
Mỗi lần đi học hay ra ngoài, Tính chả bao giờ chào ba mẹ hay nói gì với ai như một câu xin phép, chỉ lẳng lặng xách đồ đi ra, khi về thì mở toang cả cửa, nằm bật ra ghế xem TV vừa ăn uống như đói khát lắm. Tính cách này của Tính làm ba mẹ tôi không ưa, anh Khôi bực mình, còn tôi thì không muốn đổ dầu vào ngọn lửa đang âm ỉ cháy nữa.
Gia đình tôi như có một vòm mây tối bao phủ, bữa cơm chung cả nhà không còn tiếng nói tiếng cười như xưa nữa, ai cũng gục mặt vào bát cơm cho xong bữa, còn Tính thì xúc cơm trốn vào phòng ăn, mắt lúc nào cũng lấm la lấm lét nhìn mọi người như kẻ mang trọng tội vậy!
Một năm trôi qua, vui thì không bao nhiêu nhưng những nỗi lo âu, buồn phiền được Tính tạo ra không ít; tháng thì bị cảnh sát gọi ba mẹ lên để bảo lãnh Tính về vì một chuyện đánh nhau gây thương tích cho bạn cùng khóa, bữa thì gia đình tôi bị người hàng xóm qua “mắng vốn” là Tính không hợp tác với họ trong việc cắt cỏ. Mỗi lần họ lôi máy ra cắt đều cắt dùm cái sân phía trước bên nhà tôi, thế mà khi đến lượt Tính cắt, bà có nhờ mà Tính cũng làm lơ! Thật sự là không phải Tính làm lơ mà vì chưa hiểu rõ tiếng Mỹ bà muốn gì, vì bà này thường nói rất dài dòng.
Có lần thằng con trai ông hàng xóm bị mất cái xe đạp, ông qua nhà tôi khăng khăng là bị Tính ăn cắp! Ba tôi đã lôi Tính ra mắng nhiếc mà chưa hiểu đầu đuôi câu chuyện:
-Tao biết mày là thằng cao bồi lưu manh, chứng nào tật nấy, mày không thể nào sống một cuộc đời lành lặn lương thiện như mọi người được sao mà đi ăn cắp cái xe đạp của người hàng xóm?… Tao sẽ trả mày về với gia đình mày bên kia nếu mày không tiến bộ…
-Ba! Hãy ngưng trách móc con lại ngay đi! Ba có bằng chứng gì để buộc tội con không? Ba nghe ai than vãn điều gì là về đổ tội cho con, ba không cho con niềm tin để sống, chính ba đã đẩy con vào con đường không lối thoát… Thà trả con về với cha con ở dưới quê mà còn dễ thở hơn; ba muốn con cứ mãi là thằng du côn thì con sẽ làm cho ba vừa lòng…
-Mày chỉ xem nơi đây là cái nhà trọ, tao không phải là ba mày, thì hãy cút đi!
Những lần ba và Tính lớn tiếng, cả nhà đều hoang mang lo buồn, mẹ sầu khổ, Tính bỏ cơm chiều, chị em tôi lại rút vào phòng, cả căn nhà yên lặng trong u ám.
Rồi khi rảnh rảnh, buồn buồn, Tính tự làm ná bắn mấy con chim bồ câu sau nhà, lần này ba tôi không cho nó vài tát tai như hồi đầu nữa mà cố nén cơn giận, chỉ trách móc nhỏ nhẹ là không được bắn thú vật nào trong thành phố cả dù đó chỉ là con giun!
Tính vùi đầu trong những quyển sách dầy về luật lệ Mỹ mà anh Khôi bắt đọc, anh là người chịu trách nhiệm về vấn đề nề nếp sinh hoạt của Tính, và chúng tôi thật vui mừng vì Út đã từng bước hội nhập cuộc sống mới ở Mỹ. Một vài tháng gia đình tôi không bị ai khiếu nại hay tố cáo là hạnh phúc lắm!
Cho đến một hôm gần Giáng Sinh, nhà thương gọi cho biết khi tôi đang làm việc, Tính bị xe đụng vì băng qua đường không đúng luật, Tính băng qua giữa đường xe chạy, lẽ ra phải đi vào lằn trắng dành cho người đi bộ khi đèn xanh bật lên, nó bị chiếc xe hất tung lên, đầu đập xuống đất, và bị gãy chân phải. Tính phải nằm nhà thương để bác sĩ theo dõi vết thương bên trong đầu! Lúc ấy tôi muốn vò đầu bứt tai, thoáng nghĩ “nó chỉ là 1 ngôi sao khắc tinh chuyên gây phiền phức cho mọi người, không đem chút vui vẻ hạnh phúc nào về cho gia đình cả”; nhằm vào thời kỳ mà ở sở, tôi phải làm công việc của chính mình và thay thế cả hai người đã đi nghỉ hè nữa! Nếu tôi cứ lo lắng và rối tung lên thế này thì chắc cũng sẽ bị tai nạn xe cộ vì phải chạy cho kịp giờ làm việc, và giờ thăm nuôi Tính.
Đúng vào lúc ba mẹ tôi đã lấy ngày phép đi chơi mấy nước châu Âu xả stress một tháng, anh Khôi cũng đi xa cho một cours mới học thêm. Chỉ còn mình tôi ở nhà, phải vừa đi làm, làm cơm đem vào nhà thương cho Tính, rất bận rộn, vì Tính chưa quen ăn đồ Mỹ. Có hôm nó phải nhịn ăn vì Tính nói là cơm nhà thương toàn mùi bơ, cheese, và mùi thuốc… muốn ói.
Tôi lo lắng nhưng không dám cho ba mẹ hoặc anh Khôi biết, sợ mọi người lại sốt ruột, bỏ về; từ ngày qua Mỹ đến giờ đây là lần đầu tiên ba mẹ tôi lấy phép đi chơi xa riêng với nhau như thế!
Trong cái rủi lại có cái may, đúng là Út Tính còn tốt phước, nơi em ấy nằm có một cô y tá người Việt, tên Hiền, thấy Tính tội nghiệp, cứ bị ăn uống trễ, khi uống thuốc sẽ làm đau bao tử, nên cô ta đã san sẻ phần cơm của mình cho Tính.
Lúc xong công việc sở, tôi vội vàng ba chân bốn cẳng chạy vào nhà thương là 9 giờ tối, giờ thăm nuôi đã hết, nhưng hôm đó là ca trực của Hiền, cô ta đã cho tôi vào thăm. Tôi thấy trên bàn nào là nước cam, táo đã được gọt sẵn, nho, bát cơm với thịt bò xào cải làn mà Tính đã ăn xong, còn để trên bàn chưa rửa, làm tôi thật cảm động tình đồng hương của Hiền.
Khi tôi cám ơn, Hiền chỉ yên lặng cười trừ, đôi mắt to chớp chớp, hàm răng thật đều với chiếc đồng điếu bên má trái thật duyên dáng. Lúc ấy tôi thầm ước mong phải chi cô ta là em dâu của tôi, giúp Tính qua cơn ngặt nghèo này thì cả gia đình tôi sẽ mang ơn lắm! Nhưng… ai mà thèm thương cái thằng dở dở ương ương ấy chứ! Có ma mới yêu được con người với tính cách “côn đồ” khác thường ấy! Tôi vẫn cố gắng nhờ Hiền chăm sóc cho Tính, làm cơm giúp tôi vì tôi thật bận không thể vào thăm Tính đúng giờ, và trả tiền cho Hiền.
Vào những ngày cuối ở nhà thương, Tính đã khả quan rất nhiều, bác sĩ cho biết đầu không có dấu hiệu bị chấn thương não và đang tập đi lại.
Sau khi đi làm ra khá trễ vào một buổi tối sau 9 giờ, lúc ấy cả nhà thương chẳng còn ai đến thăm nuôi người bệnh nữa, tôi không muốn làm tiếng động, phiền những người bệnh đã ngủ sớm, bước khẽ về phòng Tính, nhìn vào ô cửa, thấy cảnh Hiền ngồi gọt táo, Tính ngồi sát bên cạnh, nhìn Hiền với cặp mắt trìu mến lẫn hạnh phúc, hai người thầm thì với nhau thật vui vẻ; thì ra chính Hiền là động lực sống, hy vọng của Tính, tình yêu đã chuyển hướng cho chàng đi con đường đúng… Tôi thầm mừng trong bụng, thầm cảm ơn ông Trời đã nghe lời cầu xin của tôi. Ba mẹ sẽ mừng lắm khi biết Tính đã dần bỏ sau lưng cái quá khứ ảm đạm kia.
Một tháng sau, Tính đã hồi phục hẳn, Hiền chở Tính về nhà. Ra nhà thương mà trông chàng như mới đi nghỉ hè về vậy, da trắng trẻo, mập lên đến ba ký, nụ cười đã chớm nở trên môi, thấy nó thật yêu đời, không giống thằng Út Tính lầm lì mọi lần nữa.
Tôi đã lén kể chuyện của Tính và Hiền cho ba mẹ nghe, lần đầu tiên ba tôi hài hước với Tính từ khi nó về ở với gia đình chúng tôi; khi cả nhà chúng tôi xum vầy sau bữa cơm tối, ba tôi chọc:
-Người ta ở nhà thương ra phải gầy ốm buồn phiền, sao nó thì ngược lại, tươi rói, lại thay đổi thái độ, nói năng hòa nhã… Nhà thương này chữa giỏi à nhe! Bộ ai ở trỏng ra cũng được như thế này sao hả Phụng?
-Ba ơi, từ khi ba mẹ đi châu Âu, em Tính tuy ở nhà thương mà chăm chỉ học hành, đọc sách lắm, nên bây giờ tiến bộ đó!
Anh Khôi cũng thêm vào:
-Với lại nhà thương Mỹ bệnh gì cũng chữa khỏi được 100%, bệnh nào cũng dứt hết, gãy chân thì băng lại cho lành, buồn thì sẽ “có người” làm cho vui lại đó ba!
-Nhà thương bây giờ hiện đại nhỉ!… Ngày mai nhà mình làm tiệc để đón tiếp và cám ơn cô y tá có phép màu, tài giỏi này phải không bà?
Tôi thấy Tính giấu nụ cười hạnh phúc trên những trang sách đang cầm đọc trên tay.
Mẹ nháy mắt với tôi, thầm vui với sự thay đổi tích cực của Tính. Nghĩ lại những ngày tháng trước tưởng chừng gia đình sẽ phải từ bỏ đứa con “côn đồ” này rồi chứ!
Sỏi Ngọc
Montreal, Mars 2023
Gửi: Sat Dec 09, 2023 12:58 am Tiêu đề: Tình Nổi Loạn - Sỏi Ngọc
Tình Nổi Loạn
Chân dung tác giả Sỏi Ngọc
Tình Nổi Loạn
Sỏi Ngọc
Tôi ngồi thừ trước cửa sổ mở rộng trước mặt trong căn bếp không mở đèn; qua tấm kiếng những chiếc lá thu vàng rơi xuống là đà theo cơn gió thổi, có những chiếc lá vàng thật đậm màu bị sâu ăn lỗ chỗ, có những chiếc vàng ươm rất đẹp cũng... lìa khỏi cành cây.
Cuộc đời con người ta cũng thế, sự chia ly đến bất kể tuổi tác!
Buồn buồn, vừa làm cơm vừa nhớ lại lời chồng cự nự cách đây gần hai tháng:
- Cái gì bà cũng muốn kiểm soát tôi cả, đi đâu cũng hỏi, mua bán gì bà cũng xía vào nói dù đó chả phải việc của bà... tôi làm sao chịu nổi sự kiềm chế của bà, mà nhất là bây giờ bà và tôi đã về hưu, chả lẽ cự nự nhau đến suốt phần còn lại của cuộc đời này hay sao chứ?...
-... Cho em... tôi... xin lỗi, tôi chỉ cho ý kiến thôi...
- Lúc nào bà cũng cho ý kiến cả, cái tôi thích thì bà không thích và ngược lại, chả lẽ tôi sẽ phải sống theo ý bà mãi hay sao? Tôi đã sống theo ý bà 35 năm rồi. Bây giờ tôi có cuộc đời của tôi chứ!
- Vậy... anh... ông muốn sao?
- Tôi muốn... ly dị!
-... Ah!... ly... dị... sao?
- Phải! tôi đã nghĩ kỹ rồi, bà làm phiền tôi quá... Mình sẽ ly dị!
- Rồi căn nhà này?... các con sẽ ra sao?
- Vì bà và tôi có chung nhiều thứ quá nên tôi đã suy nghĩ bà cứ ở phần trên này, còn tôi sẽ ở basement, bà không được xuống dưới đó, cũng như tôi sẽ không lên đây. Đơn ly dị thì không cần phải làm vì đó chỉ là tờ giấy thôi, tôi và bà coi như ly thân trước rồi giấy tờ tính sau. Từ đây bà làm gì thì làm, tôi cũng có sự tự do riêng của tôi, không ai nói với ai và cấm cản gì nhau nữa.
Nói rồi, ông hung hăng xách tất cả sách vở, cây đàn guitar, cùng vài cái ly chén xuống để tự nấu nướng ở dưới ấy.
Tôi mở mắt thật to bàng hoàng, không dám nhúc nhích, hồn như nhẩy ra khỏi xác, nước mắt như đóng băng chưa kịp chảy, chỉ có đôi tròng mắt theo dõi ông đang tức giận đi qua đi lại khiêng hết đồ này đến vác đồ kia xuống basement như thực sự không muốn dính dáng gì đến bà vợ nói nhiều này nữa!
Tôi qua Mỹ theo diện HO cùng gia đình bố mẹ khi còn trẻ, chồng tôi vượt biên cả chục lần mới qua được đảo, rồi có thân nhân ở Mỹ bảo lãnh. Ông và tôi quen nhau khi tôi xin việc làm trong một tiệm ăn Nhật ở Garden Grove, vào một mùa hè để lấy tiền đi học. Ông là chủ quán đó, thuê người nấu ăn là người Nhật.
Tuy hơn tôi 15 tuổi, nhưng ông có bề ngoài trẻ trung qua tính cách, nên không ai nghĩ chúng tôi cách nhau nhiều tuổi như thế. Chúng tôi hợp nhau và mau mắn đi đến hôn nhân.
Ông rất chiều chuộng tôi. Cái gì cũng hỏi ý tôi, tôi thích thì ông mới làm, còn không thì chả bao giờ ông làm trái ý tôi.
Chúng tôi lấy nhau được 35 năm, tôi đều chăm lo cho ông từ cái áo đến đôi giày, từ cái quần lót đến cái nón, bất cứ thứ gì cũng là tôi phải đi chọn lựa mua đồ cho ông. Ông ăn mặc theo gout của tôi. Tôi thích làm bếp, ông cũng là người ăn theo sự nêm nếm của tôi, không bao giờ chê mặn ngọt gì cả.
Tôi làm kế toán cho hãng insurance bảo hiểm nhân thọ, ông lo chạy nhà hàng Nhật, ai lo việc nấy, chỉ cuối tuần là ông chở tôi đi chợ mua đồ nấu ăn cho cả tuần thôi, mà nhiều khi ông đem đồ ăn Nhật ở tiệm về cho gia đình cùng ăn. Buổi tối, tôi phải lo dậy học các con học bài, trong khi ông ngồi trong phòng riêng của ông lo sổ sách nhà hàng mỗi ngày.
Chúng tôi có hai con với nhau, chúng đã lớn và đi xa nhà theo công việc, chỉ còn mỗi hai vợ chồng chúng tôi.
Tôi mới về hưu ở tuổi 60, còn khỏe, định sẽ cùng chồng đi du lịch khắp nơi. Ông cũng đã bán nhà hàng và về hưu chỉ vài năm nay thôi vì đã lớn tuổi không kham nổi nữa.
Từ ngày ông về hưu trước tôi khoảng hai năm, ông nghe lời những người bạn nhậu độc thân rủ rê đi chơi đến tối mịt mới về, có khi qua cả đêm mà chỉ gọi phone về nói nhanh với tôi vài câu cho biết là ông không về nhà ngủ. Tôi chưa kịp nói gì thì ông đã tắt phone. Thế là cả đêm đó tôi lo lắng không ngủ được, không biết ông ra sao!
Tôi không hiểu tại sao ông lại thay đổi như thế, nên khi gặp ông về nhà vào hôm sau thì tôi phải hỏi chuyện và đã nói rất nhiều với ông, tôi kể lể những điều mà hai vợ chồng chúng tôi đã cùng nhau xây dựng, đã có con cái hạnh phúc 35 năm nay, ở tuổi già lẽ ra phải cùng nhau hưởng thụ chứ sao ông lại hành động thiếu suy nghĩ, nghe theo lời bạn bè đi đến những chỗ mà tôi không biết v..v... Thế là ông nói tôi nói nhiều, ông không thể nào chịu đựng được nữa, và muốn trở lại cuộc đời độc thân như trước kia để tự do muốn làm gì cũng không ai cấm cản.
Ông còn nói là chuyện ly dị này chỉ thầm lặng giữa chúng tôi thôi, không nên cho con cháu hay gia đình biết sẽ bị cười chê. Tôi im lặng nghe sự yêu cầu của ông và cảm thấy chắc tình yêu của ông đối với tôi chẳng còn nữa, vậy tôi miễn cưỡng chịu đựng và kéo dài để làm gì. Tôi vô cùng thất vọng và suy xụp khi tuổi hưu mới bắt đầu mà hôn nhân lại... tan vỡ!
Hai chữ ly dị đối với tôi thật nặng, đâu phải tình nghĩa 35 năm mà muốn nói sao cũng được đâu! Chả lẽ tôi phải ngồi đau khổ lo lắng những buổi tối ông vắng nhà, hay khóc lóc than thân trách phận? Hay ông chỉ muốn dọa tôi?! Tôi là loại phụ nữ độc lập, nếu muốn ly dị thật thì tôi sẽ thực hiện lời yêu cầu ấy cho biết tay!
Đã hai tháng nay chúng tôi chả ai nói với ai một lời cho dù nhiều lúc tôi cũng muốn xuống nước nói lời « xin lỗi » nhưng khi nhìn thấy ông đang sung sướng phây phây hưởng sự tự do của riêng mình... thì tôi lại khựng lại. Ông ấy đã không cần tôi nữa!
Cánh cửa lạnh lẽo giữa phần trên và phần dưới basement được ông đóng thật chặt, ra vào cũng bằng cửa riêng ở phía sau thì tôi không còn cơ hội nào để nói gì được.
Tôi cũng tự trách mình sao càm ràm nhiều đến nỗi người ta không chịu nổi nữa! Để tu tỉnh sửa đổi, tôi bật băng thầy Pháp Hòa giảng làm sao bớt nói mà học nghe, rồi làm sao sống cho hạnh phúc mà không tùy thuộc vào người khác, học chữ nhẫn nhịn, học vui với hoàn cảnh ta đang có, cuộc đời là vô thường, cái gì đến rồi sẽ đi... v... v...
Từ ngày ly dị tôi bỏ không ăn thịt cá nữa mà chỉ ăn rau quả cho nhẹ người, điều này tôi đã ao ước từ lâu được ăn chay trường nhưng vì làm cơm cho chồng con tôi phải nêm nếm, rồi cùng ăn với gia đình nên chưa có dịp.
Bây giờ mới thực sự là tôi được tự do làm mọi thứ mình muốn làm. Tôi ăn chay, ghi tên đi học thể dục, tập văn nghệ ca hát theo ý muốn.
Bỗng tôi phát hiện ra da mặt sáng hơn, người thon thả, cân lại bớt đi rất nhiều, ai gặp cũng bảo tôi độ này nghỉ hưu, hạnh phúc quá nên đẹp ra.
Bất chợt mùi cá kho bay lên tận trên nhà, tôi thầm nghĩ:
- Sao mùi cá kho này có vẻ kỳ kỳ tanh tanh, hình như thiếu gia vị hành ngò, tiêu gì đó... Nhưng thôi kệ, đèn nhà ai nấy sáng! Ly dị rồi!
Tôi nghe tiếng cạch cửa giữa nhà trên và basement, giật mình tôi quay lại, ông đưa cái nồi ra nói:
- Bà còn gạo không cho tôi xin mượn một lon nhé. Tôi quên không mua rồi...
Tôi không nói một lời nào mà lẳng lặng đi xúc gạo cho ông.
Trời chiều mùa thu gió khá mạnh, sau khi ăn cơm xong, tôi chui rúc vào phòng với cái ipad nằm nghe thầy giảng kinh.
Bỗng một tiếng động khá lớn cùng với tiếng rơi lẻng kẻng của cuốc xẻng rơi rớt sau nhà ngay sát phòng ngủ, như có ai xô đẩy, tiếng la của ai đó vọng vào; tôi vội vàng ngồi dậy, rướn người lên xem thử chuyện gì.
Hốt hoảng thấy chồng tôi nằm sóng soài ngay sát bờ tường. Vội vàng tôi khoác cái áo ấm chạy ra, đỡ ông dậy, ông cao và nặng, đè lên hai vai tôi, tôi ráng hết sức lết ông vào nhà, hai mắt ông nhắm nghiền, miệng méo xệch, mặt nhăn nhó, trán mồ hôi rịn đầy ra tuy rằng trời khá lạnh và gió, tôi gọi:
- Ông ơi! Ông... có sao không? có nghe tôi nói không?
Ông thều thào, nhăn nhó:
- Tôi... tôi đau bụng quá!
Tôi đỡ ông nằm dài ở sofa, ông nôn thốc nôn tháo, tôi vội vàng chụp ngay cái xô lau nhà gần gian bếp ra hứng, ông ói toàn là cá mới ăn hồi chiều. Mùi tanh nồng.
- Chắc ông làm cá không kỹ,... rửa không sạch, hay nấu chưa chín?
- Cá có cần lấy ruột ra không?... tôi để yên như thế!
- Sao... không nói tôi nấu cho...
Tôi lấy dầu bôi vào bụng cho ông, lấy bình cao su nước nóng trườm vào thêm cho ông ấm áp, thay bộ quần áo mới cho ông, rồi đi nấu ly nước trà gừng giải độc.
Sau khi ói ra hết thức ăn hồi chiều thì có vẻ êm, ông hiu hiu ngủ trên sofa.
Bỗng nhiên ông bật dậy nói:
- Thôi, để tôi xuống nhà nằm, để khỏi phải nằm trên cấm địa này!
Ông đứng lên nghiêng ngả, cả người lại đổ ập xuống đất, tôi vội vàng chạy lại:
- Ông cứ nằm ở đây nghỉ đi, khi nào khỏe hẳn thì hãy xuống, tôi đâu có nằm ngoài salon này đâu, tối tôi vào buồng ngủ cơ mà!
- Tôi... lạnh quá!
Tôi vội vàng vào phòng tìm thêm cái mền dầy hơn đắp cho ông, để tay lên trán ông thấy hâm hấp nóng, tôi đưa ông ly nước ấm:
- Ông uống 2 viên Tylenol cho hạ sốt nhe.
Nửa đêm tôi lại nghe tiếng động khá lớn bên ngoài, ông muốn đi vào nhà tắm nhưng không đi được vì phát hiện ra mắt cá chân xưng phồng bị bong gân khi té sau nhà!
Tôi lại đỡ ông lên sofa, khi đặt ông xuống thì ông bám lấy vai tôi, cả người tôi té đè lên người ông, hai khuôn mặt chúng tôi gắn khít vào nhau. Bốn con mắt nhìn nhau, ngay phút giây ấy, tôi cảm thấy tình cảm của tôi giành cho ông vẫn nguyên vẹn trong tim. Nhưng thôi... Tôi cố vùng dậy, sửa lại cái áo, lấy cái bô để ngay dưới sofa khi cần dùng, xoa dầu và băng cái chân mắt cá đang xưng vù của ông.
Liếc nhìn mặt ông, tôi thấy ông có vẻ sượng sùng vì chịu sự giúp đỡ bất đắc dĩ của tôi, vậy mà chính ông là người đòi chia đôi tất cả, chấm dứt cuộc sống chung vợ chồng.
Suốt hai ngày, ông nằm yên ở sofa, tầng trên nhà với tôi; tôi phải đi chợ, nấu nồi cháo thịt băm cho ông ăn có sức, giúp ông làm vệ sinh, thay quần áo, đánh răng, lau mặt. Mỗi lần như thế tôi thấy ánh mắt ông thật trìu mến, đầy biết ơn, hối hận, nhưng vì tự ái vẫn không nói lời nào.
Mới bước vào chợ Việt Nam, tôi đã nghe tiếng cô bạn Trang gọi ơi ới nơi bán thịt, cô bạn này thỉnh thoảng tôi hay gặp mỗi lần đi chợ Việt:
- Tường Vi nè, gặp bà tui mừng quá, tính phone bà tối nay... Tụi này đang làm ngày gây quỹ, quyên tiền cho mùa lụt ở Huế, bà giúp tụi này nhe, kêu gọi mọi người cùng đóng tiền gởi về Việt Nam, mình cũng làm một màn văn nghệ, hoạt cảnh bữa đó nhe.
- Bao giờ vậy bà?
- Vào ngày Thanksgiving Lễ Tạ ơn đó!
- Đúng vào ngày đó hả?
- Ừ, tụi mình làm văn nghệ buổi trưa, còn buổi chiều nếu bà bận với gia đình thì ok rồi.
- Cũng được đó, vậy bao giờ tập văn nghệ... bà đón tui đi.
- Ngày mai hẹn bà ở đầu đường nhe, tui đi ngang qua đón bà với bà Kim luôn rồi tụi mình đến thẳng nhà anh Nguyên tập hát, ở đó có băng nhạc, họ tập cho mình luôn.
- Anh Nguyên...
- Cái ông mà hồi xưa theo bà khi còn đi học đó nhớ không? cái ông mà suốt ngày đeo kiếng mát trong lớp đó mà tụi mình đặt tên là không không thấy đó... Bây giờ ổng lập gia đình rồi, mà cũng ly dị luôn rồi, hổng nghe nói đến con cái gì hết... Bà biết không tui nghe nhiều người nói ở tuổi về hưu 60-65 này rất nhiều gia đình lục đục ly dị vì không hợp nhau đó nhe, hồi xưa họ bận đi làm, con cái nên không có nhiều thì giờ ở bên nhau. Bây giờ ở cạnh nhau 24/24 thành ra họ thấy tật xấu của nhau đưa nhau ra tòa ly dị nhiều lắm đấy!
Tôi chột dạ, nói trống:
- Vậy sao, tùy duyên bà ơi! vật đổi sao dời há... Gặp lại bà tui rất vui!
- Hồi xưa nhớ không? năm nào mà tụi mình không họp nhau làm chợ Tết Việt Nam ở Phước Lộc Thọ, nào là bán chả giò, bánh mì, bánh bao, văn nghệ ca hát múa tùm lum hết, quyên tiền cho người homeless ở Cali, tụi mình cùng nhau đi chợ mua đồ về nấu cơm phân phát cho họ để cám ơn quê hương thứ hai này đã cưu mang dân tỵ nạn mình nè. Nghỉ 35 năm lo lập gia đình con cái, bây giờ tụi mình về hưu hết mới quay lại văn nghệ tiếp. Nghiệp bà ơi!... Chắc con bà cũng lớn hết rồi chứ gì?
- Đúng rồi, tụi nó lớn hết, đi hết luôn, một đứa thì ở San Diego, còn một đứa thì ở Bắc Cali; bây giờ tui tự do lắm, hú đi đâu là tui đi ngay!
- Vậy được, để ngày mai tui đón bà nhe. Nè mà sao chỉ có tui và bà là có duyên gặp nhau thôi, mấy bạn gái người Việt mình trong lớp hồi đó tui chả gặp ai hết.
- Duyên... trôi nước mà! Thôi, tui về trước nhé, hẹn bà trưa mai!
Tôi về lòng hớn hở vì gặp lại bạn thời trung học, còn vui hơn nữa là làm từ thiện, một mục đích cao đẹp, giúp cho người kém may mắn hơn mình; ngày mai sẽ gặp Nguyên, anh chàng này đã từng là cái đuôi của tôi, nhưng anh ta quá hiền, chả bao giờ nói gì với tôi mà chỉ ngắm tôi từ xa, lâu lâu bỏ vào thùng thơ nhà tôi mấy bài thơ tình lãng mạn. Có hôm trời mưa thật to, chàng đã đem cho tôi mượn cây dù mà tôi nhớ mãi và còn giữ đến hôm nay vì nhất định không chịu lấy lại.
Thấy tôi vừa làm bếp, vừa tủm tỉm cười vì nghĩ lại cuộc đối thoại với Trang ở chợ, chồng tôi nằm ngay sofa giả bộ nhắm mắt nhưng vẫn tò mò để ý xem vì lý do gì hôm nay tôi vui thế. Nấu bát cháo thịt cho chồng xong, tôi với tay bật bài Nắng Chiều để tập hát trước cho quen, chồng tôi vẫn lắng tai nghe.
Tiếng phone reo lên, ông theo dõi tiếng tôi trả lời với đầu dây bên kia:
- Vâng! Đã lâu chưa hát lại,... gặp nhau ngày mai nhé. Có gì gởi email đi nhe... Vâng thời gian trôi qua thật nhanh...
Tôi thấy ông có vẻ thấp thỏm muốn nói điều gì, đôi lông mày châu lại, rồi giãn ra, nhưng lại không dám vì chính ông là người gây ra khoảng cách này!
Khi tôi mới đi tập hát với các bạn về, định bước vào nhà tôi nghe tiếng ông nói chuyện phone với một người bạn:
-... vợ tôi gặp tên đó à?... còn ngả đầu vào vai nó nữa? văn nghệ cho ngày Tạ Ơn sao? Tạ ơn ai?...Tôi sống trên đất Mỹ này đã 40 năm... đúng thật là chả bao giờ biết đến chuyện làm văn nghệ văn gừng nhăng nhố cho người ta xem, già rồi còn lên sân khấu làm gì nữa, để mấy đứa trẻ mới lên sân khấu chứ... Mình đi làm đóng thuế cũng là một hình thức trả ơn quê hương thứ hai này rồi còn gì!... Nói thật tôi cũng vì nghe các ông xúi đốc vô mà mạnh dạn về đòi ly dị với vợ, bậy thật! bây giờ... không biết làm sao mà nói lời xin lỗi...
-...
- Phải rồi, bả nhỏ hơn tôi 15 tuổi, nhìn còn trẻ trung lắm, không có tôi đi theo hèn chi tên đó sáp lại gần bả nói chuyện. Tôi cũng biết hắn ta hồi đó, hiền... mà lợi hại nhe!... Hôm đó tôi uống hơi nhiều, thêm vào mấy ông cứ nói cuộc đời phải tự do, độc thân là sướng nhất, mới có hai tháng ly dị thôi mà tôi thấy thật khổ, không ai nấu cơm cho, tôi nấu nửa chín nửa sống, đồ thì mặc nhăn nhúm, ăn xong cũng phải tự rửa bát, té cũng phải nhờ người ta đỡ đần, bôi thuốc; nếu mấy bữa bệnh không có bả lo cho tôi thì chắc giờ này không biết có còn ngồi đây nói chuyện được với mấy trự không nữa! tôi... già rồi mà còn nghe xúi bậy!
-...
- Bây giờ thì tôi bớt rồi. Cuối tuần này hả? ngay Phước Lộc Thọ sao? ừ... ừ...được đó! nhớ giữ cho tôi một ghế nhe.
-...
- Ok bye nhe.
Thấy tôi bước vào nhà, ông làm bộ nằm xuống như đang ngủ.
Tôi mừng vì thấy ông đã khỏe lại, tỉnh bơ với tay vặn nhạc
Anh nhớ trước đây dáng em gầy gầy
Dịu dàng nhìn anh đôi mắt long lanh
Anh nhớ bước em khi nắng vương thềm
Má em mầu ngà tóc thề nhẹ vương (ca khúc Nắng Chiều- Lê Trọng Nguyễn)
Một tuần nhanh chóng trôi qua, dáng ông đi qua đi lại ở cửa sổ sau nhà bếp, mắt nhìn vào bên trong rình xem tôi đang làm gì, nhưng tôi vì bận lo tìm cái áo tứ thân đã bỏ quên trong kẹt tủ từ mấy chục năm nay, tập hát cho đúng nhịp, tập học thuộc bài để đóng cho đúng vai cô gái thôn quê nên không để ý đến ông cũng đang lẩm bẩm hát nhỏ nhỏ bên ngoài.
* * *
Trên sân khấu nhìn xuống khán giả chật cả đại sảnh, người ngồi kẻ đứng khắp mọi ngõ ngách, có người leo lên cả cầu thang lầu hai đứng nhìn xuống xem hoạt cảnh đặc biệt của chúng tôi diễn với tất cả chân tình, họ thả những cánh hoa hồng xuống để hoan nghênh khi bài Nắng Chiều chấm dứt.
Bất chợt từ hàng dưới khán giả, một ông mặc chiếc áo dài the đen, tóc muối tiêu đội mấn đen, quần trắng, chân đi guốc lóc cóc bước lên sân khấu với bó hoa hồng thật to; như ăn ý với ban nhạc từ trước đó, cả ban nhạc dạo lại khúc cuối, ông cất tiếng hát tự tin vững vàng làm các diển viên ca sĩ chúng tôi tròn mắt ngạc nhiên:
Anh nhớ xót xa dưới tre là ngà
Gợn buồn nhìn anh em nói: "Mến anh! "
Mây lướt thướt trôi khi nắng vương đồi
Nhớ em dịu hiền nắng chiều ngừng trôi
Vừa hát, ông vừa đến bên cạnh tôi, trao cho tôi bó hoa hồng và cầm tay tôi để lên ngực ông ở câu:
Nhớ em dịu hiều nắng chiều ngừng trôi...
Bên ngoài, buổi chiều đang dần xuống, ánh nắng chỉ còn lại một dải mờ nhạt trên ngọn cây, gió bắt đầu mạnh, tôi cảm thấy tuổi hưu bắt đầu những chuỗi ngày ngọt ngào trong việc làm từ thiện; tưởng sẽ đem hạnh phúc cho người bất hạnh, nhưng ai ngờ chính công việc ấy cũng đem lại niềm vui ấm áp cho người đã cho đi.
Một ngày Tạ Ơn đời, Tạ Ơn người thật ý nghĩa làm sao!
Gửi: Sat Dec 23, 2023 3:11 am Tiêu đề: MERRY CHRISTMAS & A HAPPY NEW YEAR!
MERRY CHRISTMAS & A HAPPY NEW YEAR!
MERRY CHRISTMAS & HAPPY NEW YEAR!
Sỏi Ngọc
MERRY CHRISTMAS & HAPPY NEW YEAR!
Sỏi Ngọc
MERRY CHRISTMAS & A HAPPY NEW YEAR!
Tôi nắn nót từng nét chữ vụng về trên chiếc Christmas card chúc mẹ thật nhiều sức khỏe, thật nhiều niềm vui bên những người bạn thân yêu của mẹ trong ngày Giáng Sinh; cẩn thận xếp tấm card với tất cả lòng yêu thương gởi gấm đến mẹ, bỏ vào bao thơ, dán lại, gởi bưu điện ngay chứ không thì sẽ không kịp ngày, Giáng Sinh chỉ còn vỏn vẹn mười ngày nữa thôi.
Năm nay tôi lại không có mặt bên mẹ, chắc mẹ sẽ buồn và thất vọng lắm, nhưng tôi không thể nào làm khác hơn!
Từ khi mới sinh, tôi vẫn quen với tấm hình duy nhất của người đàn ông trên bàn thờ mặc bộ đồ lính VNCH rất oai hùng, với một bông mai bạc gắn trên vai áo.
Lớn một chút, tôi mới hiểu đó là bố tôi đã từng đi lính VNCH để bảo vệ tổ quốc, sau đó khi miền Nam bị cưỡng chiếm, bố bị đi “học tập cải tạo” 6 năm; khi được thả về, bố vượt biên đến bốn năm lần mới qua được Pulau Bidong; gặp mẹ trên đảo, hai người yêu nhau, rồi sang Mỹ làm đám cưới, khi bố đã hơn 40 tuổi.
Vì đi tù ở khu rừng thiêng nước đọng, làm việc nhiều, nhịn đói, nhịn khát, ăn uống qua quýt, toàn là sắn và khoai, có khi ăn cơm độn bobo, sạn lẫn trong gạo, nhiều lúc cắn nhầm thì gẫy răng, nuốt nhầm thì đau bụng lăn lộn mà không ai cho thuốc men, đi ngoài ra máu cũng ráng chịu. Khi qua Mỹ, cơ thể ngày càng yếu, bố sống không thọ, đã qua đời ở tuổi 48, bỏ lại mẹ mới 35, còn tôi chỉ mới 4 tuổi.
Trước khi mất, bố đã trăn trối với mẹ:
Nhất định nuôi thằng cu cho lớn khôn, thành tài và không để nó đi lính! Cho dù ở bất cứ hoàn cảnh nào cũng tránh nhập ngũ vì sẽ làm cho con người ta hận thù, tổn hại tinh thần, sức khỏe... Hãy hứa với anh nhé!
Hình ảnh bố cương trực, người trai của sông núi thuở ấy chắc phải đẹp và can trường lắm, tôi tìm thêm sách vở đọc về người lính sĩ quan của những năm 1965, càng khâm phục và hãnh diện được làm con trai của bố hơn nữa.
Có một lần trường học tổ chức cho chúng tôi, những em học sinh viếng trại quân binh ở thành phố Westpoint, New York, để biết thêm cách sống, sinh hoạt, sự hy sinh của những người lính để thấy rõ sự sống linh động cho một môn học; tôi được thấy tận mắt từng đoàn quân binh tập bước chân đi thật đều đặn, kỷ luật; những động tác chào, tuy nhỏ nhặt nhưng dứt khoát và oai hùng làm sao ấy, đã thấm nhuần vào đầu óc non nớt của cậu bé 10, 12 tuổi; sự khát khao được vào quân đội Mỹ như ngọn lửa nhen nhúm vào trong tim lúc nào không hay và thôi thúc khôn nguôi!
Vào lần sinh nhật của tôi, mẹ dắt vào hàng Toy’r us để mua quà sinh nhật, mẹ lấy ra cả khối đồ chơi cho tôi chọn: nào là ống nghe của bác sĩ, cái kìm nhổ răng, khẩu súng trường, cái chảo nấu đồ ăn, cây bút chì, cái bàn máy tính computer... Tôi sung sướng tung tăng chọn ra hai thứ, mỗi tay cầm một cái: kìm nhổ răng và khẩu súng trường. Mẹ giật mình lấy ra khỏi tay tôi khẩu súng vứt ra xa, tôi dậm chân khóc, nhất định chạy nhặt lại khẩu súng cho bằng được. Năm ấy tôi lên 6.
Từ lúc đó, mẹ cẩn thận coi chừng tôi thật kỹ, không cho tôi xem những bộ films kích động mạnh, bắn súng, chém giết, mà chỉ xem những băng hoạt hình nhẹ nhàng, yêu thương ở lứa tuổi tôi, tập cho tôi chơi với các bạn hiền tốt ở trường, hướng cho tôi trở thành người có ích cho xã hội và biết giúp đỡ người chung quanh.
Cuối năm 16, sắp vào 17 tuổi, sau khi đi học về, thấy mẹ đang làm cơm trong bếp, tôi vứt cặp ngoài salon, chạy vào ôm lấy mẹ:
Mẹ ơi, thằng Timy trong lớp con sẽ đăng ký quân đội Hoa Kỳ... Mẹ cho con đi với nó nhe?
Không thể được, con còn nhỏ đang đi học sao lại đi lính? Con...
Mẹ đừng lo, con đăng ký đi lính nhưng sẽ vẫn tiếp tục đi học, như nó...
Mẹ không muốn con đi lính con hiểu không? bố đã dặn mẹ phải nuôi con đi học, ra trường thành người tốt có ích cho xã hội, không được đi lính!
Tại sao? Tại sao lại không được đi lính? Đi lính cũng có ích cho xã hội vậy, sẽ bảo vệ nhân dân, bảo vệ tổ quốc... như bố!
Không thể nào được, con chưa hiểu đó thôi! con có thấy bố đi lính ở một chế độ, sau này chế độ đó không còn nữa bố phải trả giá bằng cả cái mạng đó. Mình sống ở nước Mỹ được tự do, tại sao con không học thành bác sĩ, kỹ sư như bao người khác mà phải đi lính chứ? Ai bắt con phải lấy cái nghề hy sinh mạng sống của mình như vậy? rồi lỡ họ điều con qua mấy nước Trung Đông đánh nhau thì sao?... Mẹ chỉ có mình con thôi! Mẹ không bằng lòng!
Mẹ! mẹ nghe con nói đây, con hứa sẽ học thành nha sĩ nhưng con muốn được vào lính, con sẽ vừa đi học trường, vừa tập hành quân như những anh lính trong quân đội vậy. Đó là ước nguyện của con, mẹ bằng lòng nhe mẹ?!
...
Mẹ giận tôi, không nói gì nữa bỏ vào phòng ngủ.
Tôi nhìn lên hình bố vừa thầm thì vừa đưa tay vuốt mặt bố:
Bố ơi, hãy đổi ý cho con được nhập ngũ nhe, con hứa sẽ cố gắng học giỏi, sẽ làm nha sĩ giúp ích cho người dân, cho bố mẹ vui lòng.
Ảnh minh họa
Trong lớp khá nhiều bạn Mỹ nhập ngũ khi vừa mới 17 đúng, tụi nó vẫn đi học, lâu lâu thấy chúng nó vào trường với bộ đồng phục xanh màu lá cây trộn lẫn vằn vện với màu nâu đen của đất đá, đầu đội mũ beret, chân đi boots ống cao, nhìn thật oai phong; sau những buổi tập quân sự bò lê, trườn sát, nhảy xào... thấy chúng nó càng cứng cỏi, da ngâm đen lẫn với màu đỏ của nắng cháy làm hấp dẫn tôi thêm nữa.
Tôi không thể chờ lâu được nữa, biết nếu có xin mẹ hòai cũng không được, đánh bạo, tự đem nộp hồ sơ vào quân đội và bắt đầu làm những bài kiểm tra về sức khỏe, vì còn tuổi vị thành niên dưới 18 tuổi, cần phải có chữ ký của mẹ, làm sao đây? Buổi tối về, tôi cùng ăn uống với mẹ, hai mẹ con nói chuyện thật vui, bất chợt tôi nói vu vơ:
Nếu một ngày nào đó mẹ ăn cơm một mình, không có con thì mẹ có buồn không?
Mẹ nhìn tôi một lúc rồi như dấu cái buồn cho riêng mình, mẹ cười vang lên:
Con tưởng mẹ lúc nào cũng phải cần có con hay sao? Con còn phải có cuộc sống của riêng con, tương lai của con, nếu một mai con đi học xa ở một tỉnh khác thì mẹ sẽ phải ăn cơm một mình thôi! Cuộc đời là thế, không lo!
Mẹ... không buồn và giận con hả?
Mẹ ôm lấy tôi như đứa con nít:
Giận gì mà giận! mẹ sẽ rất vui nếu con làm nên sự nghiệp của riêng mình, mẹ bằng lòng ở một mình và có niềm vui khác với các bạn của mẹ, có sao đâu! Miễn sao lâu lâu con về thăm mẹ, hay phone cho mẹ là được rồi.
Hôm đó thấy mẹ vui, tôi lấy từ trong cặp ra tờ đơn xin nhập ngũ vào quân đội, rón rén để lên bàn, năn nỉ mẹ:
Mẹ hãy đọc và ký tờ consent form này cho con nhe...
Mẹ cầm đọc, mặt từ từ đổi từ vui sang nghiêm trang:
Mẹ nói mãi con không hiểu hả? bố đã trăn trối nói không muốn con vào lính mà, con không nghe lời hả? mẹ sẽ không ký đâu!
Nếu mẹ không ký con sẽ chờ đúng 18 tuổi để tự mình đăng ký đó.
Mẹ ngước mặt nhìn tôi vừa buồn, vừa thất vọng lẫn tội nghiệp đứa con trai duy nhất.
Rốt cuộc mẹ vuốt tóc tôi:
Thôi, con cứ đi ngủ đi, mẹ suy nghĩ đã...
Sáng hôm sau thức dậy, tôi đã thấy tờ đơn đã ký để trên bàn salon, mẹ đã đi làm từ sáng sớm, tôi hôn lên chữ ký trên tờ giấy, mừng quá nhảy cỡn lên như đứa con nít, đến bên bàn thờ của bố tâm sự:
Bố ơi, con cám ơn bố, cám ơn bố rất nhiều đã run rủi cho mẹ chịu ký đơn cho con, con biết điều này làm bố mẹ không vui, nhưng con yêu được làm người lính, được đứng vào hàng ngũ của quân đội, được mặc bộ đồ quân binh oai hùng như bố để bảo vệ đất nước... Con hứa sẽ học ra nha sĩ quân đội để dùng đôi tay và khối óc này phục vụ quân đội... Bố! tha lỗi cho con đã đi ngược lại điều bố muốn nhe!
Kể từ ngày nhập ngũ vào cuối mùa thu, những tân binh không được về phép mà phải tập luyện liên tiếp kéo dài từ 4 đến 6 tháng, bù vào khoảng thời gian mà chúng tôi đã mất ở đại học. Vào trường quân sự phải tập trườn, bò, lết, trèo, rồi có lúc mới 4 giờ sáng, khi nghe tiếng còi hụ tất cả phải thức dậy, làm giường thật thẳng tắp, không một chút vết nhăn nào cả, làm vệ sinh, mặc quần áo thật nhanh và chỉnh tề ra xếp hàng bên ngoài sân; có một tên tân binh mới được 17 tuổi một ngày, mắt nhắm mắt mở thế nào mà chân phải mang một chiếc boot, chân trái mang chiếc giầy thường, hắn bị anh chỉ huy bắt phạt nhẩy xổm 5 vòng cả một khoảng sân thật rộng.
Chúng tôi tập chạy ban đầu 5km, sau đó tăng dần lên 10km với chiếc ba lô nặng sau lưng. Lúc đầu tôi mệt nhoài, thở không ra hơi, chóng mặt muốn xỉu, tưởng sẽ bỏ cuộc nhưng dần dần thân thể đã quen được với lối tập luyện khổ nhọc này, tôi có thể chạy xa hơn với sức nặng 30 kg trên lưng. Chúng tôi được tập khâu vá quần áo, ủi đồ, giặt đồ, lau giầy, làm cơm. Đây là những công việc của mẹ mà tôi chưa bao giờ đụng đến nên khi tôi tập vá áo, hai hàng nước mắt chảy xuống ướt cả mặt vì nhớ công lao mẹ đã nuôi, đã khâu vá áo cho tôi mỗi khi tôi chạy nhảy rách quần áo từ lúc còn nhỏ. Từng miếng sandwich kẹp thịt cũng được mẹ làm cho, nay phải tự làm, tôi thấy mình thật may mắn và tình yêu thương, biết ơn mẹ dâng trào trong tim.
Sau ba tháng tập luyện chuyên sâu trong quân đội, tôi mong ngóng ngày về, chưa bao giờ tôi xa mẹ lâu đến thế. mong được nhìn thấy mẹ, được ôm lấy mẹ bằng da, bằng thịt và hít hương thơm nhẹ từ mái tóc dài của mẹ.
Nhưng một buổi tối, tiếng còi hụ tập họp tất cả những tân binh, họ ra lệnh phải ở lại trại qua mùa Giáng Sinh! Tôi nghe mà điếng cả lòng, thất vọng vô cùng, thấy tim đau thắt lại, hình ảnh mẹ hiện ra trong đầu lẻ loi bên cửa sổ ngóng trông tôi. Bất giác giọt nước mắt lăn xuống má, tôi vội chùi ngay sợ có ai thấy lại bảo tôi quá tình cảm ủy lụy. Tôi cắn răng chịu đựng cho cảm xúc qua đi, thầm nghĩ chắc họ muốn thử thách lòng can trường của những tân binh trẻ tuổi!
Trong trường học quân sự, một cây thông thật, cao vút được dựng lên, với một ngôi sao to lấp lánh trên ngọn, xung quanh được bao quanh bởi những dây đèn đủ màu xanh đỏ vàng chớp nháy thật rực rỡ, dưới gốc cây cả ngàn gói quà cho các tân binh để đón chào họ đến trường quân sự năm đầu tiên, hưởng mùa Christmas xa nhà đầu tiên và cùng các chiến hữu đón ngày Chúa sinh ra đời đầm ấm bên nhau.
Bên cạnh cây thông với những ánh điện tỏa sáng ấy, một hang đá với máng cỏ, bên trong có tượng chúa Hài Đồng, tượng Đức Mẹ Maria, xung quanh là những thiên thần, tượng Ba vua, thánh Giuse, những chú lừa rải rác.
Ban hậu cần để nhạc “we wish you a merry Christmas... And a happy New Year”
Ai nấy đều vui, hớn hở khi nghe bài hát này, chỉ riêng tôi đứng xa xa nhìn mà cảm thấy thật vô vị.
Những mùa Giáng Sinh năm trước tôi đều nghe bài hát này, cảm thấy Giáng Sinh là mùa gia đình đoàn tụ quây quần bên nhau, nhưng hôm nay xa nhà, xa mẹ đã hơn 3 tháng, tôi thấm thía nỗi nhớ nhà, nhớ mẹ vô cùng! Nhưng tôi vẫn không hối hận với quyết định của mình đã chọn.
Tôi thầm hát nho nhỏ: “Mom, I wish you a Merry Christmas and all the joy, peace, love at this time”
Thiệp Giáng Sinh đã gởi đi rồi, chắc mẹ đã nhận được, mẹ buồn lắm, nhưng sẽ chịu đựng cho qua thôi, tôi phải tuân thủ chỉ thị cấp trên!
***
Đúng vào đêm 24 tháng 12, ngày Lễ Vọng (Christmas Eve), 12 tiếng chuông nhà thờ vang lên ở đâu đây, hồi hộp đứng bên ngoài ngôi nhà thân yêu của chúng tôi, vòng hoa holly với chiếc nơ đỏ dài được trang trí ngay ngắn ở chính giữa cửa, đây không phải là giấc mơ chứ! Tôi hít một hơi thật sâu, tay xoay nắm cửa bước vô.
Ánh đèn nhấp nháy đủ màu hắt ra từ cây thông trong góc nhà, dáng mẹ ngồi yên bên sofa, khuôn mặt hướng ra cửa như chờ đợi một điều gì đó, cặp mắt bất giác mở to khi thấy dáng tôi đứng sừng sững giữa khung cửa, mẹ không tin vào mắt mình, lấy hai tay dụi mắt, không nhận ra tôi, nhìn tôi từ đầu đến chân, vì cái đầu lính trọc lóc của tôi, bộ quần áo nhà binh làm tôi như lớn hơn, già giặn hơn.
Vài phút trôi qua, mẹ đứng lên ôm chầm lấy tôi trong làn nước mắt:
Thằng Cu... con đã về!
Mẹ! mẹ... khỏe không? con nhớ mẹ lắm!
Tôi chưa bao giờ yêu mẹ đến chảy nước mắt nhưng đây là lần đầu tiên, tôi ôm chặt lấy mẹ, biết ơn mẹ, dụi đầu vào mái tóc thơm của mẹ hít hà, mẹ lắp bắp:
Ủa, sao... sao con được về vậy? con nói là phải ở đó qua Giáng Sinh mà?
Vâng, lẽ ra là vậy, nhưng hôm nay ông trưởng đoàn cho những tân binh trong gia đình có con duy nhất được về với gia đình nên con mới được về đây!
Vậy có đông người là con duy nhất không?
Khoảng 250 người trong cả ngàn người đó mẹ.
Quân đội Mỹ cũng có lòng nhân từ quá, biết nghĩ đến người cha/ mẹ cô đơn lẻ loi ở nhà trong ngày lễ nhỉ.
Tiếng hát thánh thót phát ra từ chiếc TV gần đó:
I wanna wish you a Merry Christmas
I wanna wish you a Merry Christmas
I wanna wish you a Merry Christmas
From the bottom of my heart
Cùng nắm tay hát vang, ngày giáng sinh an lành
Cầu chúc cho mỗi người, hạnh phúc với nhau trong hương bay ngọt ngào. (Féliz Navidad)
Mẹ cắt cho tôi miếng bánh mừng ngày Giáng Sinh, đặt muỗng bánh vào miệng tôi nói:
Mẹ ơi, đây chính là mùa Giáng Sinh đẹp nhất...
... và sự trở về nhà của con là một món quà hạnh phúc nhất của Chúa ban cho gia đình mình vào ngày Chistmas Eve!
Gửi: Tue Mar 19, 2024 11:09 pm Tiêu đề: Tấm lòng của kẻ thứ ba!
Tấm lòng của kẻ thứ ba!
Ảnh tác giả chọn
Tác giả lần đầu tham dự VVNM với bài Cay Nghiệt, hiện đang làm cố vấn đầu tư tài chính cho một ngân hàng tại Montreal Canada. Tác giả cho biết có dự định về hưu non để làm những việc mình từng đam mê như viết lách, đi du lịch, ca hát. Đây là bài mới nhất của tác giả.
*
Cánh cửa ngăn cách giữa hải quan và người chờ thân nhân vừa mở ra tại phi trường Norman Y. Mineta San Jose, tiểu bang California, Hoa Kỳ, mọi người đổ xô háo hức đứng lên, cặp mắt ai nấy mở thật to với những bó hoa, bong bóng đủ màu trên tay sẵn sàng chào đón người thân từ xa đến.
Riêng tôi... cũng có hoa tươi, bong bóng hình gấu, hình trái tim... nhưng vai trò của tôi thật bất đắc dĩ. Tôi đi đón... vợ của người ta! Phải rồi, vợ của tên bạn thân, Chương lúc nào cũng bận rộn đi gặp khách hàng, không có thì giờ đi đón vợ trở về từ tiểu bang Pennsylvania sau bốn tháng đi tu nghiệp chuyên sâu về bác sĩ nhi đồng.
Chương có nói với tôi nếu hắn ký hợp đồng xong sớm với khách sẽ phone cho tôi, hắn sẽ rước thằng bé Dann, con của hai vợ chồng hiện đang gởi ở nhà bà nội khá xa, và cùng nhau đi ăn cơm chiều.
Khuôn mặt của Khải Vy, vợ Chương, hiện ra trong đầu, một phụ nữ nhẹ nhàng, thanh lịch, nụ cười với cái đồng điếu ở khóe môi thật quyến rũ mà cả một thời trung học tôi đã si mê cái đồng điếu ấy! Tôi yêu nàng thầm lặng trong tâm khảm, nhưng ngoài mặt thì đối xử như một người bạn thân, tôi đã ngu si nghĩ rằng nàng sẽ để ý đến sự chăm sóc đặc biệt của tôi mà đối đáp lại cái tình cảm trân quý ấy.
Nhưng không! Nàng vốn dĩ sanh ra và lớn lên trong một gia đình khá giả, con gái rượu, được cưng yêu chiều chuộng, nên xem sự đối xử tốt của tôi như chuyện bình thường không chút đặc biệt nào cả.
Rồi khi lên đại học, tôi vẫn cứ lẽo đẽo theo nàng, câm nín không đủ tự tin để thổ lộ; ngoài tôi ra còn khối anh chàng đẹp trai, sáng giá bám đuôi; nàng học môn gì, tôi cũng theo bén gót, nàng học rất giỏi, lúc nào cũng đứng đầu mọi mặt, nàng theo ngành bác sĩ nhi đồng, tôi cũng thế, cũng may là sức học của tôi không đến nỗi tệ nên cả hai chúng tôi đều được nhận vào làm chung một nhà thương lớn ở San Jose sau khi ra trường.
Nàng vẫn ngây thơ không biết tình cảm của tôi âm thầm đối với nàng. Còn tôi thì cứ loay hoay chọn một thời cơ thích hợp để thổ lộ con tim mình.
Đùng một cái, nàng đưa thiệp báo hỷ! Tôi chới với như bị nhấn chìm xuống đáy biển!
Nàng lấy Chương, thật không môn đăng hộ đối tí nào! Tôi cũng chưa bao giờ nghe nàng bàn luận gì về vụ này, khác với những chuyện mà nàng thường hay lấy ý kiến tôi khi quyết định việc hệ trọng, vì nàng chỉ thân với tôi nhất mà thôi.
Ngày nàng lên xe hoa là ngày tôi tưởng mình đã chết! Toàn thân tê tái, sững sờ. Tôi phải giả bộ nói có việc rất bận của gia đình, không sao tham dự được, tôi đau xót kiệt quệ đến ốm cả tuần lễ mới cố vực dậy được. Thế mà tình yêu của tôi đối với nàng vẫn không suy xuyển...
Tháng ngày trôi qua, đã bôi xóa đi vết đau oan khiên trong trái tim, tôi trở thành kẻ thứ ba bất đắc dĩ trong tình yêu thuần khiết đối với nàng. Mỗi ngày đi làm, tôi được an ủi ở cạnh nàng, được nhìn ngắm nàng, vẫn mãi ao ước được nhìn thấy nụ cười thật sự của nàng nở trên môi, chỉ muốn nghe nàng kể những sự vui vẻ hạnh phúc trong gia đình nhỏ của nàng mà thôi vì:
Yêu người như suối cuộn rừng sâu
Như con tàu say gió, như con giun ngước lên trời
Yêu trăng sao vời vợi, làm sao nói được tình tôi (Phượng yêu- Phạm Duy)
Nàng là chiếc cầu nối đầy tài năng kết hợp giữa tôi với gia đình nhỏ của nàng, Chương và bé Dann, yêu thương nhau như chính gia đình của tôi vậy, họ cần gì tôi đều giúp với tất cả tấm lòng để đổi lấy sự hài lòng của nàng.
Sau 9 năm lấy nhau, nàng mới xa gia đình để đi tu nghiệp ngành chuyên khoa nhi đồng bốn tháng ở đại học Pennsylvania. Trong thời gian xa cách này, tôi và Chương có nhiều cơ hội gặp gỡ, tôi hiểu nhiều hơn tính cách của chồng nàng và bé Dann.
Tôi giật mình trở về hiện tại khi thấy bóng dáng của Hoài Vy xuất hiện nơi ngưỡng cửa, trái tim tôi đập loạn nhịp như chính mình là người yêu, người chồng của nàng vậy, tôi hân hoan giơ bó hoa lên cao vẫy gọi:
- Hoài Vy! Hoài Vy, mình ở bên này nè.
Gặp tôi sau bốn tháng xa cách, nàng cười thật tươi, chạy nhanh lại tôi như con chim sáo. Nàng bỗng ngừng lại khi đến bên tôi, quay qua quay lại tìm kiếm điều gì, nụ cười tắt trên môi, nàng nói:
- Anh Chương chắc lại bận rồi, không có thì giờ đến đón Hoài Vy phải không?
-... Ừm, anh ấy nói khi nào ký xong contract sẽ đến với mình mà... Bốn tháng rồi mới gặp lại em, thấy em càng thêm xinh đẹp, có da có thịt hơn, chắc không phải khổ sở chăm nom gia đình nên thấy em trẻ ra đó.
Chiếc đồng điếu thật duyên dáng hiện ra ở khóe môi trái khi nàng cười:
- Phải rồi, em đi học thật vui và chỉ chăm sóc mình thôi, phải nói đây là kỳ nghỉ hè 4 tháng chứ không phải đi học nghiệp vụ đâu, em được ăn no ngủ kỹ đó! Ở nhà có chuyện gì không anh? Anh khỏe không?
- Tất cả đều rất tốt, chỉ có mỗi anh Chương là bận rộn tối mắt tối mũi với công ty của anh ấy thôi, thằng bé Dann đã lên lớp ba, ngoan ngoãn và đi học rất chăm chỉ, nó kể có làm facetime với em mà phải không?
- Dạ, thấy qua màn hình nó rất khỏe mạnh và nghe lời bố, nhưng không biết một mình anh ấy chăm nom nó ra sao.
- Thỉnh thoảng anh Chương cũng đem nó sang anh trông giúp mỗi lần anh ấy quá bận, nhà bà nội khá xa không tiện đường đem gởi thằng bé với lại bà lớn tuổi, trông cháu không tiện... Anh cũng chơi đá bóng với nó, thằng bé rất thông minh, thích thể thao lắm.
Khoảng nửa tiếng sau, Chương và Dann xuất hiện, tôi thấy nàng thật hạnh phúc trong vòng tay yêu thương quấn quít của gia đình, tíu tít kể đủ chuyện của bốn tháng xa cách.
Tôi lẽo đẽo đi theo sau lưng, quên cả cái “tôi” mà chỉ nghe và cười ké những chuyện vui của gia đình họ, không hề cảm thấy bị tổn thương.
Bờ vai ngoan, hương tóc xõa buông mềm
Tình rạt rào như dòng suối vây quanh
Dù mai đây hương mùa cũ phôi pha
Anh vẫn sẽ yêu em như ngày trẻ dại. (mãi mãi bên em-Từ Công Phụng)
****
Mới 2 giờ sáng, tôi đã nghe tiếng phone reng, giọng Hoài Vy sũng nước:
- Huy à, anh có thể đến nhà thương gấp xem thằng bé dùm em có được không?
- Chuyện gì vậy? bé Dann bị đau ở đâu? Sao lại vào nhà thương?
- Nó nói đau bụng...
- Có ăn gì độc không?
- Em không biết! Em đang trên đường đưa nó vào nhà thương gấp đây, anh hãy đến đó nhe... bây giờ đầu óc em đang rối bời, không có tâm trạng nào khám cho nó đâu!
- Ok, anh sẽ có mặt ngay!
Vừa thay đồ, tôi vừa lo lắng, suy nghĩ không biết thằng bé bị làm sao. Độ này tôi thấy Hoài Vy không còn vui cười hạnh phúc như những ngày nàng mới đi học nghiệp vụ về nữa, nàng có vẻ lo lắng một điều gì đó mà không tâm sự với tôi. Nàng ngồi hàng giờ ngoài công viên của bệnh viện, mắt nhìn về một nơi xa xăm, trầm tư suy nghĩ; nhiều lúc tôi đi ngang qua định làm một trò vui cho nàng cười, nhưng tôi vẫn không thể nào tìm thấy lại chiếc đồng điếu xinh xắn nơi khóe môi trái của nàng nữa.
Nàng lao vào công việc như con thiêu thân mà tôi không thể nào ngăn chặn được, nàng làm việc qua cả giờ cơm trưa, đến tối mịt 9:00 đêm mới rời bệnh viện, nàng nhận thêm nhiều ca mổ cho các em. Tôi chỉ biết đứng ngoài theo dõi nàng mà thật ái ngại, nàng tránh mặt tôi như sợ tôi hỏi về nguyên nhân của mọi thứ!
Vừa đến bệnh viện, tôi lao ngay vào phòng emergency xem bé Dann ra sao, tôi đã nghe tiếng Hoài Vy và Chương tranh cãi nhau ngay phòng ngoài, tránh không để bé Dann nghe tiếng:
- Tại sao anh không đi một mình mà lôi theo thằng bé chứ?... Cô ta có thể làm hại nó thì sao?
- Anh xin lỗi, anh không nghĩ đến chuyện người lớn có thể hại con nít... Với lại chuyện này thật sự không phải lỗi của anh,... Cô ta cứ muốn bám lấy anh...
- Em đã nói bao nhiêu lần với anh rồi, nếu anh muốn ở với cô ta thì mình... ly dị đi, em sẽ nuôi con, anh đến thăm nó lúc nào cũng được...
- Sao em lại nói vậy chứ! Anh đã giải thích với em bao nhiêu lần rồi, anh là nạn nhân trong thời gian em ở Pennsylvania, trong lúc uống rượu nhiều với khách để ký contract bán nhà, thế rồi anh rơi vào bẫy của họ, cô gái này đã gạ tình anh, sau này anh biết được là xa lánh ngay. Nếu em không tin thì mình sẽ ba mặt một lời, anh không lừa dối em mà...
Tôi nghe hết những mẩu chuyện hai người thì thầm cắng đắng với nhau, tôi lạnh người và hiểu ra được mọi nguyên nhân mà Hoài Vy đã cố giấu tôi uất nghẹn bao ngày qua, tôi phải làm sao để giúp cho họ trở lại như xưa đây, tôi không thể nào chịu đựng được khi nhìn khuôn mặt thánh thiện mà tôi yêu quý ủ dột vì một ai đâu! Tôi muốn hy sinh bản thân mình mãi làm một thiên thần bảo vệ hạnh phúc cho người tôi yêu!
Tiếng hét thất thanh của bé Dann vang dội, làm cả hai người đang trốn trong góc phòng chạy vội lại. Tôi lo lắng hỏi cháu:
- Con đau hả? Đau chỗ nào? Có ăn uống gì bậy bạ tối qua không?
Hoài Vy sốt ruột:
- Chắc em nhờ anh rửa ruột cho thằng bé...
- Rửa ruột sao?
- Không! không! con không muốn rửa ruột đâu! Con không muốn!
- Hay là chích một mũi an thần?
- Đau lắm, con không chịu chích đâu!
- Hay là uống thử thuốc sirup này xem có hết đau không nhé.
- Con không uống đâu, thuốc đắng lắm!
- Thuốc này ngọt, không đắng đâu, con thử nếm mà xem nè.
Thằng bé nếm một chút rồi gật gù:
- Thuốc này không đắng lắm, con sẽ uống, nhưng đừng rửa ruột, cũng đừng chích... Con sắp hết đau bụng rồi...
Tôi nhìn sâu trong mắt thằng bé lém lỉnh, nói nhỏ bên tai nó:
- Có thật con hết đau bụng rồi không?
- Vâng! Con... sắp hết đau rồi!
- Có phải... con làm bộ đau bụng phải không?
Ngần ngừ một chút, nó nhìn trước ngó sau xem có bố mẹ ở đây không, rồi mới òa khóc, nức nở tâm sự với tôi:
- Chú ơi, giúp con với...
- Chuyện gì vậy? Từ từ nói chú nghe coi?
- Chú ơi, mẹ con đòi ly dị với bố! Hai người to tiếng từ cả tuần nay... Bố đã bỏ nhà đi, khi bố về thì mẹ lại không muốn về, đến thật khuya mẹ mới đi làm về, mẹ không muốn ăn gì hết, mẹ làm con lo lắm, con không muốn hai người ly dị đâu, nhà con chỉ vui khi có cả ba người mà thôi. Con không muốn thiếu một ai và cũng không muốn ai khác vào ở đâu chú ơi! Chú giúp con ngăn đừng để mọi người ly dị nhe chú, chú hứa đi!
Tôi vuốt lưng nó, thằng bé nói những lời thấu ruột gan tôi! Một gia đình hạnh phúc đối với một đứa trẻ phải đầy đủ cha và mẹ của nó, không thể thiếu một ai, và cũng không thể thay thế ai! Cho dù tôi có yêu Hoài Vy cách mấy... cũng không thể nào thay thế chỗ của bố ruột nó, huống chi người con gái nào đó đang thả tình với Chương, cô ta đã từng quen và hiểu thằng bé đến bao nhiêu mà đòi thay thế vai trò của mẹ ruột nó trong gia đình ấy chứ?!
Tôi xoa đầu Dann, khuyên nó như đang nói với chính mình:
- Con đừng làm mẹ thêm lo lắng nữa, đừng giả bộ đau bụng nữa nhe, chú sẽ thuyết phục mẹ đừng ly dị với bố và cho bố thêm cơ hội làm lại...
- Con đã thấy cái cô gì đó rồi, cổ đến đón con ở trường một lần có bố theo, rồi mọi người bỏ con ngồi một mình ở chỗ bán game đồ chơi để đi đâu đó, chờ đến trời tối xuống vẫn không thấy ai tới đón, tiệm muốn đóng cửa luôn, chủ tiệm đuổi con ra làm con sợ quá, may mà mẹ đã phone cho bố, bố mới nhớ và đón con đó.
Giọt nắng vàng lung linh màu lạnh ngắt
Sao khi không người ngoảnh mặt kiêu sa.
(Trên ngọn tình sầu-Từ Công Phụng, thơ Du Tử Lê)
Tôi nhè nhẹ xoay nắm cửa phòng nghỉ trong bệnh viện dành cho nhân viên, rón rén đặt món seafood sushi lên bàn, ngắm Hoàng Vy ngủ say sưa úp một bên má lên bàn, tiếng thở đều đặn, làm như tối hôm qua nàng không được ngủ đủ giấc vậy; đã quá giờ cơm mà nàng cũng không đói dậy ăn. Tôi định bước ra, ống tay áo vướng vào chiếc ghế cạnh đó, gây lên tiếng động làm nàng tỉnh giấc.
Thấy tôi, nàng ngước mặt còn ngái ngủ lên dụi mắt:
- Anh... vào hồi nào vậy? Sao không gọi em dậy?
- Anh có mua cơm trưa món sushi mà em thường thích đó, em có nhớ mình đã ăn món này cả mấy tuần lễ khi còn học thi không?... Thôi ăn cho có sức vì chiều nay lại có ca mổ nữa đó.
- Thật mất công anh quá, anh đã ăn chưa? Ngồi xuống đây ăn chung với em luôn, nhiều quá làm sao em ăn hết được.
Tôi kéo ghế ngồi xuống, so đũa cho nàng, nhìn nàng chua xót:
- Anh... có thể hỏi em một chuyện không?
Nàng coi tôi như một người thân trong gia đình, biết không giấu được lâu, nàng ngần ngừ, rồi tuôn ra tất cả sự đau khổ uất ức bao lâu nay: chồng nàng đã làm một lỗi lớn với nàng, dù đã ăn năn, nhưng nàng không thể tha thứ vì đã đi quá ranh giới chịu đựng của nàng... Nước mắt ràn rụa tức tưởi.
Tôi thật ái ngại nhưng muốn nàng quên đi hoàn cảnh hiện tại, muốn đem lại nụ cười trong giây lát cho nàng; tôi lấy một chiếc đũa cắn vào giữa hai hàm răng, rồi nói:
- Em có thể làm như vậy được không?
Nàng chưa hiểu nhưng cũng bắt chước, đón lấy chiếc đũa từ tay tôi cắn chặt giữa hai hàm răng, tôi cầm máy iphone ra chụp lại và chìa ra cho nàng xem, tấm hình nàng với đôi mắt trợn tròn đầy ngạc nhiên, khuôn mặt tràn nước mắt, chiếc miệng bạnh ra giữa hai hàm răng cắn chặt que đũa trông thật tức cười, bất giác nàng ôm bụng cười nắc nẻ khi nhìn thấy tấm hình đó, vội vàng đuổi đánh tôi, la lên:
- Hahaha... “Delete” tấm hình đó ngay, “delete” ngay cho em, không được cho ai xem đó!
- Không đâu, tấm hình này thật tự nhiên và dễ thương lắm, vô giá đó nhe!
Đó là nụ cười tươi nhất từ sau khi câu chuyện gia đình nàng xảy ra.
Không chỉ riêng nàng đau khổ, tôi cũng là nạn nhân, bị giày vò, đau nhói với nỗi đau bị lừa dối, bị phản bội như chính nàng vậy, vì tôi sống nhờ vào nụ cười và ánh mắt của nàng mỗi ngày; tôi không muốn làm kẻ thứ ba ác độc, gây thêm phiền lụy lên nàng nữa đâu mà chỉ muốn làm chỗ dựa vững chắc, vun xới hạnh phúc mỗi ngày, đó mới là tình yêu đích thực của tôi giành cho nàng.
Trong đôi mắt anh, em là tất cả
Là niềm vui, là mộng ước trong thoáng giây
Anh sẽ cố quên rằng mình đã đến trong nhau
Nồng nàn như đã dấu yêu từ thuở nào (Như đã dấu yêu- Đức Huy)
Vì lời hứa với bé Dann, tôi hẹn gặp Chương.
- Tôi hỏi ông, bộ ông không còn yêu vợ con ông nữa sao? Ông chưa vừa lòng có người vợ đẹp, thông minh lại hiền lành như Hoài Vy sao? Ông không yêu thằng bé lanh lợi Dann nữa hả? Hay ông bị bùa mê thuốc lú của con hồ ly tinh rồi về làm khổ gia đình, khuấy loạn hết cả lên? Ông thật sự muốn ly dị phải không? Trả lời tôi thật tình đi, ông đang toan tính việc gì trong đầu vậy?
- Ông Huy à... ông biết tôi rất yêu vợ, rất thủy chung với nàng, tôi hài lòng lắm có một gia đình mà vợ tôi vừa đẹp người đẹp nết, đâu muốn làm xáo trộn làm gì, nhưng vì hôm đi uống rượu với đám khách mua nhà, tụi nó chuốc rượu cho tôi uống đến nỗi đi hết nổi, tôi không còn nhớ một chút gì nữa sau khi ngủ một giấc say, dậy thì thấy thân thể mình như thằng con nít mới sanh, không có mảnh vải che thân, bên cạnh là cô gái đã chuốc rượu tôi tối qua, cô ta nói đã yêu tôi từ lần đầu gặp gỡ vì tôi thường hay gặp khách ở quán này...
- Cổ yêu túi tiền của ông thì có, chứ có yêu gì ông!
- Tôi thật tình đã có lỗi với vợ! Mà ông cũng biết là vợ tôi có lòng tự ái, tự trọng lắm, tôi làm ra ba cái chuyện này, nàng thật khó nhìn mặt tôi đó, chính nàng đòi ly hôn với tôi, nàng đã lấy đơn về điền, rồi đuổi tôi ra khỏi phòng của hai vợ chồng, chúng tôi cứ cắng đắng nhau đến nỗi thằng con cũng nghe luôn, nó sợ chúng tôi ly dị, nó sợ sẽ giống thằng bạn học cùng lớp, chẳng bao giờ thấy lại bố, cả lớp gọi thằng nhỏ là trẻ mồ côi bố!
- Ông có nghĩ là cô làm trong quán bar có mưu mô gì không? Sao lại chọn ông mà không là ai khác trẻ hơn ông? Nếu so về tuổi tác thì ông phải đáng tuổi cha chú cổ. Tôi thấy vụ này sao sao đó.
- Tôi đã van xin hết nước với cô Bình, người làm việc trong quán bar, là tôi đã có gia đình, vợ tôi là một bác sĩ của bệnh viện ở San Jose, tôi không muốn làm nhơ nhuốc thanh danh của vợ tôi đâu, tôi bằng lòng đền bù cho cổ một số tiền để đừng làm rùm beng vụ này, tôi thật khổ tâm lắm luôn!
- Vậy tôi đã hiểu là ông bị họ “chơi khăm” rồi, ghen ăn tức ở, có những loại người thấy ai hạnh phúc quá họ chịu không nổi và muốn phá, muốn làm tiền, thế thôi! Xã hội này không dễ sống đâu... Ông phải cẩn thận hơn trong cách giao du đó!
- Nhưng bây giờ vấn đề là Hoài Vy không muốn tha lỗi cho tôi, nàng khư khư đòi ly dị...
- Trúng kế con hồ ly tinh rồi còn gì!
- Phải đó!... Ông làm chung với vợ tôi mỗi ngày, giúp tôi năn nỉ cổ tha lỗi cho tôi, tôi thật ăn năn lắm...
- Được rồi, để tôi cố hết cách xem sao... Thôi tôi đi công việc đây, có gì phone nói chuyện sau.
- Cám ơn ông trước nhe!
Vì nóng lòng muốn làm rõ mọi chuyện, tôi giả làm người khách chơi đêm đến quán bar của ả Bình vài lần xem hư thực ra sao. Lần nào đến tôi cũng đem theo cái máy ghi âm nhỏ xíu giấu trong cặp, ghi lại tất cả lời đối thoại của chúng tôi để đề phòng sau này... Và cơ hội đã đến!
Bình là cô gái dáng cao, chân dài, thon gọn, khuôn mặt xinh lai tây, nàng ẻo lả ngồi sát bên tôi:
- Anh... thích ánh đèn màu tím xanh và tiếng nhạc này không? Anh uống gì? Rượu mạnh hay...
- Rượu mạnh đi...
- Có tâm sự sao? Có cần em ngồi uống chung không?
Vừa nói nàng vừa đưa ngón tay lướt nhẹ lên khuôn mặt tôi; tôi giả lả theo:
- Mình uống đi! Đêm nay phải thật say đó!
Tôi chuốc rượu cho nàng uống thật nhiều để dễ khai thác; đến chai whisky thứ ba nàng mới bắt đầu ngật ngừ, tôi hỏi ả:
- Em bỏ nghề này... đi theo anh được không?
- Em... rất muốn bỏ cái nghề bấp bênh này rồi, muốn lập gia đình với một người đàn ông tốt, sanh con, làm lại cuộc đời...
- Vậy em đã gặp được ai chưa?
- Có! Em đã gặp được một người đàn ông, anh ấy thật biết điều, rất tinh tế... nhưng tiếc anh ấy đã có gia đình!
- Vậy hãy bỏ anh ta đi, tìm một người khác độc thân, thiếu gì đàn ông trên thế gian này chưa vợ...
- Nhưng khổ là rất ít đàn ông có tính tình điềm đạm, kinh nghiệm như anh ta. Em nhất định phải làm cho anh ấy ly dị vợ để đến với em, em yêu ảnh mà... Thực sự lúc đầu em chỉ muốn moi tiền ảnh thôi, nhưng thấy ảnh là người đàn ông tốt, có trách nhiệm, lo cho gia đình thật đầy đủ làm em muốn đẩy người phụ nữ kia ra khỏi cuộc đời ảnh...
- Em đừng làm vậy thất đức lắm, hay là...
-... Hay sao?... anh có cách gì không?
- Hãy bắt ảnh đền cho em một số tiền rồi em đi nơi khác làm lại cuộc đời, em thấy sao?
Trong cơn nửa say nửa tỉnh, nàng nhìn tôi từ trên xuống dưới với ánh mắt ti hí dại khờ làm tôi thấy tội nghiệp, tất cả chỉ vì mưu cầu cuộc sống thôi. Ả té xuống chiếc giường sát cạnh, mắt nhắm chặt, miệng vẫn lẩm bẩm:
- Ý kiến hay đó, nhờ anh nói giùm với ảnh nhe, em đòi 100k đô cho bõ công đó!
- Ảnh là ai?
- Chương, Hoàng Thiết Chương giám đốc công ty buôn bán nhà đất có vợ chảnh làm bác sĩ, và thằng con 8 tuổi.
- Em say mà sao nhớ tài tình, nói vanh vách thế?
- Em say nhưng cái đầu vẫn nhớ mà... Em không muốn nhìn ai có hạnh phúc sung sướng hơn em! Em thua gì họ mà không có được cái tình gia đình ấy chứ anh nói đi?... Em ghen với chị ta đó! Em sẽ làm cho chị ta phải ly hôn và em sẽ nghiễm nhiên thay thế vai trò của chị ấy!...hahaha em sẽ vu khống anh Chương cưỡng hiếp em thì tòa sẽ bắt anh ấy đi tù, thanh danh mất hết, đã vậy phải đền em ít nhất là 200k chứ không phải chỉ 100k đó thôi đâu! Hahaha Anh thấy kế hoạch của em...
Nói xong câu đó tôi nghe tiếng khóc ấm ức lẫn tiếng cười đau khổ trong men say của ả. Tôi hiểu sự đố kỵ, ganh tức của kẻ có dã tâm muốn chiếm đoạt hạnh phúc của người thành của mình. Có thể cô ta bị bệnh tâm thần chăng?
****
Sau khi ba chúng tôi cùng nhau nghe lại đoạn băng ghi âm, Chương lên tiếng:
- Tôi không ngờ bề ngoài ả rất xinh đẹp, dịu dàng mà lại là con người mưu mô xảo quyệt như vậy, là một kẻ chuyên tống tiền những người đàn ông “nhẹ dạ”. May mắn nhờ ông Huy đã can trường “vào hang cọp để bắt được cọp”... Theo mọi người tôi có nên đem cái băng này đến cảnh sát để làm biên bản không? đề phòng sau này có tình huống gì xảy ra thì mình đã có chứng cớ, và cho ả một bài học đích đáng!
Hoàng Vy xoay xoay chiếc ly nước trà ấm trong tay:
- Em nghĩ ả này không những làm tiền anh Chương mà đã moi tiền nhiều người trong quá khứ lắm rồi, chả ai dám nói gì vì muốn giữ danh dự cho gia đình. Em sống không nổi đâu nếu tên tuổi gia đình mình bị lôi lên trang nhất của những tờ báo địa phương...
Tôi kết luận:
- Vậy mình không nên làm lớn chuyện, cho ả con đường sống, mình mua được sự an bình; cả ba người mình sẽ gặp ả, mình sẽ bắt ả viết đơn cam kết đi khỏi San Jose khi nhận tiền, và sẽ không bao giờ quay lại con đường làm tiền phi pháp này nữa... Vậy là kết thúc thôi. Nếu không giữ lời thì mình có bằng chứng đầy đủ, giấy tờ chữ ký, băng ghi âm... Còn nếu muốn ra tòa thì phần thua về ả là cái chắc!
*****
Thôi kệ, chi rồi cũng sẽ qua
Giận, hờn, ân, oán nặng riêng ta
Gỡ cặp kính màu cho bớt khổ
Mắt nhận trong đời vạn đốm hoa... (Thôi kệ- Thích Tánh Tuệ)
Chúng tôi quây quần bên chiếc bàn tròn trong một tiệm seafood nổi tiếng ở Cali, thằng bé Dann bám chặt cánh tay tôi:
- Chú Huy ơi, sau này khi rời nơi đây, chú phải facetime cho con mỗi tuần đó, con sẽ nhớ chú lắm, sẽ không ai chơi bóng với con nữa và khi bệnh đến nhà thương cũng không còn ai nghe những yêu cầu của con. Nhớ nhen chú!
Hoài Vy giọng nhẹ nhàng chân thành:
- Hồi đó em đi tu nghiệp rồi, bây giờ đến anh chứ, 6 tháng sẽ nhanh chóng qua thôi, về lại đây chắc chắn anh sẽ lên chức giám đốc, lúc đó đừng quên người đã từng đồng cam cộng khổ với anh trong mọi vấn đề đó nhe!... Mỗi một ca mổ quan trọng nào em cũng sẽ mãi nhớ tới anh, nhớ đến ánh mắt ngầm bảo “ráng lên” làm cho em lên tinh thần, tự tin mổ tiếp... Cũng rất nhớ những ly café buổi sáng anh đã đem vào phòng cho em với hai cup sữa nhỏ không đường... Em rất cám ơn anh!
Chương gắp bỏ vào đĩa của tôi một con oyster lớn chưng gừng hành:
- Cái gì khó giải quyết của gia đình, chúng tôi đều nhờ đến ông, ông chính là “bà vú nuôi”, tụi này được yên lành đến ngày hôm nay, công lao của ông không nhỏ, người bạn già của tôi! Tôi rất hân hạnh được quen ông, mang ơn ông được chưa? Mong ông đi tu nghiệp về lên chức và mãi là “cánh tay phải” của tụi này nhe!... Mà nè, khi nào quen được cô gái nào thì giới thiệu liền cho chúng tôi biết đó nhen.
****
Từng đám mây xanh lợn lờ trôi dưới cánh của chiếc westjet, cuộc sống vốn dĩ phải ganh đua; rồi... tiền bạc, danh tiếng, hạnh phúc có mãi mãi theo ta xuống mồ chăng?
Lòng như bát ngát mây xanh
Thân như sương tụ trên cành đông mai.
Cuộc đời chớp lóe, mưa bay,
Càng đi càng thấy dặm dài nỗi không. (Phạm Thiên Thư)
Từ ngày về hưu non, hai vợ chồng tôi cứ lục lọi hết website này đến website khác để tìm nơi đẹp đi du lịch; sợ rằng sự hào hứng của tuổi trẻ sẽ không còn nữa, nên phải đi hết những chỗ mình ao ước từ hồi nhỏ đã đọc sách mà không có thì giờ và phương tiện để thực hiện.
Vào Exoticca tôi thấy họ đang sale nửa giá đi Peru, một quốc gia nằm phía tây Nam Mỹ, có biên giới với Ecuador và Colombia về phía Bắc, Brasil về phía Đông, Chile về phía Nam và Thái Bình Dương nằm phía Tây của Peru. Tôi thấy quá rẻ, đọc một vài bình luận của những người đã booked vào tháng 3 năm 2024, ai cũng khen rất vui, hấp dẫn, đẹp, ăn ngon... Tôi vội vàng bàn sơ qua với ông xã là book ngay kẻo quá ngày ấn định của họ thì sẽ không được giá hấp dẫn 50% (hai người chỉ có 4100$ cad bao ăn ở hotel, tiền máy bay và tất cả mọi tours).
Tours chúng tôi 11 ngày kể cả ngày bay, sẽ đi vào ban đêm ngày April 3, với hãng Delta, bay đến Atlanta, chờ ba tiếng rồi bay tiếp đến Lima vào 9 giờ tối, tổng cộng đường bay 9 tiếng rưỡi, nhưng phải nghỉ (layover) ở Atlanta ba tiếng nên có vẻ thấy hơi dài! Thật sự tôi rất thích cái nghỉ giữa chừng này độ hai ba tiếng cho mình đi qua đi lại giãn cơ, hơn là ngồi một lèo 9 tiếng thì tê cẳng lắm.
Tại nơi đây tôi gặp một người đàn ông Mỹ khoảng 80 tuổi, đi cùng với vợ, cả hai ngồi rất yên lặng đọc sách, lâu lâu chỉ ngẩng đầu lên nhìn sơ qua mọi người rồi lại chăm chú đọc tiếp. Khi cặp mắt ông dừng lại ở tôi, ông nhìn tôi khá lâu làm tôi vô cùng ngạc nhiên phải quay qua hỏi ông xã:
-Anh ơi, mặt em hay tóc em có bị rối bù không mà sao ông Mỹ kia nhìn em không chớp mắt vậy?
-Ừ nhỉ! Chắc là ông ta thấy em cứ không chịu ngồi một chỗ mà cứ đi chụp hình lung tung như từ quê ra tỉnh nên để ý?!
Khi vào máy bay từ Atlanta đến Lima, thủ đô Peru, họ cùng đi với chúng tôi, ông ta lại quay qua nhìn tôi mỉm cười thiện cảm, tôi nhường bước cho họ vào trước, đoán rằng ông bà này cùng trong phái đoàn du lịch với tôi đây.
Đến Lima vào 9:05pm, chúng tôi ngơ ngác bước ra, thấy có người guide cầm bảng to bự đề chữ Exoticca, thế là chúng tôi cùng nhập đoàn, khoảng 15 người, được họ chở về hotel ở Lima ngay giữa lòng thủ đô Peru, nơi đây chúng tôi sẽ phải ở hai đêm; người guide giải thích rất cặn kẽ cho đoàn biết là sẽ làm gì đi đâu vào những ngày kế tiếp, so sánh bản viết của hãng Exoticca với tours ông đang cầm trên tay có gì khác biệt hay không, ông cho chúng tôi số phone, whatsapp để dễ liên lạc nếu có chuyện gì cần thiết, phần rõ ràng này tôi rất thích.
Khách sạn tại Lima cũng giống như bao chỗ khác, thoải mái, những món ăn sáng toàn là trái cây: đu đủ, chuối, dưa hấu, lựu, cantaloup; ngoài ra cũng có những đồ ăn khác như trứng, bacon, jam... Đặc biệt café ở Peru thơm ngon khác thường, không biết họ có cho gì vào không nhưng tôi say mê với cái gu thơm dịu của mùi vị arabica
Sau khi ăn sáng, 9:00 am chúng tôi khởi hành ngay để tham quan Lima, được chở bằng xe Mercedes Benz, có máy lạnh, xem thành phố với những nhà thờ cổ. Các bằng chứng sớm nhất về sự hiện diện của con người tại lãnh thổ Peru có niên đại khoảng 9.000 năm TCN. Xã hội phức tạp cổ nhất được biết đến tại Peru là văn minh Norte Chico, nền văn minh này hưng thịnh dọc theo bờ biển Thái Bình Dương trong khoảng từ 3.000 đến 1.800 TCN.
Vào thế kỷ XV, người Inca nổi lên thành một quốc gia hùng mạnh, tạo thành đế quốc lớn nhất châu Mỹ thời kỳ tiền Colombo, Đế quốc Inca tồn tại gần một thế kỷ. Các xã hội Andes dựa vào nông nghiệp, sử dụng các kỹ thuật như thủy lợi và ruộng bậc thang; chăn nuôi lạc đà và ngư nghiệp cũng là hoạt động quan trọng. Tổ chức xã hội dựa trên sự trao đổi và tái phân phối do các xã hội này không có khái niệm về thị trường hay tiền tệ.
Chúng tôi được xuống xe, đi bộ thăm quảng trường chính của Lima được xây dựng 1843, phủ tổng thống, chợ bán rất nhiều trái cây nhiệt đới với những quả xoài thật to, đu đủ, chuối... Họ dùng tiền sole, 1cad = 3.45 soles, hay 1 usd= 3.68 soles. Chúng tôi ăn uống thả cửa, buổi tối rủ nhau gọi tuktuk ra phố chính ăn đến no căng cả bụng mà tính ra chỉ có 20 usd 1 người thôi. Lạ một điều sao dân nghèo mà tấm lòng hậu hĩnh thế, mỗi đĩa chúng tôi order ra đều ngập tràn đồ ăn, đĩa to, đồ ăn nhiều. Nhưng dân thì nghèo lắm, họ xin tiền khắp nơi, đi đến đâu chúng tôi cũng phải đổi tiền lẻ để cho.
Sau hai ngày ở Lima, đoàn chúng tôi được đi bằng máy bay với hãng Westair đến Cuzco. Villa Urubamba bên ngoài chỉ là một cánh cửa bằng tôn đầy bụi cát, nhưng khi cánh cửa ấy mở ra thì như một thiên đường với một sân cỏ to rộng ngút mắt, bông hoa được chăm bón thật đẹp, tiếng chim hót cùng với tiếng chân người lao xao trên bờ sỏi của những người bồi chạy ra đón chúng tôi vào villa. Mỗi người khách được ở một dẫy nhà cách xa nhau để đừng bị làm phiền vì những căn phòng này được làm bằng tre, có nhiều kẽ hở có thể nghe được từ phòng này đến phòng khác. Tôi ngây ngất ngắm nhìn từ hàng hiên phòng mình, có thể thấy được cả dãy núi cao sừng sững bao bọc sau những nếp nhà bên trái
Đoàn du lịch đến Machu Pichu
Mai Hữu Thọ chọn ảnh minh họa
Hai ngày này chúng tôi được đi xe lửa lên núi, viếng thăm núi Machu Picchu, Machu Picchu được tuyên bố là Khu bảo tồn Lịch sử của Peru vào năm 1981, và được Unesco công nhận như một phần của quần thể văn hóa-sinh thái Di sản thế giới mang tên Khu bảo tồn Lịch sử Machu Picchu vào năm 1983. Machu Picchu được bình chọn là một trong bẩy kỳ quan thế giới hiện đại do một cuộc bỏ phiếu trên mạng với sự tham gia của cử tri toàn cầu. (tham khảo Wikipedia)
Trên tuyến xe lửa đường dài những người bản địa mặc những bộ đồ cổ truyền hát những bài hát dân gian của họ về một chuyện tình theo điệu bolero giúp vui cho mọi người, chúng tôi ngắm cảnh thiên nhiên hoang sơ có một không hai trên thế giới, với đồi núi đủ màu xanh dương và xanh của cỏ hoang xen kẽ với màu hoa vàng dại tạo nên một bức tranh vô cùng sinh động.
Đường lên đỉnh núi Machu Picchu
Mai Hữu Thọ chọn ảnh minh họa
Khi đến Machu Picchu, núi cao đến 2500m, chập chùng, vòng vèo, những người lớn tuổi không thể đi nổi, họ đành phải ngồi bên dưới chờ chúng tôi tham quan xong thì cùng họ đến Sacred Valley. Những bậc thang cái thấp cái cao, cái mòn vẹt theo thời gian vì bước chân của người tham quan nên đi rất khó, vì sợ lạnh nên ban đầu ai nấy đều chuẩn bị cho mình áo lạnh, khăn quàng, ai ngờ khi leo lên những bậc thang này thì thở không ra hơi, mệt và nóng làm chúng tôi bao nhiêu áo nón đều cởi hết ra quấn xung quanh người mới có thể leo tiếp. Ông xã tôi hổn hển:
-Anh không... thể đi nổi nữa rồi! em đi tiếp đi,... anh chờ ở đây!
Tôi trấn an:
-Mình gần đến nơi rồi, anh hãy ráng bám vào tay em, vì khi xuống chưa chắc mình đi lại nơi mình đi lên qua nơi này, họ có thể xuống ở đầu kia, làm sao gặp lại anh đây.
Thế là sau vài phút nghi ngơi, anh cùng tôi leo tiếp mà anh phải bám vào đôi vai gầy của tôi!
Lên đến đỉnh núi, bao nhiêu mệt nhọc khó khăn từ nãy giờ vụt bay đi tất cả, chỉ còn lại sự hạnh phúc, nói không nên lời vì thiên nhiên chập chùng, hùng vĩ quá với những làn sương trắng giăng khắp mọi nơi. Tôi chỉ biết lặng yên há mồm, banh mắt không thể tưởng tượng được, nước mắt như muốn chực rơi ra vì cảm xúc dâng trào, thật không phí công mình đã trèo đèo lội suối cực khổ từ nẫy giờ để đến đỉnh cao này. Ai nấy tranh giành chụp hình, góc nào cũng đẹp, góc nào cũng có cái nghệ thuật của riêng nó; tôi thầm cám ơn ông Trời đã cho chúng tôi còn sức khỏe để có thể đến được nơi này, nếu ai chưa đi qua thì hãy nên một lần phải đi để chiêm ngưỡng cảnh đẹp hùng vĩ này và sẽ phải rơi nước mắt vì ngoài sức tưởng tượng của con người.
Khi ngọn gió nhẹ thổi qua, những đám mây dạt qua một bên, hiện ra trước mắt những con đường bên dưới ngoằn nghoèo với những căn nhà lá và những bức trường thành đã được xây rất kiên cố để chống quân xâm lăng vào thế kỷ thứ XV của người Inca.
Sau khi xuống núi Machu, chúng tôi được đãi ăn với những món của người Inca, đặc biệt là gà hầm dùng với khoai lang, hay với bắp hạt rất to, hoặc với khoai tây chiên. Sự lựa chọn thứ hai là cá trout nướng ăn với rau. Đồ ăn được đãi tự do, nhưng nước uống phải mua.
Những người Inca mặc những bộ đồ màu sặc sỡ, nhảy múa chung quanh chúng tôi, đem theo cả những con bambi lông trắng đến cho chúng tôi vuốt ve, cưng nựng.
Mỗi văn hóa của mỗi dân tộc thật khác nhau, những người đội mũ màu đỏ bất kỳ là đàn ông hay phụ nữ đều đã lập gia đình, đàn ông có quyền lấy đến ba người vợ! Những người độc thân thì đội mũ trắng. Cả đàn ông và phụ nữ trên tay lúc nào cũng vừa đan vừa móc những cái mũ, khăn choàng, những sợi len đan thật chắc tay.
Nơi đây họ bán rất nhiều những khăn quàng cổ bằng lông thú của lama, rẻ và đẹp.
Ban đầu chúng tôi tưởng họ mặc những bộ đồ màu mè này chỉ vào dịp tết lễ, nhưng không phải, đây là đồ mặc thường ngày của họ.
Trang phục của người Machu Pichu
Mai Hữu Thọ chọn ảnh minh họa
Xuống đến tận chân núi, chúng tôi người quay kẻ chụp vẫn không tài nào có thể lấy hết được sự linh động, hùng vĩ, vẻ đẹp đến choáng ngợp của dãy núi này. Xa xa màu trắng đục của sương mờ đang xuống, lúc ẩn hiện dòng sông Amazon xanh mướt màu da trời, khi ngọn gió nhẹ thổi qua, làn sương biết mất, hiện ra dãy núi vòng vèo từ trên cao xuống tận dưới đáy valley những thành lũy, ngôi nhà, ruộng đồng bậc thang đã được người Inca bỏ bao công sức khiêng vác từng khối đá lên xây từ 3000 năm TCN.
Sau hai ngày ở Cuzco, chúng tôi lại được xe bus hạng sang Mercedes-Benz chở đến Puno. Hotel Hacienda Puno cũng giống như những hotel ở Lima, rộng rãi, thoáng mát, sàn bằng gỗ loại tốt sáng sủa. Chúng tôi sẽ ở hai đêm tại đây để đi lake Titicaca.
lake Titicaca
Mai Hữu Thọ chọn ảnh minh họa
Những chiếc tàu nhỏ này được những người trên đảo kết từ những tre nứa, họ sống bằng nghề bắt cá, trao đổi đồ ăn, những chiếc lều bằng tre lá cho khoảng 15 gia đình trên mảnh đất nhỏ và có chung một gian bếp cho tất cả mọi người nấu nướng
Họ cho chúng tôi ăn thử cây bạc hà, theo họ trị được cảm sốt, họ không có thuốc tây nên chỉ lấy lá cỏ uống để giảm đau.
Đến nơi đây tôi có cảm tưởng như mình đang sống ở một thế kỷ nào đó chứ không phải thế kỷ 21 khi trí tuệ nhân tạo AI đang phát triển, các nước đang muốn chiến tranh với những trái bom nguyên tử để giành quyền cai trị thế giới, nhưng nơi đây thật sự an bình cách xa cuộc sống xô bồ thực dụng của thế giới. Sự suy nghĩ của họ thật đơn sơ, sự sống rất hồn nhiên mỗi ngày bắt cá, săn bắn, nấu ăn, quây quần bên gia đình với bữa ăn đạm bạc, nụ cười hạnh phúc thật giản đơn.
Ngồi trên thuyền từ Titicaca về đến thành phố Puno, vợ chồng ông bà người Mỹ lớn tuổi mà tôi đã kể bên trên bắt đầu lại ngồi cạnh tôi, trong khi cả tàu yên lặng, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ về sự chọn lựa của cuộc sống bình an của mỗi dân tộc...
Thuyền phải mất 45 phút mới có thể vào đến bờ tỉnh Puno. Bất ngờ ông Mỹ già đưa tặng cho tôi một lá cờ nhỏ, ông kể cho tôi nghe ông đã từng là người lính Mỹ vào những năm 1970-1973 ở Việt Nam, ông đã từng sống ở Mỹ Tho, đã có vợ người Việt Nam, ông làm tôi say mê theo dõi câu chuyện của ông với nhiều hình ảnh còn giữ trong máy iphone của ông, trong khi bà vợ đã ngáy khò khò bên cạnh, ông 78 và vợ 80, ông là người chồng thứ ba của bà, bà chắc hẳn là một người đàn bà xinh đẹp hồi còn là thiếu nữ lắm, vì bây giờ ở tuổi 80 mà bà còn giữ dáng dấp, khuôn mặt thanh tú với kiểu tóc cắt xéo bên cao bên thấp.
Ông nói với tôi khi nhìn thấy tôi ở phi trường Atlanta, Georgia, đã cảm thấy một cảm giác rất quen thuộc gần gũi với ông, vì tôi mang một nét nào đó trên khuôn mặt giống người vợ còn trẻ của ông hồi năm 1970. Ông đã từng về lại Việt Nam để tìm cô gái đó, bây giờ chị ấy đã có gia đình riêng, xem ông bà như những người bạn của một thuở xa xưa! Ông nói rất yêu những con người Việt Nam thật thà, rất thích được ở lại và xây dựng cuộc sống ở đó, nhưng ông đã không đủ duyên!
Từ lúc ấy, chúng tôi cảm thấy thân nhau hơn, ông xã tôi luôn đi cạnh bà, đưa cánh tay cho bà nắm lấy để bước đi những bước vững chắc hơn khi lên dốc, còn tôi thì tung tăng đi phía trước với ông David nói chuyện, và nghe ông kể chuyện xưa ở Việt Nam như thế nào. Chuyện tình ly kỳ của ông David tôi sẽ phải kể sau vào dịp khác.
Khi chúng tôi đến bờ Puno, lại được viếng thăm những đền thờ có một không hai trên thế giới, những vòm thờ thiên chúa, mẹ Maria được làm bằng vàng 22 carats, những đường nét trạm trổ tinh vi đầy nghệ thuật của thời xa xưa mà vào thời hiện đại này chưa chắc gì có thể làm được; họ cấm không cho chụp hình, chúng tôi đứng ngắm nhìn mải miết say mê, thán phục, rất tiếc rẻ khi đến giờ rời nơi ấy vì biết rằng sẽ chẳng bao giờ có dịp ghé thăm nơi này nữa!
Đô đạt trong viện bảo tàn Machu Picchu
Mai Hữu Thọ chọn ảnh trên mạng minh họa
Kế đó chúng tôi được đưa đi thăm các bảo tàng với những di tích lịch sử thời xa xưa, cũng tại đây những vật phẩm văn hóa thời Inca đã khai quật... Những bức tường rêu phong sừng sững không thể nào mai một vì thời gian, những bức tường này được người Inca gia công tỉ mỉ trộn với sắt thép và đá nặng hàng mấy chục tấn; Peru là đất nước có mỏ vàng, bạc nên những đồ trang sức về bạc 95 khá rẻ so với những đất nước khác.
Lima thủ đô của Peru
Mai Hữu Thọ chọn ảnh minh họa
Trở về lại Lima ngày thứ 11:
Sáng sớm hôm sau, cả đoàn 15 người chúng tôi trở về lại Lima sau 10 ngày bên nhau vui chơi, chúng tôi từ các nước Mỹ, Úc, Anh, gặp nhau ở Peru, tuy chưa bao giờ nói chuyện, hay gặp mặt thế mà 11 ngày này đã kết duyên chúng tôi lại với nhau, mỗi tối chúng tôi cùng rủ nhau đi chơi, ăn uống, nói chuyện, tâm sự đời tư cho nhau nghe qua những chặng đường ngồi xe bus, hay tàu hỏa đi từ tỉnh này đến tỉnh khác, chúng tôi trao đổi với nhau qua whatsapp, email để giữ liên lạc nếu sau này có đi « thám hiểm » nơi nào thì gọi nhau. Tình thân kết nối, những tấm hình chụp chung làm chúng tôi bỗng trở thành người một nhà, sẵn sàng bảo vệ giúp đỡ nhau trong mọi tình huống.
Ngày thứ 11 cuối cùng tại Lima, hotel Ibis ngay trung tâm của Peru, mà người bản xứ gọi là Miraflores, có những chợ bán đồ trang sức đẹp và thanh lịch nhất, ai nấy cũng ồ ạt đi mua thêm túi xách để đựng những đồ gốm, thủ công nghệ của xứ này vì rất rẻ, chỉ sợ không có tay xách và mất công ra đoan mà thôi.
Buổi tối chúng tôi lại rủ nhau đi ăn lần cuối, gọi một món cho mỗi người để cùng chia nhau ăn, ôi sao nhiều đến ngập mặt, món nào họ cũng cho khoai lang hay khoai tây kèm bên cạnh, còn nếu gọi thêm món tráng miệng thì ngọt đến... « kinh khủng »! Tiếng cụng ly, tiếng cười từ trái tim... đã rất lâu tôi chưa tìm lại được cái cảm giác sảng khoái, hạnh phúc ở những người lạ khắp nơi trên vũ trụ này, sẽ mãi mãi ghi sâu trong tâm khảm tôi cho đến cuối đời.
Tất cả 15 người chúng tôi đều bay qua Atlanta, Mỹ rồi từ đó mỗi người có chuyến bay riêng, kẻ về Chicago, London, còn 5 người chúng tôi về lại Canada.
Về đến nhà, cả hai ngày liên tiếp, chúng tôi buồn ngủ đến không thể mở mắt được vì suốt 11 ngày qua chỉ ngủ được max 4 tiếng mỗi đêm, phải dậy sớm đi theo tours, tôi nhớ ông guide đã nói:
-Mọi người phải lấy thêm 1 tuần hè nữa sau khi đi chơi chuyến này về nhé, sẽ phải ngủ bù, nghỉ ngơi thêm lấy lại sức đấy!
Đúng như thế, tôi đau chân, nhức mỏi đến tưởng chừng như tứ chi rời rạc vì chạy nhảy, trèo leo... Nhưng cũng thật đáng đồng tiền bát gạo!
Nếu để già thêm tí nữa mới đi thì sẽ ra sao đây nhỉ?!
Sỏi Ngọc,
April 16-2024
* GHI CHÚ:
Những hình ảnh của tác giả gởi, không đưa vào được trang mạng
T.H.Duy Tân, nên người đăng đành chọn ảnh minh họa.
Gửi: Fri May 31, 2024 11:03 pm Tiêu đề: ĐẶT TÊN CON - Sỏi Ngọc
Đặt tên con
Sỏi Ngọc
(cháu bé sanh ngày 9 tháng 5 năm 2024)
Chúng tôi lấy nhau vào tháng năm 2023, dự tính sẽ có con đầu lòng vào 2024 vì chúng tôi sấp sỉ ngưỡng 30 tuổi, sợ ngoài tuổi đẹp và mạnh khỏe nhất để sanh con khoảng 24-25; tôi và vợ lên kế hoạch đi chơi xa “lấy hứng” và cũng để sau khi có con sẽ giành nhiều thời gian trông nom dậy dỗ con cái.
Trong chuyến đi chơi ba tuần ở Nhật với những phong cảnh lãng mạn hữu tình, vợ tôi đã thụ thai.
Tin nóng sốt vui mừng này được nhanh chóng truyền khắp trong họ hàng nội ngoại hai bên, tôi là đứa con trai đầu tiên lấy vợ trong họ hàng của hai bên gia đình, giờ đây vợ tôi mang bầu cũng là đứa cháu nội đầu tiên của cả hai gia tộc.
Vợ tôi mang bầu là cả một việc làm tôi vừa hạnh phúc lẫn mệt tâm trí, lúc thì mẹ vợ dặn dò không được ăn đồ sushi vì là đồ sống dễ gây đau bụng ảnh hưởng đến thai nhi, lúc thì mẹ đẻ tôi nhắn không được với những đồ ở xa tầm tay, hay leo trèo lên cao lấy đồ mà phải nhờ chồng làm. Rất nhiều thứ nên và không nên được hai bà mẹ của cả hai bên bầy đặt ra làm cho vợ chồng tôi phải nhẹ nhàng vặn nhỏ cái cellphone lại giả vờ không nghe cuộc gọi chứ không thì cả ngày sẽ phải bận rộn tiếp phone thôi.
Cả một thời gian chín tháng vợ mang bầu đã làm tôi phải hy sinh không được đi đâu quá xa để nếu vợ cần gì thì phải có mặt ngay! Ngoài ra tôi vẫn phải bỏ ngủ trễ cuối tuần để đi lấy bánh cuốn hay mua thứ kem lạnh mà vợ tôi nổi cơn thèm lạ đời đòi ăn bất chợt!
Sở thích của riêng tôi là được đi chơi volleyball cuối tuần với các bạn, tôi không thể bỏ được, mà nếu đem bà bầu đi thì thấy cảnh nàng khệ nệ đi qua đi lại sốt ruột ôm cái bụng bự thì làm sao tôi còn hứng thú chơi nữa chứ! Thành ra tôi đã đem vợ lại nhà ba mẹ vợ chơi, khi nào xong sẽ đón nàng về.
Trong lúc ở nhà nàng, ba mẹ vợ đề nghị:
-Các con đã đặt tên cho thằng cu bé là gì chưa?
-Dạ chưa... Chúng con suy nghĩ mãi vẫn chưa đi đến quyết định được. Con nghĩ chắc còn hơi sớm quá.
-Cũng phải nghĩ tiếp đi chứ, con đã đến tháng thứ bẩy rồi... Nó ra đời là phải làm ngay giấy khai sinh đấy! ba nghĩ năm nay là con rồng thì đặt tên Long...
-Trong lớp con có một tên Long rất bủn xỉn keo kiệt, con không đặt tên này đâu!
-Hay là... Lân đi! Phải đấy là Lân đi!... À mà nhà bên nội đã nghĩ tên gì cho cháu chưa?
-Mọi người cũng nghĩ như con là còn sớm quá nên chưa ai nói gì cả ạ.
-Phải đặt tên nào cho dễ khi đi học nữa, chứ tên Việt Nam của mình dài thòng lòng, cô giáo đọc mãi cũng không hết và còn đọc sai nữa thì chả ai hiểu gì!
Nghe vợ tôi nói những cái tên mà ông bà ngoại bên ấy muốn đặt, tôi đăm chiêu suy nghĩ, mới sực nhớ:
-Ừm nhỉ, cũng đến lúc phải quyết định đặt tên cho con là vừa. Mình cứ lo nào là trang trí căn phòng, mua quần áo tã lót, sữa... cho con mà quên mất điều quan trọng là phải cho con một cái tên thật ý nghĩa, chứ đâu phải gọi thằng cu bé là được đâu! Mà biết làm sao khi bên ngoại muốn đặt tên này, bên nội lại muốn đặt tên kia thì làm sao giải hòa được hai bên đây?! Từ chối bên ngoại hay bên nội cũng đều sợ làm buồn lòng họ, vì đây là cháu đầu lòng trong họ nên ai cũng muốn tên mình đưa ra được cha mẹ nó chọn!
Vợ tôi bênh vực ý kiến của ba mẹ nàng:
-Ba em nói năm nay là năm con rồng, đặt tên Lân cũng ok đó!
-Nhưng gì Lân chứ? Phạm Lân?... Còn ông Nội muốn đặt nó là Nhật Lâm...
-Nhật Lâm có ý nghĩa gì?
-Tên của anh là Quang Nhật, lấy tên anh làm chữ lót cho con, còn Lâm là rừng, trong phong thủy Lâm là biểu tượng của sự thịnh vượng, phát triển, mang lại sức sống và tài lộc.
-Để em sẽ tìm hiểu thêm giữa Lân và Lâm rồi mình nói tiếp nhe!
****
Tháng năm giao mùa giữa xuân và hạ, khí hậu thật mát mẻ, hoa lá nở rộ, con người cũng vui vẻ. Bố mẹ tôi sửa soạn đi dụ lịch Châu Âu, trước khi từ biệt tại phi trường, mẹ tôi có dặn dò:
-Hai vợ chồng con nhớ giữ gìn sức khỏe cẩn thận nhé, con so có thể sanh sớm vài tuần như mẹ đã từng sanh con sớm đến ba tuần lễ đấy, sửa soạn va-li sẵn cho vợ con để có gì thì đi ngay vào nhà thương, bất kỳ việc gì cũng phải từ tốn, đừng quýnh lên sẽ hỏng chuyện nhe, bố mẹ đi khoảng ba tuần, có gì nhớ email cho mẹ biết.
-Dạ mẹ không lo, chúng con đã sửa soạn hết rồi, bố mẹ đi chơi về vào cuối tháng 5 thì vợ con mới sanh mà, bây giờ mới là đầu tháng 5 thôi.
-À rốt cuộc tên cháu bé thì con định là gì chưa?
-Con nghĩ sẽ chọn Nhật Lâm đó ạ!
-Gì cũng được tùy các con và bên ông bà ngoại quyết định cho vui vẻ nhé.
****
Bố mẹ tôi vừa lên máy bay rời khỏi, tôi đã nghe tiếng cellphone reo; tiếng thở hổn hển của vợ tôi:
-Anh à... em... đau bụng quá!
-Thật không?...sao kỳ vậy?... em có chắc là đau bụng đẻ không?
-... Giờ này mà bảo em... giỡn hả? em... đau bụng lắm!
-Thở đi nhé, hít vào... thở ra... như mình đã học course đi!
-Em đã làm rồi... Anh ở đâu?... Gần về chưa?
-Anh đang đi về đây!... nhưng... em đau thế nào? Người ta bảo đến cuối tháng em mới sanh mà? Có phải lộn không?... gọi mẹ em xem bà nói thế nào?
-Em đau bụng lắm,... anh về nhanh đi nhe!
Nói rồi nàng cúp phone, tôi rối loạn không biết phải đi nhanh gấp về bằng cách nào nữa, đường kẹt xe như thế này! Không hiểu sao nàng lại đau sớm như vậy, có đúng đau đẻ không? nếu sanh sớm ba tuần có hại cho đứa bé không? nó có bị thiếu phần nào chưa phát triển hết không? Bao nhiêu câu hỏi lo lắng cho đứa con đầu tiên rối tung trong đầu.
Tôi quẹo phải, rồi quẹo trái, rồi quay lại con đường cũ, lòng vòng mãi vẫn đi lộn đường và không ra khỏi được chỗ kẹt này!
Rốt cuộc tôi cũng về đến nhà, nàng nằm ngay trên sofa sốt ruột như chờ đợi tôi lâu lắm rồi, thấy tôi nàng nhăn nhó:
-Sao anh về lâu thế? Em có phone cho bác sĩ rồi, bà nói em cứ từ từ chờ khi nào đau co thắt liên tiếp thì vào nhà thương là vừa, bây giờ bà cũng trên đường đến nhà thương đó. Anh lên lầu lấy giùm em giỏ quần áo nhe.
Tôi quýnh lên:
-Em nhớ hít vào... thở ra nhe!
-Thưa anh, em đang hít đây, không hít, không thở làm sao sống!
****
Khi vợ tôi lên giường nằm chuẩn bị sanh, tôi cảm thấy rất yêu nàng và mình đang nợ nàng một mối nợ ân tình to lớn vậy!
Tôi sắp làm bố! Một trách nhiệm nặng nề nhưng mang tính thuyết phục! tôi không sao tả được cảm giác yêu thương và hạnh phúc trong tôi, tôi không trực tiếp mang nặng đẻ đau như người phụ nữ nhưng cả quá trình mang thai của nàng tôi đều hiện diện.
Đứng trước cảnh này tôi mới hiểu thế nào là tình phụ tử thiêng liêng, tình chồng nghĩa vợ. Lúc lấy vợ, tôi vẫn chưa trưởng thành, nhưng đứng ở ngưỡng cửa sắp làm bố tôi thấy mình thật quan trọng, quan trọng hơn cả làm một chức vị thật cao trong xã hội nữa!
Hai cô y tá cùng lúc ra lệnh cho vợ tôi:
-Push! Push!
Vợ tôi mặt đầy mồ hôi hột, đỏ bừng cố rặn từ nãy giờ, thằng bé vẫn chả thấy xuất đầu lộ diện! không hiểu nó muốn chơi trò ú tim đến bao giờ nữa!
Nhìn nàng với những cơn đau rên xiết, chịu đựng, ráng bặm môi rặn mà tôi thấy lòng dạ quặn thắt; mặt nhễ nhại mồ hôi, đầu tóc rối xù tuy đã được cột gọn trong chiếc bao xanh của nhà thương, nàng nhăn nhó nhìn tôi:
-Em đã ráng hết sức rồi!
Ngay lúc ấy, tôi nhớ bố đã kể cho tôi nghe một câu chuyện khi tôi được sanh ra cùng nhà thương với con tôi hiện tại, tôi bất chợt phì cười mà không thể nào giữ được, hai cô y tá thấy tôi bật cười giữa lúc mặt ai cũng đang nghiêm trọng « làm việc », hai cô mới nhìn tôi và hỏi:
-Chắc ông thấy vui sắp được làm cha?
-Tôi xin phép được kể một câu chuyện vui, cũng có thể nó tiếp sức làm vợ tôi mạnh lên thêm khi đẩy cháu bé ra dễ dàng hơn: mọi người biết không? lúc mẹ tôi sanh tôi trong phòng sanh như thế này, hai cô y tá cũng bảo mẹ tôi push push, bố tôi đã tiếp sức mẹ bằng cách nắm chặt tay mẹ, cùng rặn với mẹ, cố gắng push, bỗng bố đưa tay lên ngăn tất cả mọi người lại nói « hãy khoan rặn! chờ tôi nhé! Tôi phải đi vệ sinh vì từ nãy đến giờ tôi push nhiều quá nên bây giờ phải đi đây, hãy chờ tôi ra rồi mình sẽ tiếp tục! »
Thế là mọi người đều ôm bụng cười, chờ bố tôi « đi tiện » xong ra mọi người mới tiếp tục push!
Sau khi tôi kể xong câu chuyện, cả phòng cùng cười, nhờ vậy vợ tôi lên tinh thần, có sức mạnh và tất cả chúng tôi cùng ráng một cú hết sức bình sinh, thằng bé văng ra ngoài một cách tuyệt diệu.
Tiếng khóc oe oe đầu tiên chào đời của nó vang lên làm nhói trái tim tôi, một cảm giác khó tả len vào từng thớ thịt mạch máu của trái tim, tôi được hai cô y tá hân hoan mời cắt rốn, cuộn nó lại để lên cân, vỏn vẹn có 2.65kg thôi, như con chuột con, tôi và nàng cùng chảy nước mắt hạnh phúc khi ôm cháu vào lòng. Cô y tá ịn bàn chân bé xíu của nó vào mực đen rồi in lên tờ giấy của nhà thương, cô cắt nghĩa:
-Đây là dấu in chân của đứa bé đầu tiên ra đời để không lộn với những đứa bé khác! Cũng giống như một loại lấy dấu vân tay mà thôi, nhưng vì còn quá bé không thể lấy dấu tay được nên lấy dấu chân.
Hai cô y tá chúc mừng tôi đã lên chức CHA!
Tình thương yêu bảo bọc của cha mẹ rộn ràng trong tôi, cảm xúc lúc ấy không bút nào tả xiết. Tôi cảm thấy không gì hơn được tình phụ tử, tôi quyết tâm sẽ là người cha tốt, gương mẫu để cho con noi theo.
Vợ tôi thì thào bên tai:
-Em sẽ đặt tên nó là Kylan!
-Ủa không phải Nhật Lâm sao?
-Không đâu! Nó sẽ tên là Kỳ Lân... Nhưng đi học thì tên là Kylan...
-Tại sao chứ?... sao em không nói gì với anh?
-Bây giờ em nói cũng không muộn mà!
-Vậy có ý nghĩa là gì? Em đã tra tự điển chưa? Tiếng Việt em không rành thì làm sao đặt cho nó chứ?
-Kỳ Lân là biểu tượng của sự may mắn và thịnh vượng, còn trong phong thủy Kỳ Lân được sử dụng để thu hút tài lộc và phúc lành, nó còn là hóa thân của lòng nhân từ và công lý, là tượng trưng cho sự cân bằng giữa sức mạnh và lòng từ bi. Tóm lại Kỳ Lân, sự kết hợp với vẻ ngoài uy nghiêm và tính cách từ bi trở thành một biểu tượng văn hóa sâu sắc, truyền tải nhiều giá trị và niềm tin tốt đẹp trong đời sống của người dân Á Đông. Em đã đọc được điều này trong tự điển nên vội vàng đặt cho con mình; ngoài ra chính con Kỳ Lân này là kỷ niệm của cả hai chúng ta khi mình cùng vào đoàn Phật Tử ở chùa Quan Âm, anh làm đầu con lân, còn em là người đánh trống cho đoàn lân múa lần đầu tiên cả đoàn mình trình diễn ở Garden Grove, Cali ở Mỹ vao dịp Tết anh có nhớ không? lúc ấy chúng mình mỗi người một công việc mà chưa thân nhau, nên em muốn con mình nhắc nhở mãi kỷ niệm của chúng ta.
Tôi xoa đầu nàng:
-Thôi được, em đã chọn, đã thích tên này và tra cứu đến tận nơi rồi thì anh cũng chấp nhận thôi. Em đã sanh cho anh một đứa con thật đẹp, nhiều công sức quá, món quà này là phần thưởng quý báu nhất của em giành cho anh. Thực ra mà nói giá trị thực sự của một con người không nằm ở cái tên mà ở những hành động, phẩm chất và đóng góp của họ cho xã hội.
Một người có thể làm vẻ vang cho xã hội bằng cách sống một cuộc sống có ý nghĩa, có đạo đức và tạo ra những ảnh hưởng tích cực...
Tôi không hiểu sao thường ngày mẹ cứ hay nói tôi còn là đứa trẻ con, nhưng hôm nay trước một sinh linh bé nhỏ mới chào đời, tôi trở thành một « triết gia», tôi nghĩ đủ thứ cao siêu, tôi không còn chỉ nhìn những điều tầm thường nữa, mà biết nhường nhịn, biết kiên nhẫn và bao dung hơn, thật kỳ lạ! Chả lẽ sự ra đời của thằng cu con lại đổi tính cách và sự suy nghĩ của bố nó như thế sao?
Tôi chụp vội vài tấm hình của Kylan khi vừa lọt lòng mẹ, gởi cho bố mẹ tôi đang đi du lịch ở Greece:
-Mẹ thấy nó có giống con không?
Tôi tưởng tượng mẹ đã không kìm được những giọt nước mắt hạnh phúc khi nhận được những tấm hình của thằng cháu mới sanh, mẹ viết lại cho tôi thật ngắn gọn:
-Cháu bé dễ yêu quá! có phải bị nằm lồng kiếng vì thiếu ba tuần không? quan trọng là sức khỏe thôi, vợ con cũng khỏe chứ? Chúc mừng các con nhé!
Kylan là món quà yêu thương mà ông Trời giành cho gia đình nhỏ cũng như cho cả gia tộc hai bên nội ngoại, nó sẽ là chất keo gắn kết hai gia đình thêm chặt. Tôi chỉ mong ước một điều cho cháu nhiều sức khỏe, ăn no chóng lớn và sẽ là người hữu ích cho xã hội sau này.
Nhìn nó say ngủ trong lòng mẹ, tôi nhớ mình cũng đã từng như nó, từng được ấp ủ chở che, yêu thương và nuôi dậy thật tốt để có được ngày hôm nay.
Có con mới biết được công ơn cha mẹ cao dầy thế nào.
Cha là chiếc lá che sương,
Mẹ là bông lúa ngát hương giữa đồng,
Cha là trời rộng mênh mông,
Mẹ là đất mẹ, cho con vững vàng,
Nguyện cầu cha mẹ bình an,
Ơn sâu nghĩa nặng muôn vàn kính yêu. (khuyết danh)
Sao đầy hoàng hôn trong mắt trong? (Tống Biệt hành – Thân Tâm)
Anh ngồi bất động trước hiên nhà, những chú chim sẻ truyền cành ríu rít hót, những cô bướm đủ màu lượn lờ bay quay tưởng chừng như muốn đậu lên cả người anh, anh vẫn yên lặng như pho tượng, không để ý đến những vật thể linh động bao quanh mình, kể cả dải nắng chan hòa ấm áp đang phủ lấy con người bệnh hoạn của anh.
Anh bồi hồi nhớ lại khoảng thời gian cách đây 50 năm, hồi anh còn trẻ khỏe, khi anh chị mới lấy nhau; anh di cư từ Bắc vào Nam năm 1954, chật vật học ra bằng bác sĩ, lập gia đình với chị khi ấy chị mới chỉ là một thiếu nữ thơ ngây của một gia đình trung lưu miền Nam.
Cuộc sống của anh chị nhẹ nhàng thoải mái với đồng lương bác sĩ của anh, sau đó hai con trai ra đời, chưa được bao lâu thì miền Nam Việt Nam bị cưỡng chiếm.
Anh ĐNT và chị HM hồi mới cưới nhau. (Hình: Sỏi Ngọc cung cấp)
Chẳng bao giờ anh có thể ngờ được cả gia đình phải bỏ nước ra đi, phải trốn chạy hung thần giặc đỏ, hy sinh thân mình chống chọi với gió bão ác nghiệt của biển cả để tìm đến bến bờ tự do.
Gia đình anh chị được chính phủ Canada cấp cho một căn nhà nhỏ tại một thị trấn khá xa, nằm trong tiểu bang Quebec, Berthierville, vào những năm 1976-1977, lúc ấy hai con trai mới lên 5 và 7; cho dù có khó khăn cực nhọc cách mấy, anh vẫn mang ý nghĩ trong đầu phải phấn đấu, kiếm tiền nuôi gia đình; chị cũng không quản ngại thức khuya dậy sớm, làm những món ăn Việt Nam thật đặc biệt là chả giò, xôi, bún, bán cho người dân bản xứ trong vùng, phụ thêm chút thu nhập để nuôi các cháu nhỏ và tạo điều kiện để anh yên tâm đi học lấy lại bằng bác sĩ hành nghề trên đất khách; mặc dù cả ngày chị chạy lên chạy xuống, hết đón con đến đi chợ, rồi làm bếp, chị không hề thấy mệt, ngược lại thấy vui với sự bận rộn mỗi ngày, vui với sự hài lòng, nụ cười của khách hàng mỗi lần chị làm món ngon cho họ thưởng thức bữa cơm tối; số tiền thu được chị đã chắt chiu từng đồng nuôi dậy các con, vén khéo trong gia đình mà anh không cần phải lo lắng đến.
Berthierville nằm ở phía Bắc sông St-Laurent, rất ít dân cư chỉ một hai ngàn người, mọi người ai cũng biết nhau, yêu quý và giúp đỡ lẫn nhau, nhất là lúc ấy nguồn thu nhập chính của chị từ món chả giò nổi tiếng nên ai cũng biết đến chị và gia đình; con cái chị được dậy dỗ và lớn lên giữa những người dân bản xứ hiền lành, tốt bụng và giàu lòng nhân ái
Cái lạnh cắt da, cơn gió hú, những tảng băng tuyết rơi từ nóc nhà lăn ùn ùn xuống thành từng đống trước mặt anh khi anh mở cửa đi làm vào buổi sáng ở những tháng một, hai khi mùa đông Canada tới, thương các con dậy đi học sớm với hai ba lớp áo lạnh, ủng, găng tay, mũ nón len mà mặt vẫn đỏ au, da bị dộp phồng đỏ vì quá lạnh, anh chị đã bàn nhau dọn về Montreal cho bớt lạnh, vả lại lúc đó anh đã học xong bằng bác sĩ chỉ còn thực tập trong nhà thương mà thôi.
Ngày anh chị rời bỏ thành phố nhỏ Berthierville làm khuấy động cả một góc thị trấn, ai cũng thương mến, đến giã từ, mọi người bịn rịn tặng quà và chúc tụng những lời lẽ đẹp nhất như một hành trang tinh thần giúp anh chị tiến mạnh hơn và tin tưởng ở tương lai trên quê hương thứ hai này.
***
Tôi có hẹn ở phòng mạch của anh khi anh ở độ tuổi 50, còn tôi mới bước vào đại học năm thứ nhất. Tôi đến khám để xin thuốc antibiotique (kháng sinh) vì đau cổ, ho hai tuần vẫn chưa khỏi.
Gặp người đồng hương vào thời đó, anh vui lắm, hỏi tôi:
-Cô qua đây lâu chưa? Bên này lạnh quá nên ai cũng ho cũng cảm, đi ra ngoài phải lấy foulard (khăn quàng cổ) quấn mấy vòng như thế này rồi mới ra đường, chứ không thì sẽ bị cảm suốt! Thôi lấy 10 viên này về uống thử nếu hết thì thôi, còn ho thì gặp lại tôi nhé.
Anh muốn trêu tôi, lấy chiếc khăn quàng quấn chung quanh cổ, xiết mạnh, chỉ chừa hai con mắt trợn to và chiếc lưỡi thè dài ra, làm tôi đang đau cổ nói giọng khàn đặc cũng phải bật cười thành tiếng.
Anh nói chuyện rất có duyên, lúc nào cũng pha trò tếu lâm, làm người bệnh quên cả bệnh tình của mình; từ phòng mạch bước ra, ai cũng mang nụ cười trên môi như đi thăm người thân chứ không phải vào khám bệnh. Tiếng cười của anh vang dội ra cả ngoài phòng đợi. Khách khám với anh ngày càng đông. Họ rất mến ông bác sĩ gia đình này, vừa hài hước lại vừa hiểu tâm trạng bệnh nhân.
Sự thành đạt về gia đình, con cái lập nghiệp tốt, làm anh chị thêm hưng phấn, không còn lo sinh kế; cuộc đời đẹp hơn khi xung quanh có những người bạn thân, mối giao hảo cùng đẳng cấp được rộng mở, anh chị quen biết nhiều người hơn trong đó có đủ độ tuổi gặp nhau vui chơi ăn uống, ca hát nhảy nhót cuối tuần.
Những lần ra mắt sách trong cộng đồng người Việt, thỉnh thoảng tôi gặp anh chị, chị cũng là một trong những cây bút chuyên viết truyện tình cho nguyệt san của Montreal; gặp chị như cá gặp nước, tôi và chị hàn huyên không bao giờ dứt về văn chương, gia đình, cuộc sống. Chị trẻ hơn mẹ tôi không nhiều nhưng trong giới văn nghệ thường xưng hô « anh chị » cho trẻ trung nên tôi cũng không ngoài luật đó!
Tuy tôi và anh chị không cùng độ tuổi nhưng chúng tôi phải nói là bén duyên nhau, chuyện gì chúng tôi chung tay làm đều thành công như những lần làm văn nghệ ủy lạo các bác lớn tuổi ở nhà già, ra mắt sách cho nhóm, văn nghệ bỏ túi đến nhà những người bạn thân, sinh nhật bạn bè... Những tiếng cười nói, yêu thương đã làm chúng tôi thật sự gần gũi và quên đi tuổi tác của mỗi người.
***
Trong ba năm covid, mọi người ở trong nhà, chính phủ cấm không được hội họp, anh đứng ra thành lập một nhóm mạt chược mà anh là người thầy dậy.
Từ ở Việt Nam, anh đã chơi mạt chược rất giỏi, nhưng vì mưu kế sinh nhai khi mới đến một đất nước mới lạ lẫm nên anh chưa “trổ tài,” thời kỳ covid quá nhàn nhã, đây chính là cơ hội, anh lập ra từng nhóm bốn người dậy chúng tôi đánh mạt chược, vui, thật hào hứng và luyện trí nhớ cho khỏi quên khi lớn tuổi. Anh thâu một cuốn băng DVD dậy cách đánh mạt chược, và cũng viết một quyển sánh với những thế trận khó và cách tính điểm ra sao...
Chúng tôi đã quên đi những ngày tháng nhàn chám bị cô lập mà ai cũng lo học thêm cách đánh mới để ra quân đánh cho thắng, chúng tôi chơi một tuần hai lần ở nhà anh chị, còn khi về nhà thì tập luyện thêm những thế đánh hóc búa làm sao để có thể “ăn” được ông thầy. Lúc đó tên tuổi của anh vang rộng vì không ai có thể “hạ gục” anh trên những ván mạt chược.
Quân bài mạt chược. (Hình: Sỏi Ngọc)
Những ngày tháng bên nhau thân mật, ngắn ngủi trôi qua...
Bất thình lình tôi nghe chị nói anh bị suy thận và phải làm lọc thận mỗi hai lần trong tuần. Anh vẫn mang tâm trạng tích cực, vẫn tươi cười mỗi khi gặp bạn bè thân thiết, anh chấp nhận và hiểu rằng chuyến xe mà anh đang đi cùng mọi người sắp sửa đỗ bến! Và người xuống bến sẽ là anh!
Anh vẫn dậy và chơi mạt chược rất cừ khôi, khi vào cuộc, anh quên tất cả bệnh hoạn, mà chỉ tập trung suy nghĩ sao cho ăn được đối phương, nên khi ngắm mọi người chơi mạt chược tôi có cảm tưởng như anh không hề mang bệnh trong người mà trái lại rất khỏe, giọng nói sang sảng, tiếng cười thật vui, nhưng có ai biết đâu là sau khi chúng tôi ra về thì anh thấm mệt! Anh vẫn chấp nhận chịu đựng đau đớn để được gặp bạn bè, để được tiếp tục đánh mạt chược, để quên đi căn bệnh đang đeo bám trong chốc lát, anh muốn thi gan với con bệnh đang đè lên con người của anh mỗi lúc một nặng hơn.
Một ngày họp mặt bạn bè, chị nói với chúng tôi có thể đó là lần cuối vì anh đã rất mệt rồi, anh không thở nổi nữa, mỗi lần anh đi lọc thận về, anh té nằm lăn ra đất vì đi không nổi, còn chị đã 80, làm sao có đủ sức để đỡ anh lên giường, nên chị để anh nằm yên dưới đất mà bấm 911 gọi xe cứu thương.
Cơ thể anh lúc nóng, lúc lạnh, rất kỳ quái! Có khi thì rất nóng phía sau lưng, chị phải lấy đá chườm phía sau, nhưng phía trước ngực lại phải đắp mền vì lạnh run!
Bên cạnh những đau đớn mệt nhọc, anh vẫn khôi hài. Anh vẫn nói những lời rất yêu thương, đầy biết ơn đến người vợ bên cạnh mình từ 50 năm nay, anh còn viết một bài báo nói về việc lọc thận làm cơ thể bị lạnh run, cách khắc phục như thế nào, gởi đi khắp nơi cho người cùng bệnh rút kinh nghiệm, vì là một bác sĩ 40 năm nên những thuốc chích vào người, anh đều tìm hiểu phản ứng phụ của nó ra sao.
Ơn nghĩa vợ chồng, anh đã viết một bài riêng cho chị trên tập san y sĩ ta main dans ma main (tay em trong lòng tay anh), trong đó anh nhắc đến Le temps qu’il nous reste (thời gian còn lại của chúng ta) của tác giả Fernand Gignac, một người bạn thân của anh chị đã dịch lại như sau:
Anh nhắm mắt lìa trần mãi mãi
Trên đôi môi sót lại nụ cười
Anh đi anh đã đi rồi
Còn em, em mất nửa đời tiếc thương
Trái tim em, vẫn thường đập nhẹ
Nhưng cho ai, nhưng để làm gì?
Thiên đường mở, bước quen đi
Tim em lỗi nhịp bởi vì dáng anh
Xiết đôi tay, quên nhanh tất cả
Thấy thời gian giờ đã ngừng trôi! (Lộc Bắc)
Một ngày cuối Tháng Tám, vợ chồng tôi chở anh chị đi chơi, ăn uống; đang ăn bỗng dưng anh nhìn xa xăm, nói vu vơ như không cần người nghe:
-Tôi cần một phương pháp trợ tử!
Tôi giật mình lo lắng đưa mắt nhìn chị, nước mắt đong đầy trong hốc mắt, chị nhẹ nhàng tâm sự:
-Ai cũng phải đến ngày đó thôi! Anh đã chịu đựng đau đớn mỗi lần lọc thận về, ăn uống không được ngon miệng nữa, ngủ nửa đêm thức giấc vì nóng hay lạnh quá, không được uống quá nhiều nước cho dù có khát cách mấy vì thận đã không làm việc nổi. Anh lại thương chị mỗi khi thấy chị cực giúp anh làm vệ sinh cá nhân. Con cái ở xa, chúng có cuộc sống riêng, đâu thể lúc nào cũng kề cận lo cho cha mẹ mãi được, khi cần chúng có thể đến giúp có hạn mà thôi... Rốt cuộc chỉ còn hai ông bà già! Cuộc đời có giới hạn, mình đã xây dựng, sống với tất cả nỗ lực, bổn phận trách nhiệm đã xong, thì bây giờ Chúa gọi về lúc nào anh chị cũng chấp nhận thôi!
Lần ấy, tôi thật ái ngại, thấy anh bước đi không còn khỏe như những lần gặp nhau trước nữa vì càng lớn tuổi mắt càng mờ, anh nói thật cảm động:
-Trước mắt anh như có một làn mây bao phủ, anh muốn chỉ một lần được nhìn chị cho rõ hơn để kiếp sau có thể tìm thấy chị mà lấy làm vợ...
***
Bỗng một buổi tối sau giờ cơm, tôi nhận được một điện thư của chị nói rằng đã để anh vào palliative care (phòng chăm sóc cuối đời). Tôi run hết cả người, nước mắt chảy dài xuống má không nói được một lời nào, bàng hoàng, xót xa nghĩ đến anh. Tình cảm của tôi giành cho anh chị cũng như những người thân trong gia đình, làm tôi câm nghẹn không nói lên được một lời nào; biết rằng tình trạng của anh bệnh như thế đó, biết rằng anh sẽ từ giã chúng tôi một ngày không xa, nhưng thật sự tôi chưa hề sửa soạn tư tưởng sẽ mãi mãi không gặp anh và sẽ chỉ nhìn thấy chị trong tương lai một mình cô độc ở tuổi 80!
Tôi nhớ lại hình ảnh bố tôi gầy còm vì bệnh nan y phổi ở tuổi 86, khi bố cảm thấy sự sống không còn cần thiết nữa, ông không muốn bị mổ xẻ, cắt cứa đau đớn nên đã can đảm tự chọn vào palliative care, ở đây ông được ăn uống tất cả những gì mình thích, không cần kiêng cữ nữa, mỗi ngày y tá sẽ chích cho ông một mũi thuốc morphine giảm đi những giác quan, tức là giảm đi sự cảm nhận, đau đớn, và đồng thời những giấc ngủ lâu và triền miên hơn, trong vòng một tuần bố đã ra đi nhẹ nhàng trong một giấc ngủ sâu...
Bây giờ tôi mới hiểu những người đàn ông trụ cột, gánh vác trách nhiệm của gia đình can đảm và dứt khoát như thế!
***
Vừa bước vào phòng bệnh, tôi thấy cả gia đình anh chị cùng hai con trai, con dâu, và các cháu quây quần bên giường bệnh, còn anh thì vẫn ngủ thật say, không nước biển truyền vào mạch máu hay ống oxygen cắm vào mũi để thở như những người bệnh bình thường khác.
Đúng thật là “ra đi trong bình an nhẹ nhàng” nhưng sao trái tim tôi quặn thắt!
Trên tường những hình ảnh kỷ niệm của gia đình anh chị từ ngày lấy nhau cho đến tận bây giờ, hình các con cháu nô đùa bao quanh anh chị thật hạnh phúc. Tất cả chỉ là phù du khi con người đến một khúc quanh?!
Trên chiếc bàn nhỏ, tôi thấy một quân bài mạt chược thật to bự mà một người học trò nào đó đến tặng ông thầy dậy mạt chược, vì thực tình anh chính là vị hoàng đế của mạt chược Montreal! không có ai có thể chơi qua nổi khi anh còn khỏe.
Những cánh hoa rực rỡ màu tươi thắm trên bàn trong góc cũng không đủ làm căn phòng vui tươi hơn, chúng tôi phải đè nén lòng khi nói chuyện với nhau, tôi sợ nếu sơ xuất điều gì sẽ làm nước mắt của tôi và chị tràn ngập cả phòng!
90 năm sống của anh qua những hình ảnh, gia đình con cháu vây quanh ở phút cuối, làm lòng tôi se thắt, đúng là cuộc sống này chỉ là một chặng dừng chân ngắn ngủi trong hành trình dài vô tận của sự tồn tại ở một cõi khác sau cái chết ở trần gian.
Tôi hỏi chị:
-Anh vào đây nằm từ bao giờ? Và đã quyết định chuyện này từ bao lâu rồi ạ?
-Thực sự mà nói anh đi lọc thận từ 4 năm rưỡi nay rồi, dạo gần đây sau khi từ nhà thương về anh rất mệt, ăn ngủ không yên, anh cứ bị đau nhức trong cơ thể ngày càng nhiều, rất khó chịu; tuổi đã cao, có kéo dài sự sống hơn nữa cũng chẳng để làm gì mà phiền thêm cho con cháu mỗi khi có chuyện, anh thực sự muốn ra đi êm ả, nên đã nói chuyện này với cơ quan y tế nơi mà họ cử những y tá đến chăm sóc cho anh hàng tuần tại nhà. Anh đã bàn với chị và các con, chính anh là người quyết định...
Câu chuyện chúng tôi bị cắt ngang khi anh hơi tỉnh lại, tôi đứng bên cạnh, vuốt tay anh: anh vẫn còn minh mẫn khi nói đúng tên tôi, anh lại còn thêm:
-Mắt mờ quá không thấy rõ...
Xiết chặt tay anh cho một lần cuối, tôi cố nuốt nước mắt vào trong, cổ họng nghẹn lại, những lời nói cuối cùng từ giã cho một kiếp người, khi anh còn nhận biết:
-Chúc anh... đi chơi xa thuận buồm xuôi gió, chúc anh đi thật bình an...
Chị thêm vào:
-Anh nhớ chờ em nhé!
Ơn em hồn sớm ngậm ngùi
Kiếp sau xin giữ lại đời cho nhau. (Giữ đời cho nhau- Từ Công Phụng)
(3 Sept 2024)
* Đăng thêm :
LB nhớ lại 2 câu thơ của anh Thuận viết trong bài văn cuối cùng của cuộc đời, bài Chết Đuối Trên Cạn trên Tập San Y Sĩ năm thứ 49, số 232 phát hành tháng 09/2024. Có lẽ sau khi anh đọc xong bài của mình anh đã quyết định ngưng lọc thận.
Trong bài anh cảm ơn sự săn sóc tận tình của chị Mai bằng hai câu thơ:
“Mai” ru anh ngủ dịu dàng
Đến khi yên giấc nhẹ nhàng anh đi (ĐNT)
Đừng buồn tử biệt sinh ly
Vòng tay rộng mở ướt mi em về! (LB)
TIỄN ANH
Hom nay tien Anh di
Nhin Anh qua doi nay
Chi am tham cau nguyen
Thenh thang Anh ra di
U thoi Anh ra di
Hop tan chang sa gi
Dat Troi tuy cach tro
Cam ung nan tuong nghi
Thenh thang Anh ra di…
Gửi: Fri Oct 25, 2024 10:50 pm Tiêu đề: Sinh Tử Một Kiếp Người
Sinh Tử Một Kiếp Người
Mai Hữu Thọ chọn ảnh minh họa
Sinh Tử Một Kiếp Người
Sỏi Ngọc
Lá vàng đã lắm lần trôi
U buồn đã lẫn thở dài đi qua
Lệ nhiều đã giết ngày thơ,
Môi hồng sẽ nhạt, má tơ phai đào
Còn gì nữa mà đổi trao
Cho người đuổi những mơ cao không trùng
(Mười hai bến nước-Nguyễn Bính)
Mỗi lần ngồi học bài buổi tối, nhìn qua căn ấp (chung cư) đối diện, tôi đều thấy căn phòng của bà Sáu mẹ chị Thương mở đèn sáng trưng, đến hai ba giờ sáng, cũng vẫn thấy dáng bà còng lưng bên bàn máy may; bà làm việc full time trong hãng may ban ngày, đêm lại cong người trước bàn máy công nghiệp để tạo nên những chiếc áo dài cưới có một không hai trong cộng đồng người Việt.
Những cô dâu mới được truyền tai, đều tìm đến bà Sáu để nhờ chính tay bà may áo mới chất lượng đẹp, bà tỉ mỉ kiên nhẫn đơm từng hạt cườm, đây cũng là niềm đam mê khi ngắm những cái eo con kiến và sự hài lòng của những bậc phụ huynh của các cô dâu tương lai trước ngày cưới. Bà là người thợ may áo dài đầu tiên tại Montreal nên được nhiều người biết đến, chẳng bao lâu căn ấp của bà được trang trí với những nội thất rất nghệ thuật để đón tiếp khách may đồ đến từ khắp nơi.
Chúng tôi là hàng xóm khá thân của nhau trong cùng một « building » cao tầng, gồm cả trăm căn ấp. Từ ngày định cư đến Canada, thành phố Montreal, chính phủ cấp cho chúng tôi mỗi gia đình tùy theo số người, một ấp gồm hai phòng ngủ rộng rãi, một phòng khách, một cái bếp nhỏ; ban đầu họ cho ở không tốn tiền ba tháng đầu, khi có việc làm là phải trả tiền mỗi tháng, nhưng số tiền mướn chỉ là tượng trưng để giúp cho người di cư có chút vốn tậu đồ đạc trong nhà, sắm sửa quần áo, mua xe cộ đi lại...
Tôi biết gia đình chị Thương gồm hai mẹ con, ngày ấy bà Sáu chưa nhiều tuổi lắm, chỉ trên 40, bà chưa từng bước ra đường kiếm tiền bao giờ hồi còn ở quê hương, thế mà từ ngày đặt chân đến Canada bà đã phải đi làm, ban đầu lau nhà, dọn dẹp rác trong những shopping mall, sau này bà có chút vốn liếng về tiếng Pháp, bà xin được vào hãng may; bà làm cực nhọc để nuôi con gái đi học, bà muốn chị sau này sẽ bớt khổ, sẽ làm một chức vụ nào đó kha khá để khỏi uổng công bà đã mang nặng đẻ đau, bị nhà chồng ruồng bỏ từ khi biết bà mang bầu là con gái; rồi bà và chị đã phải vượt biên chết đi sống lại khổ sở trên biển cả, bao nhiêu khổ cực oan trái bà đã từng cầu xin Trời Phật để bà gánh vác thay con, để con gái có một cuộc sống thật nhàn nhã, sung sướng sau này.
***
Thời gian trôi qua nhanh như thoi đưa, những người ở cùng một « building » từ từ ăn nên làm ra, người mua nhà, kẻ đổi đi làm ăn chỗ khác, chỉ còn lại gia đình tôi và bà Sáu vẫn mãi ở cái building này vì giá bèo, nếu dọn ra ngoài thì sẽ không bao giờ tìm được một cái ấp rộng rãi với giá này nữa.
Chị Thương học xong lớp 12, như ý nguyện của mẹ, chị lập gia đình với một người Hoa, có chức vụ cao trong chính phủ; chị là người con gái xinh đẹp mảnh khảnh và duyên dáng nên rất nhiều anh theo tán tỉnh; chị đã yêu và lấy anh Chen, hơn chị 5 tuổi trong số những người theo đuổi chị. Ngày chị dọn ra theo chồng, hai mẹ con ôm nhau khóc từ biệt mà chúng tôi tưởng chừng như sự chia ly mãi mãi không bao giờ gặp lại!
Mai Hữu Thọ chọn ảnh minh họa
Tôi nghe chị Thương nói với mẹ:
- Mẹ! hãy cẩn thận, chăm sóc bản thân, nhớ ngủ sớm đừng thức khuya quá nhe mẹ, mẹ đang có bệnh trong người, phải nghỉ ngơi nhiều hơn. Con sẽ tìm cách để mẹ con mình đoàn tụ.
- Mẹ rất mong ngày ấy! Con hãy ráng giữ sức khỏe, có gì điện thoại về cho mẹ biết.
- Con sẽ nói chuyện với anh Chen để đón mẹ về ở cùng với con... Con không yên tâm khi thấy mẹ vò võ một mình.
Quay sang tôi, chị nói:
-Thi thoảng em chạy qua thăm mẹ chị, xem bà có cần gì thì em giúp hộ nhé, chừng tháng sau chị sẽ về lại.
***
Đêm nào cũng như nhau, tiếng máy may chạy sè sè bên nhà đối diện làm tôi không thể nào không nhìn sang. Tiếng ho của bà ngày càng rõ, mỗi ngày một nhiều nhất là về đêm. Bà ôm ngực, ngồi gục xuống đất, tôi vội vàng khoác chiếc áo ấm, chạy qua xem bà ra sao:
- Bác Sáu có sao không? Để con đỡ bác ngồi lên ghế rồi uống chút nước gừng nhe.
Tôi giúp bà đứng dậy, bà tiếp tục ho, ho như xé phổi, tôi đưa tay vuốt ngực, đưa ly nước vào môi bà, nước chưa kịp vào miệng thì bà lại gập người xuống ho như muốn văng luôn mấy chiếc xương sườn còn lại dưới lằn da mỏng manh nhăn nhúm. Tôi chậm những dòng nước mắt nước mũi trào ra cả mặt khi bà vừa ngưng ho, lo lắng:
- Bác Sáu có đi xem bác sĩ chưa vậy? bác sĩ có nói bệnh bác ra sao không?... cháu thấy bác ho nhiều quá như thế, để lâu sợ trở bệnh nặng thêm.
- Bác có đi xem rồi con, họ nói bệnh ho này khó chữa lắm, với lại... phổi bác có một vết nám... À mà bác nói con biết thôi nhé, đừng cho con Thương biết làm gì, nó lo mất công, con người chẳng ai qua được cửa tử!
- Bác Sáu sao bi quan vậy, phải nói cho chị Thương biết để chị ấy lo chạy chữa cho bác; sống bên Canada chứ có phải bên Việt Nam đâu mà bác sợ tốn tiền hay không có bác sĩ giỏi...
- Ờ... ờ để bác suy nghĩ lại rồi xem sao, nhưng con đừng nói cho nó biết nhe!... Nó mắc lo cho chồng và con gái nó, nó không có đủ thì giờ cho bác đâu!
- Hồi đó con nghe bác nói sẽ đến nhà anh chị ấy ở, nuôi giữ con bé luôn mà? Vậy mà cũng đã bao năm trôi qua rồi... bác vẫn một mình...
- Chắc không được nữa đâu con!
- Sao vậy bác?
- Bác không muốn làm gánh nặng cho nó! Con thấy bác phải đi làm, nhận đồ may mỗi đêm là hiểu rồi, mình nuôi con không sao, chứ nhờ con khó lắm!... Với lại nó cũng có nỗi khổ riêng của nó. Mình muốn cho con sung sướng hạnh phúc thì bây giờ còn phân bua gì nữa!
Tôi nhìn bác Sáu thật ái ngại, bác chưa lớn tuổi lắm, nhưng da mặt sạm và nhăn, chứng tỏ bác chẳng bao giờ có thì giờ săn sóc bản thân mình, bệnh ho của bác dai dẳng từ khi mới qua đây cũng hai chục năm rồi mà chẳng bao giờ dứt, lúc đầu vì đi làm, sợ nghỉ sẽ không có lương nên bác cố chịu đựng, sau này thì bác có đi khám bệnh nhưng lúc đó phổi bác đã có vết nám nhỏ, từ từ lan ra nhanh mà chẳng ai để ý tới.
Mỗi lần hai vợ chồng chị Thương về thăm bác cùng với con bé cháu ngoại, tôi thấy anh chồng thả chị và cháu bé xuống xe vào nhà mẹ, anh hẹn chị đến giờ sẽ tới rước để cho chị tha hồ tâm sự với bà. Nhưng thật ra anh ấy muốn tránh vào nhà, vì có một lần anh đã lên tiếng chê nhà bà hôi mùi dầu ăn, mùi nhà cũ khó chịu, bị dị ứng, chỉ muốn đứng bên ngoài chờ vợ con ra.
Để cho mẹ đừng lo, chị kể gia đình chị rất hạnh phúc, chồng rất chăm sóc yêu thương chị. Con bé Thi ngoan ngoãn, 8 tuổi hồn nhiên chạy quanh bà ngoại kể đủ thứ chuyện cho bà nghe. nó ôm cổ bà ngoại hỏi một cách ngây thơ:
- Bà ơi, sao giường bà lại để xuống đất nằm vậy? Sao không kê cao như giường nhà cháu? Bà không sợ con kiến hay con bọ nào đó bò vào trong lúc mình ngủ sao?
Chị Thương giải thích cho con nghe:
- Con biết không! hồi mới tới định cư tại Montreal này, chính phủ cấp cho bà ngoại và mẹ căn ấp này, lúc đó vô nhà trống trơn không có gì cả, phải lót quần áo ngủ dưới đất, rồi qua hôm sau đi vòng quanh các building gần đây thấy họ dọn nhà vứt rất nhiều đồ tốt như tấm đệm này cùng với nhiều chén bát còn tốt mà những nhà khá giả không dùng nữa, họ để ngay đống rác trước nhà, mẹ và bà ngoại đã hì hục khiêng tấm đệm này về lau chùi cho hết mùi hôi của rác rồi trải tấm vải sạch lên nằm, thế mà đã hơn 20 năm rồi!
- Sao bà không thay chiếc giường mới ngủ cho sướng?
- Thôi, cái gì thay cũng được, nhưng chiếc giường này có mùi quen rồi... bà ngủ vậy cũng được con, mình chỉ cần một chỗ nhỏ thôi, nhắm mắt lại chả thấy gì nữa, cần gì xấu với đẹp!
Chị kể lể với mẹ:
-Căn nhà của tụi con ở rộng rãi, một mình con phải làm vệ sinh từ tầng trên xuống dưới mỗi vài ba ngày một lần, anh Chen rất sạch sẽ, kỹ tính, không muốn ai đến nhà chơi cả, mất công họ đem giầy dép vào dơ nhà, mình lại khó nói. Ngay cả ba mẹ ảnh muốn đến ở với chúng con cũng không được ảnh tán thành vì ảnh nói ba mẹ ảnh vô ở rồi sau này con cũng sẽ lấy cớ đó đem mẹ về nuôi! ảnh không muốn con bé sẽ bị ảnh hưởng của sự dậy dỗ cổ xưa của ông bà nội, ngoại; rồi vợ chồng con lỡ khi canh không lành cơm không ngọt thì ông bà lại tham dự vào khuyên răn... từ từ sẽ mất lòng nhau, chi bằng cứ ở xa, khi rảnh đến thăm nhau là được.
Tôi thấy sự hy vọng sẽ rời khỏi cái ấp cũ kỹ này của bà Sáu đã tan biến, khuôn mặt đang tươi vui của bà bỗng chốc thất vọng, tối sầm lại, bà chỉ có một đứa con gái, tất cả đều đặt hy vọng vào nó, sướng khổ gì cũng vì nó. Chỉ một vài phút sau, tôi nghe bà trả lời thông cảm với chị Thương:
- Ừ tính vậy cũng phải, mẹ ở đây một mình rộng rãi, tự do lắm, ăn uống không bao nhiêu nên cũng ít tốn kém, khách khứa đến may đồ hoài, quen rồi cũng vui... Nếu về đàng nhà con thì mẹ sẽ không có gì làm chắc buồn lắm! Thôi không sao... con cứ lấy trái cây trong tủ lạnh về cho cháu bé ăn... Con cũng không đi làm nữa, vậy cầm ít tiền mà mẹ đi làm và làm thêm ban đêm mà dùng nghe, mua đồ mới cho cháu đi học...
- Mẹ! mẹ cũng phải giữ mà dùng chứ, sao cho con nhiều thế?
- Mẹ có cần mua bán gì đâu, mẹ đầy đủ hết rồi, đồ đạc mới cũng chẳng cần mua thêm, cho con tiền, mẹ sẽ làm ra tiền khác, có gì đâu mà lo. Còn con nào là tiền ăn, tiền điện nước, lo cho con bé đi học, mua sách vở mỗi năm cho con bé, dùng nhiều thứ lắm, chả lẽ cứ xòe tay xin tiền của chồng hoài, người ta khinh cho.
Chị ôm lấy mẹ, nước mắt ngắn dài:
- Con cám ơn mẹ đã hiểu cho con, mẹ đã không trách con không đón mẹ về ở chung mà còn cho con và cháu tiền bạc nữa, những đồng tiền này con biết mẹ làm lụng khổ sở, rất nhiều công sức, mẹ cho con cho cháu rồi sau này lỡ cần thì sao hả mẹ?
- Ôi con không lo đâu, trời sanh trời dưỡng mà, về đi... yên tâm sống và nuôi con cho thành người là trả hiếu cho mẹ rồi.
Bà xua tay làm dấu cho con gái và cháu ngoại mau mau ra cửa, để khi khép cửa lại sau lưng, tôi thấy bà còng lưng ôm lấy ngực ho xù xụ như bù lại mấy tiếng đồng hồ vừa qua bà đã cố nín! Thấy tôi ngồi yên nơi bàn, nghe hết chuyện, bà phân trần:
- Hứa với bác con không được nói gì với con Thương nghe không, bác biết nó có nỗi khổ riêng của nó mà, chồng nó là người Hoa, không muốn vợ mình đi làm vì tính hay ghen bóng ghen gió, muốn nó ở nhà làm việc nội trợ, trông con. Những công việc không tên thì nhiều vô số, bác không muốn đến nó ở lại làm vợ chồng nó cắn đắng vì mình, chồng nó đã từ chối ba mẹ ruột của chính mình rồi, thì làm sao có thể chấp nhận người mẹ vợ này nữa chứ! Thôi kệ, mỗi người một kiếp con à...
Tuy nói thế nhưng bà vẫn không thể nào xóa được nỗi buồn, sự tủi hờn cho hoàn cảnh cô đơn của mình. Bà lẳng lặng đi làm, trầm ngâm suy nghĩ, ít ăn, thi thoảng lại thấy bà gục đầu trên bàn máy tủi thân từng giọt nước mắt lã chã ướt cả cái mặt bàn; sự buồn khổ và chán nản về cuộc đời âm ỷ làm bà bị bệnh trầm cảm, tự giấu mình trong nhà, không muốn gặp ai, từ chối nhận đồ may, ngay cả với tôi mỗi lần đến thăm đem đồ ăn ngon cho bà.
Tôi phải vào ngồi nói chuyện với bà rất nhiều để dụ bà cùng ăn cơm với tôi, tiếng ho của bà không còn trong trẻo như xưa mà ngày càng dầy đục, bà than mệt đau ngực và không muốn ăn cơm.
Chị Thương vẫn sống một cuộc sống nhẹ nhàng bên chồng con chẳng hề hay biết mẹ mình đang mang bệnh phổi nặng và trầm cảm.
***
Cho đến một hôm tôi đang ngủ, khoảng 2 giờ sáng, nghe tiếng ồn ào la ó chói tai vọng vào; bật dậy, thấy mấy chiếc xe cảnh sát và xe ambulance bật đèn xanh đỏ nhấp nháy ở tầng đất, dân chúng bu quanh, đang chưa hiểu chuyện gì xảy ra, đã thấy ở căn ấp đối diện, một cô cảnh sát đang dìu bà Sáu đầu tóc rối bời bước ra khỏi nhà. Tôi hốt hoảng, xỏ đại đôi giày chạy qua hỏi người cảnh sát:
- Sao... cô lại bắt bà về đồn vậy?
- Cô là ai? Có quan hệ gì với bà này?
- Tôi xin lỗi, tôi là người hàng xóm thân nhất của bà, xin cô hãy cho tôi biết có chuyện gì được không?
- Bà này có con cái hay người thân gì không?... Cô hãy theo tôi về nhà thương cái đã!
Tôi theo xe cảnh sát đi như cái máy, lo lắng hỏi lại:
- Về nhà thương? Tại sao?
- Bà đã leo lên thành lan can, muốn tự vẫn!
Tôi hốt hoảng, chưng hửng, dựng cả tóc gáy, chưa tin vào đôi tai mình, lắp bắp:
- Bà Sáu... bà Sáu muốn nhảy lầu tự tử sao?
- Phải rồi, may mà có người thấy gọi chúng tôi đến kịp thời... Tôi nghĩ bả bị bệnh, nên bây giờ tất cả chúng tôi muốn đưa bà vào bệnh viện rồi hạ hồi phân giải!
Tôi theo vào ngồi phía sau xe ambulance cùng với bà Sáu, nhìn bà thật thảm hại, cái búi tóc thường ngày cuộn gọn ghẽ sau ót, nay rối bời thành một mảng, cặp mắt cụp xuống tránh tia nhìn mọi người, như một đứa con nít làm lỗi, sợ bị la mắng; một tràng ho như xé phổi vang lên, bà mệt lả quẹo đầu sang một bên, tôi gọi nhỏ:
- Bác Sáu! Bác Sáu! Nghe cháu nói không?
Bà ngẩng đầu lên nhìn tôi, cặp mắt ngây dại:
- Tôi đang ở đâu vậy?
- Con sẽ đưa bác vào bệnh viện...
- Tôi không muốn sống nữa, tôi làm phiền con cái quá, nếu không có tôi thì cuộc đời nó sẽ nhẹ gánh hơn rồi, vì tôi mà con tôi cứ phải bận rộn... Tôi chỉ muốn chết thôi...
Rồi bà hét lên bất thình lình:
- Không! không! tôi không có bệnh gì hết, tôi không vào bệnh viện đâu!... Đừng nói gì cho con gái tôi biết nhé, tôi van lạy mọi người đừng nói gì cho con tôi biết cả, hãy để cho nó sống yên lành, đừng xáo trộn cuộc sống của nó! Tôi chịu được mà...
Bà vồ lấy tôi, cong người dưới chân:
- Con... hứa với bác, khi bác hấp hối, hãy để bác ra đi, đừng gọi bác sĩ, đừng gọi xe cứu thương, bác sống đã đủ rồi, bác không cần ai đưa mình sau quan tài đâu... Sống còn không muốn thấy mặt nhau thì khi chết cần gì thăm hỏi!... Hãy thiêu bác rồi rải tro ra ngoài biển để cho bác trở về với cát bụi nhe...
Nói một lúc rồi mệt quá, bà xỉu trên vai tôi.
Một bác sĩ tâm lý đã nói với tôi:
- Có những người mẹ sống hết lòng vì con cái một cách thái quá, cả đời hy sinh nuôi con ăn học, dựng vợ gả chồng rồi lo lắng luôn cả hạnh phúc tương lai của chúng; lo sợ mình là gánh nặng, gây phiền phức cho con cái, ít tiếp xúc với bạn bè, nên lâm vào bệnh trầm cảm lúc nào không hay. Chỉ có một cách chữa trị duy nhất là người thân phải ở gần bà trong mọi sinh hoạt thường ngày thì mới giúp bà khỏi bệnh trầm cảm này; nhưng có vẻ đây là một đòi hỏi khó thực hiện!
Sau khi chẩn đoán, nhà thương đã giữ bà Sáu lại vì ngoài bệnh trầm cảm ra, bà còn bị ung thư phổi nặng nữa. Tôi bắt buộc không thể giấu chị Thương, và gọi chị vào để gặp bà.
***
Bà Sáu cuộn mình ngồi im trong góc phòng của nhà thương, bà không muốn uống thuốc cũng chẳng muốn ăn hoặc nói chuyện, gặp ai bà cũng la hét đuổi thẳng tay:
- Cút hết ra đi! Tôi không cần ai chăm sóc cả, tôi không có bệnh gì hết, hãy để tôi về nhà, tôi phải may áo vì đến ngày giao rồi...
Bỗng nhiên, bà đứng dậy ném hết những đồ đạc xung quanh xuống đất; bà chỉ nhẹ nhàng và chẩy nước mắt khi gặp chị Thương vào thăm bà mà thôi.
Chị Thương đã theo chồng từ 10 năm nay, chỉ về nhà thăm mẹ khi anh Chen cho phép, nay vì bà bệnh nặng, chị bỏ mọi công việc nhà đến chăm sóc cho mẹ ở bệnh viện từ sáng sớm đến tối mịt thì bị chồng nhiếc mắng, không vừa lòng mỗi khi về nhà trễ không có cơm sẵn. Cuộc sống gia đình trở nên nặng nề khó sống, cho đến một ngày chồng chị bỗng gằn giọng:
- Một là chọn gia đình này, hai là chọn mẹ, nếu em cứ suốt ngày vào nhà thương chăm sóc bà, bỏ bê gia đình này thì hãy ký vào đơn ly dị đi!
Chị tưởng anh nói chơi, nhưng không! khuôn mặt anh thật lạnh lùng, anh không hiểu lòng chị đang xáo trộn như thế nào sao! Vào hoàn cảnh khó khăn mới biết lòng người, anh là người chồng ích kỷ, chỉ muốn vợ phải hầu hạ mình, chứ không hề đếm xỉa đến gia đình cô ta có hoàn cảnh sống ra sao. Chị đau buồn không muốn to tiếng làm gì nữa vì đã quá hiểu con người của anh qua 10 năm chung sống; lẳng lặng ký vào đơn ly dị và dắt con gái ra khỏi nhà, đến thẳng nhà thương với mẹ.
Chị ôm mẹ khóc:
- Mẹ ơi, hãy tha lỗi cho con, hãy thứ lỗi cho đứa con gái ngu muội bất hiếu này, bây giờ con mới hiểu cuộc đời ra sao, chồng có thể lấy người khác, nhưng mẹ thì chỉ có một trên cõi đời này mà thôi! Tại sao con lại nhìn không ra để đến bây giờ mẹ ra nông nỗi này. Con thật bất hiếu! Xin lỗi mẹ!
Từ hôm ấy, chị ở trong nhà thương giúp đỡ mẹ ăn uống, làm vệ sinh, dìu mẹ ra sân sau của bệnh viện ngắm cảnh, tắm nắng; hai mẹ con có dịp tâm sự thật nhiều chuyện. Dần dần bà bớt bệnh trầm cảm, nhưng bệnh ung phổi của bà ngày càng khó chữa. Bác sĩ nói bà không chữa trị từ cả 20 năm nay mà sống được đến bây giờ thì thật là một phép màu!
Bà đau đớn mỗi lần ho, cả người quắp lại, khuôn mặt nhăn nhúm, nước mắt nước mũi ràn rụa làm chị cũng không thể nào chịu đựng nổi, ôm lấy bà như sẵn sàng gánh bớt sự dầy vò ấy.
Bà thều thào nói với chị trong hơi thở:
- Nếu cuộc sống này thật đẹp, có chất lượng thì sống lâu để hưởng đời, còn nếu khó khăn đau đớn quá, mẹ xin chọn cách ngừng lại đây! Nếu có sống thêm vài ba năm nữa cũng chỉ làm cho các con khổ sở lo lắng thêm cho mẹ, không những vậy, mẹ cũng hành hạ chính bản thân mình. Còn nếu mẹ dừng ở đây thì tất cả như được giải thoát thật nhẹ nhàng.
- Không đâu, mẹ không hề làm phiền gì con cả, con tự nguyện đến chăm sóc và ở bên mẹ mà, nếu không có mẹ, con sẽ rất buồn, rất đau khổ... Mẹ còn trẻ, họ sẽ làm hóa trị cho mẹ, mẹ sẽ khỏi... Mẹ đừng bỏ chúng con!
- Mẹ biết... mẹ sống không lâu nữa, sống đau đớn chịu đựng dằn vặt như thế thì làm sao vui? Hãy hiểu cho mẹ, cho mẹ xin lỗi con và cháu Thi, hãy để mẹ ngưng không chữa trị ung thư phổi nữa nhé... Mẹ xin con! Mẹ cầu xin con...
Chưa nói hết bà đã gục đầu ho, cơn đau xé lồng ngực làm bà ngất xỉu, chị Thương phải gọi bác sĩ chích “morphine” cho bà bớt đau. Để bà nằm trong phòng bệnh, chị ra ngoài cửa gục đầu vào lan can một mình nức nở khóc cho vơi nỗi niềm, thương cho cuộc đời không may của mẹ con mình, buồn cho đời vô thường quá!
Chị mong sẽ nối nghiệp mẹ, sẽ nuôi con khôn lớn như mẹ đã từng hy sinh vì hạnh phúc của chị, chị sẽ có những người bạn tốt để tâm sự, giúp đỡ, cổ vũ nhau vươn lên, chị sẽ để con gái sống cuộc đời của nó, sẽ là người bạn thân, nhưng không mong về ở chung với con khi nó lập gia đình, chị muốn có một cuộc sống độc lập của riêng mình.
Càng sống chị càng thấy cuộc đời này như đã được sắp đặt trước, sống chết chỉ cách nhau một ranh giới mỏng manh, có ai bảo chết là hết?
Chị sẽ phải chấp nhận sự quyết định của mẹ, để mẹ được giải thoát, ra đi trong thanh thản, an lành!
Sống chết cận kề trong phút giây
Ngay trong hơi thở, trút thân này!
Quay về Chánh niệm tan niềm tục
Lòng nhẹ nhàng vui trước đổi thay
(Thích Tánh Tuệ)
Sỏi Ngọc
Tháng Mười - 2024
Lòng Mẹ - Y Vân
Trình bày : Hương Lan, Khánh Hà, Ý Lan, Hương Thủy, Băng Tâm, Châu Ngọc Hà
Gửi: Thu Dec 19, 2024 3:09 pm Tiêu đề: Năm Mươi Năm - Vết Thăng Trầm - Sỏi Ngọc
Năm Mươi Năm - Vết Thăng Trầm - Sỏi Ngọc
Mai Hữu Thọ chọn ảnh minh họa
Chân dung tác giả Sỏi Ngọc (Ngọc Huyền)
Năm Mươi Năm - Vết Thăng Trầm
Sỏi Ngọc
(Phú Lan sưu tầm)
... Đi sao nặng nề kiếp người nhỏ bé.
Xa xăm ngọn cờ quê nhà vắng gió.
Tôi không kẻ thù nên đau từ độ.
Tóc úa là nhờ những tháng âu lo...
(Bay đi thầm lặng- Trịnh Công Sơn)
Phi trường Minneapolis-Saint Paul international Airport (MSP) thuộc bang Minnesota Hoa Kỳ, nơi đây nổi tiếng với việc tích hợp nghệ thuật công cộng vào không gian sân bay; có nhiều tác phẩm nghệ thuật độc đáo, từ tranh vẽ đến điêu khắc, được trưng bày ở nhiều khu vực của sân bay. Tôi rảo bước ngắm từng góc cạnh của mỗi bức tranh với cách dậm màu, nét vẽ và bố cục của từng bức sao cho mau hết thì giờ chờ đợi vào máy bay. Tôi và chồng sẽ đi nghỉ hè hai tuần trên tàu du lịch Celebrity Millenium mà điểm đến chính là xứ Phù Tang, xứ này nằm ở phía đông của thế giới, nơi mặt trời mọc.
Từ lúc bé tôi thường lấy vải màn quấn giả làm áo kimono của Nhật, lấy khăn san của mẹ làm giải quấn chung quanh eo và thắt chiếc nơ thật to sau lưng, tóc búi cao, rồi đi đôi guốc cao gót của mẹ, tay cầm chiếc quạt nhỏ phe phẩy, thế là thành cô geisha Nhật chính hiệu. Sau khi lập gia đình, lo cho các con học hành nên người, tôi cùng chồng thực hiện giấc mơ của mình là đi đến đất nước ở phương Đông ấy!
Nhưng trước khi lên tàu phiêu du hai tuần, tôi muốn đến Tokyo trước một tuần để thăm tất cả những nơi đã từng mê hoặc tôi, đã từng làm trái tim tôi thổn thức mỗi lần nghĩ tới, tôi đã thuyết phục chồng đến Tokyo và tự mình thực hiện tìm tòi đi thăm những chùa chiền, cung điện, bảo tàng bằng bus, metro tại nơi này.
Bước chân tôi dừng lại khi chạm trán với một người đi ngược hướng tôi đang ngắm những bức tranh trên tường ở phi trường MSP. Một người phụ nữ với mùi nước hoa tỏa thơm ngát, mái tóc cắt cao rất model, khuôn mặt hơi lớn tuổi nhưng còn giữ nét tươi tắn sang trọng, tôi nghĩ chắc hồi trẻ chị phải là một người đẹp lắm. Chị nhìn chằm chặp vào tôi một lúc khá lâu, bỗng nhiên reo lên vui mừng:
- Em Trúc Nghi phải không?... Chị là chị Xuân Thu, chị của Cẩm Tú đây! Hồi xưa em thường hay đến nhà chơi với Cẩm Tú, ở lại nhà chị làm bánh, nấu chè, nướng bắp với tụi chị đến chiều mới về đó em nhớ không?
Tôi yên lặng ngắm nhìn và cố nhớ lại thuở ngày xưa... cách đây trên 40 năm, từ ngày tôi bỏ nước ra đi...
Tôi nhớ lại vào những năm 1975, khi miền Nam bị mất đi nền hòa bình dưới thời Cộng Hòa, những trường Tây bị giải thể, những giáo viên ngoại quốc bị ép đi về nước, các trường cùng loại được ngành giáo dục XHCN tập họp lại nhau, như Marie-Curie, Regina Pacis, Lê Quý Đôn, Bác Ái, Thiên Phước, Couvent Des Oiseaux Dalat là những trường bị giải thể, các học sinh sẽ phải tụ vào trường Regina Mundi tức là Couvent des Oiseaux trên đường Công Lý Saigon. Nơi đây Cẩm Tú và tôi quen nhau.
Đến lượt tôi mừng rỡ la lên:
- Oh phải rồi... Chị Xuân Thu, chị của Cẩm Tú đây sao? Chị thay đổi đến nỗi em không nhận ra nữa... Nếu chị không nhận ra em thì em sẽ không bao giờ biết đây là chị! Chị giống như một mệnh phụ đài các, rất “mode” đó nhe!
- Đã hơn 40 năm em ở nước ngoài, từ 1985 đến nay rồi còn gì! Em và Cẩm Tú bắt đầu chơi với nhau sau 1975 khi các trường ở miền Nam bị giải thể, các em mới vào học chung Couvent... Cẩm Tú từ Bác Ái, còn em từ Marie Curie em nhớ không?
- Vâng ạ! Thời gian nhanh quá, thế mà đã nửa thế kỷ rồi!... Chị bây giờ làm gì? ở đâu?
- Chị trở về lại Tokyo, chị mới từ Mỹ thăm gia đình Cẩm Tú.
- Chị ở Tokyo sao?
- Phải!... tại sao?
- Em sẽ đến Tokyo một tuần để đi ngắm cảnh đó! Em mê Tokyo vì những thắng cảnh và cả xứ Phù Tang ấy qua sách vở đã đọc qua... Bây giờ phải yêu luôn con người họ vì có chị Xuân Thu đây!
- Em tôi nói ngọt ghê nơi nhe!... Em nói đúng, chị ở Nhật từ cuối 1985, sau ngày em đi không bao lâu thì chị vượt biên trót lọt, lần thứ 13 đó em!... chị rất mang ơn xứ này, cả dân tình nữa. Từ từ chị sẽ kể em nghe về cuộc đời thăng trầm của chị.
**
Tôi nhớ chị vượt biên mãi như đi chợ vào những năm 1980 vẫn không thoát, bị bắt nhốt hoài, gia đình phải chạy tiền chị mới ra khỏi tù được, ba mẹ chị mỗi lần gặp tôi đều than thở là nghèo vì chị. Còn Cẩm Tú thì may mắn hơn, đi có một lần vào 1981 là thoát đến Malaysia, rồi được định cư ở Mỹ. Sau đó, mỗi đứa chúng tôi bận xây dựng cuộc sống ban đầu ở nơi mới đến, nên không liên lạc với nhau một thời gian khá dài, đến khi có thì giờ để nghĩ tới nhau thì không biết nơi đâu mà tìm!
Giọng chị đều đều kể cho tôi nghe:
- Lần vượt biên thứ 13, chiếc thuyền bé nhỏ mong manh chỉ có 25 người, khi ra ngoài khơi gió mạnh mới biết là mình quá liều lĩnh, mỗi cơn sóng đến là cả thuyền chong chanh, nâng lên thụp xuống theo từng nhịp sóng, nhất là buổi tối đen đặc, nước cũng màu đen tuyền, chỉ có ánh trăng và những ngôi sao trên trời làm đèn rọi đường cho mình đi thôi. Lúc ấy nửa mong được tàu vớt, mà nửa thì sợ tàu ấy là hải tặc thì chỉ có chết mà thôi. Đến ngày thứ năm thì cả tàu không còn đồ ăn nữa, lạnh và đói nên mọi người mới quyết định là cứ gặp tàu là vẫy xin cứu, chứ nếu liều tự mình đi thì không biết có đến nơi được hay không, hay nửa đường sẽ bị sóng đánh cho chìm. Cả tàu ai cũng lâm râm khấn vái, người khấn Phật Bà kẻ cầu cứu Đức Chúa, đức Mẹ Maria.
Chiếc tàu chở hàng đầu tiên mà tụi này gặp ở tít đàng xa với lá cờ Nhật Bản, ai nấy đều vui mừng khôn xiết, kẻ bị bệnh ói mửa, sốt nóng, tưởng sẽ chết cũng tỉnh dậy nữa, bởi vậy mới nói sự hy vọng cho người ta niềm tin vào sự sống. Tàu Nhật đã cứu bằng cách cung cấp lương thực, nước uống và thuốc men khẩn cấp, rồi cho tụi chị tỵ nạn ở nước họ, một số có thân nhân ở các nước khác thì họ liên hệ với các tổ chức cứu trợ quốc tế như Cao Ùy liên hợp quốc về người tỵ nạn (UNHCR) để đưa họ đến nơi mong muốn.
Lẽ ra chị định sang Mỹ với Cẩm Tú, nhưng lúc ấy có một công ty Nhật đến nơi tụi chị ở tạm, ra thông báo tuyển công nhân cho nhiều ngành tay chân khác nhau, nếu muốn thì ký tên vào một tờ đơn, họ làm thủ tục cho mình định cư luôn lúc đó. Chị nghĩ nếu qua Mỹ phải đi tìm việc làm sẽ rất lâu, mà ở nhà ba mẹ đã cạn tiền, họ đang chờ nguồn tài chánh từ chị để sống, nên chị đã quyết định ở lại Tokyo từ đó.
Lúc đầu chính phủ cấp cho mình một căn hộ nhỏ, họ tạo điều kiện cho mình đi học tiếng bản xứ chừng 5 tiếng một ngày, kế đó liên lạc với nhóm người trong khu mình ở, họ sẽ chỉ cho mình những công việc chân tay như lặt rau, bóc vỏ tôm, hoặc làm việc trong các kho hàng như sắp xếp, kiểm tra, đóng gói, bốc dỡ hàng hóa, quản lý v... v... không cần học vấn cao, chỉ cần tỉ mỉ, kiên nhẫn và tập trung cao thôi.
Được một tháng làm việc, một hôm chị chủ nhóm tuyển chọn một người có kinh nghiệm may, giúp người thợ chính chuyên nghiệp may đồng phục cho công nhân, chị được chỉ định đến giúp ngay hôm sau, ai ngờ chị thợ may chính ấy lại bị bệnh bất ngờ không đến làm được, thế là chị là người thợ bất đắc dĩ ngồi vào chiếc ghế ấy, mà em biết đó ở Việt Nam chị đã từng may đồ mặc ở nhà rồi, nên chị biết cách ráp những phần rời đã được may vào với nhau; người manager thấy chị làm bộ đồng phục đầu tiên đạt quá, nên giữ chị lại làm luôn từ đó.
Đúng là hoàn cảnh tạo anh hùng em ạ, chị không bao giờ nghĩ mình sẽ làm nghề may, nhưng vào hoàn cảnh đó nếu không may thì không biết phải làm nghề gì để nuôi thân và gởi tiền về cho gia đình còn kẹt lại bên nhà để sống. Nhờ tính chăm chỉ và sự luyện tập nên từ từ chị ra riêng sau một năm rưỡi làm cho họ. Chị mở tiệm may đồ, may luôn cả kimono.
Khách đến ai cũng nói tiếng Nhật với chị cả, họ tưởng chị là người Nhật chính cống, chị đã cố gắng may theo yêu cầu của mỗi vị khách, từ hàng chợ rất đơn giản cho đến những cái rất kỳ công để họ mặc khi tiếp khách.
Em hỏi chị đang làm gì? chị muốn nói là chị đang có một tiệm may kimono với hai công nhân người bản xứ giúp chị, họ sẽ may tại chỗ khi có khách đặt... Nhà chị ở ngay trung tâm Tokyo, gần chợ búa, khu vui chơi giải trí... Kỳ này em nhớ ghé chị chơi cho biết nhà nhé.
Đúng là trái đất thật nhỏ bé, tôi vui mừng gặp lại chị Xuân Thu sau 40 năm, tôi mong được nghe lại giọng nói líu lo của Cẩm Tú sau khi đi thăm nước Nhật về; hai đứa sẽ có nhiều điều kể cho nhau nghe lắm đây.
* *
Cửa tiệm may của chị Xuân Thu nằm ngay trung tâm Tokyo, con đường Shibuya sầm uất với rất nhiều tiệm ăn uống, mỹ phẩm, quán bar... Tiệm áo Kimono của chị dưới tên Arigato (cám ơn) có một không hai trên cả khu vực ấy. Chị nhận may đủ loại âu phục nam nữ, trẻ em và cho mướn áo Kimono mặc trong nửa ngày với giá không mắc lắm nên khách ra vào tấp nập đặc biệt là các du khách ngoại quốc. Bên cạnh tiệm may của chị, có một quán phở và những món ăn thuần túy Việt Nam như bún bò huế cuối tuần, bún thịt nướng..., một tiệm nail, một tiệm mỹ phẩm, tiệm cắt tóc nam nữ... Tất cả những tiệm này được mở san sát nhau cho thấy một cộng đồng Việt đang tiếp tục phát triển từ 50 năm tại đây. Chị hào hứng nói với tôi:
- Gặp người đồng hương mừng lắm em, nhất là những người mới qua sau này, cho mình biết tin quê hương mình bây giờ ra sao. Đã lâu chị đã không về thăm đất nước từ ngày vượt biên, nhưng cha mẹ chị vẫn ở đó, vì lớn tuổi và ngại đến một đất nước mới nên không chịu bỏ nơi chôn nhau cắt rốn.
- Người Việt mình tập trung khu này thôi hả chị?
- Tokyo là nhiều nhất rồi đó, họ cũng sống rải rác ở khắp nước Nhật, ở Osaka, Nagoya v...v... Em biết dân Việt mình ở Nhật vào khoảng 500 ngàn người, đông nhất, sau Mỹ mà thôi. Đi đến đâu với sự chăm chỉ, kiên nhẫn, dân mình đều vượt lên hàng đầu và thành công. Nói không phải khoe chứ Cẩm Tú ở Mỹ cũng đóng góp công sức rất nhiều vào cộng đồng người Việt bên ấy, gìn giữ truyền thống văn hóa Việt Nam, cô nàng cũng giữ một chức không nhỏ trong cộng đồng bên ấy... Đúng là không làm hổ thẹn người Việt mình dưới cái nhìn của người bản xứ.
- Dạ chị! 50 năm nhìn lại bạn bè, người quen, gia đình, ai nấy cũng có một tương lai thật tốt, thế hệ thứ hai thứ ba đang sinh sôi nẩy nở, chúng sẽ được đào tạo ngay từ lúc bé, được hưởng nền giáo dục tốt, mở mang tri thức về nhân cách sống của nước sở tại, ví dụ như nước Nhật dậy con trẻ ngay từ khi mới lọt lòng tinh thần dân tộc cao độ, nước Mỹ dậy cho bọn trẻ phải tự lập, vươn lên từ lúc mới vào nhà trẻ; các cô giáo uốn nắn, răn đe đứa trẻ khi phát hiện những hành vi xấu như ăn cắp, ăn hiếp kẻ yếu thế, không nhân nhượng cho chúng từ lúc biêt ý thức, nên những đứa trẻ lớn lên chỉ mang trong đầu sự giúp đỡ, chia sẻ lẫn nhau và sự lương thiện. Tuy nhiên trong một xã hội thành phần xấu, bất hảo cũng có, nhưng đó chỉ là thiểu số... Chị đã lập gia đình chưa? Sao em không thấy mấy cháu nhỏ?
- Các anh chàng Nhật rất thích những cô gái Việt, nhưng vào thời đó, chị đã có ý trung nhân từ quê nhà nên từ chối các chàng trai Nhật Bản.
- Ảnh có ở đây không cho em gặp để chào?
-... Anh đã đi vượt biên sau chị một năm, chuyến tàu ấy không bao giờ cập bến, cũng không nghe ai nói về chuyến đi ấy cả! Chị đã đi hỏi thăm rất nhiều nhưng đều không có câu trả lời... Chị vẫn chờ đợi mãi, cho đến ngày hôm nay, chị vẫn phòng không chiếc bóng...
- Oh em xin lỗi chị đã nhắc lại chuyện buồn... Rồi chị ở vậy luôn sao?
- Chị nghĩ sẽ ở vậy luôn, vì chị chẳng thể yêu ai được nữa, chị lo lắng cho chuyến đi của người yêu, chị vẫn mong chờ cứ ngỡ như anh ấy rời đi mới hôm qua... Chị không thể hưởng hạnh phúc khi nghĩ đến ảnh vì mình mà bỏ quê hương, hy sinh tính mạng, chị cảm thấy tội lỗi lắm...
Chị xúc động, hai hàng nước mắt chảy dài xuống má. Tôi ôm chị vào lòng:
- Hãy sống cho cuộc sống hiện tại của chị, chuyện gì qua hãy để nó qua đi, anh ấy có thể đang sống ở một nơi nào đó rất bình an, hơn nơi đây đó chị.
- Nhưng chị vẫn nghĩ về ảnh, ảnh vì chị mới đóng ghe, rủ bạn bè đi chung. Có ai ngờ cuộc đời lại ngắn ngủi như vậy! Nếu ảnh ở lại quê nhà thì chắc bây giờ đã lập gia đình có con cháu đầy đàn rồi. Chị sẽ không ân hận, chị sẽ yên tâm sống cuộc đời riêng của chị, không cứ gì mình phải lấy nhau mới được, em hiểu không?
- Mỗi người có một số phận, không thể biết trước được đâu! Với lại không phải chỉ riêng mình chị gặp nghịch cảnh như thế đâu, sau 1975 rất nhiều người miền Nam bị lạc cha mẹ, vợ chồng, anh em, có kẻ bị chết trên biển khi chưa tìm được sự tự do nữa...
Một cậu bé da đen chạy ào vào làm ngưng cuộc nói chuyện của chúng tôi:
- Mẹ ơi, con...
Thấy tôi, cậu bé mở to cặp mắt nhìn, cúi đầu chào bằng tiếng Việt rất sõi:
- Con chào cô.
Chị Xuân Thu ôm cậu bé vào lòng, giải thích với tôi:
- Đây là Michael, cậu bé này chị gặp lang thang trong các chợ, tối ngủ trong các công viên, dưới gầm cầu thấy thương lắm, chị cứ tưởng là thành phần bất hảo của xã hội Nhật, nhưng một ngày chị đi công chuyện về đêm, trời mưa trơn trợt, không mang theo dù... nếu không nhờ cậu bé này đỡ khi chị xuýt té, cho chị mượn cây dù thì chị đã bị đo ván, gãy vài cái xương sườn rồi. Chị nghĩ đây chính là nhân duyên nên đã nhận cậu bé này là con nuôi. Nó giúp chị đủ thứ việc trong ngoài như giao hàng cho khách, nhận điện thoại, mở hàng... Bên cạnh đó chị rất vui khi có cháu ở bên cạnh, hai mẹ con có cơm ăn cơm, có cháo ăn cháo!
- Vậy cuộc sống chị cũng tạm ổn rồi.
Nhật Bản giống như ở Việt Nam, căn nhà của chị có hai tầng, chị mở cửa tiệm bán hàng bên dưới, bên trên ở, nên rất tiện cho việc nghỉ ngơi, ăn uống, không cần phải đi xa.
Qua hôm sau, chị để cửa hàng cho nhân viên trông, dành một ngày dắt tôi đi thăm thắng cảnh, chùa chiền ở Nhật, nếm những món sushi hải sản đặc biệt thật ngon. Đi đến đâu, tôi cũng thấy người dân thật lịch sự, cung kính chào hỏi luôn miệng, khi thối tiền thì đưa trả lại bằng hai tay trên một chiếc đĩa nhỏ chứ không trực tiếp đưa tiền vào lòng bàn tay mình như ở những xứ khác. Khi đi ngang qua những người công nhân làm cầu cống, họ cũng gập đầu chào khách du lịch, tỏ vẻ kính trọng, tôi vừa ngạc nhiên lẫn cảm động thấy thái độ họ quá cung kính.
Người dân Việt trên đất nước Nhật học những điều tốt tương tự như người Nhật, họ lễ độ hơn, biết nói những lời “xin lỗi, cám ơn” thay vì chỉ biết kiếm lợi nhuận. Khi tôi vào mua cái cắm điện cho phù hợp với dòng điện bên Nhật, người chủ bán hàng là một người Việt Nam, anh ta cho tôi biết là cái họ bán không dùng được cho iphone của tôi, và chỉ cho tôi cửa tiệm trên khu phố khác có bán cái tôi cần, họ còn lên mạng tìm kiếm dùm địa chỉ và chỉ đường cho tôi tới đó.
Sau 50 năm, đi khắp nơi trên thế giới, tôi nhận xét: dân Việt sống nơi nào, hợp với hoàn cảnh nơi đó, học được những điều hay, tốt; tôi cảm thấy hình như người Việt phát triển theo hướng tích cực khi xa xứ hơn là ở chính trên quê hương mình! Ông cha ta có câu ca dao tục ngữ “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng” quả là đúng quá!
**
Chúng tôi vào thăm một ngôi chùa ở ngoại ô Tokyo, nơi đây trồng tất cả những cây xanh mà xứ sở Nhật có, một khu vườn to rộng lớn; đàng sau ngôi chùa có một rừng tre cao vút xanh rì thật đẹp, người làm phận sự tưới cây, săn sóc cho ngôi chùa thật khang trang sạch sẽ là một gia đình Nhật Bản, người phụ nữ có nụ cười trong sáng, khiêm tốn. Cô ta nói với tôi:
- Những người lãnh đạo ở địa phương này đã giành ra một số tiền để gia đình chúng tôi ở lại phía sau chùa, chăm sóc hương khói, quét tước, mặc dù số tiền ấy không đủ trang trải sinh hoạt của gia đình, nhưng tôi cũng không đòi hỏi hơn vì lẽ ra mình phải có phận sự đóng góp công sức với quốc gia mình đang sống, chứ lẽ nào đòi thêm lương nữa!
Nghe cô tâm sự mà tôi thấy thật thán phục cho người bản xứ, họ là những người thật lương thiện! Tôi vội vàng lấy tiền ra, nhét vào tay cô ta nói:
- Chúng tôi muốn đóng góp chút lòng thành để cô có thể chi tiêu dễ dàng hơn trong việc sửa sang hay tu bổ một góc vườn nào đó... Xin cô hãy nhận cho, món tiền này không nhiều nhưng là tấm lòng của chúng tôi...
- Oh không đâu, không thể nào, tôi không nhận đâu, tôi đã có tiền trợ cấp hàng tháng của địa phương rồi, chồng tôi cũng mới xin được việc làm cho nhà sách gần đây, chúng tôi sẽ có thêm thu nhập, tôi cám ơn ông bà nhiều lắm, tôi không thể nhận như thế được đâu!
Cô ta nhất định từ chối món tiền của chúng tôi muốn đóng góp để giúp đỡ cho hoàn cảnh của cô.
Ngôi chùa rộng nguy nga, vợ chồng tôi và chị Xuân Thu đi vòng quanh ngắm những hòn non bộ với những chú cá Koi vàng mập óng ả bơi lội thật tự do; đầu con rạch nước xối xả đổ xuống từ nguồn nước trên núi, bên cạnh trồng những đóa sen mọc thẳng đứng vươn cao, thật thanh khiết. Tất cả những cảnh nghệ thuật này chắc chắn đều do bàn tay của hai vợ chồng người Nhật đã sáng tạo nên cho khách du lịch thập phương đến viếng.
Bỗng tiếng xe mô tô vọng lại từ cuối vườn, một người đàn ông bước xuống dắt theo một cháu bé gái chạc 12 tuổi; chúng tôi cùng lúc quay đầu lại, cô gái Nhật cười vui khi thấy anh ta và cháu bé xuất hiện, tôi nghĩ chắc là chồng con của cô ta.
Trong lúc ấy, chị Xuân Thu với đôi mắt mở thật lớn, khuôn miệng tròn há hốc ngạc nhiên đến không thốt ra lời nào. Người đàn ông cũng quay lại nhìn chị Xuân Thu, mọi thứ như đột ngột dừng lại, không một tiếng động, cả sáu người chúng tôi đứng chết trân tại chỗ, thời gian như đóng băng.
Bỗng hai dòng lệ nóng hổi chảy từ hai khóe mắt chị Xuân Thu nhỏ giọt xuống bàn tay mà chị đã không cầm được, chị đứng yên nhìn người đàn ông với tất cả trái tim và tâm hồn mà không dám mở lời, cho đến khi cô gái Nhật cất tiếng hỏi:
- Bà... bà có sao không?
Rồi quay sang chồng mình, cô ta nhẹ nhàng hỏi:
- Anh... có chuyện gì vậy?
Người đàn ông lúc ấy như choàng tỉnh từ cõi mộng, mời mọi người vào trong nhà ở cuối vườn, lấy trà xanh nóng cho chúng tôi thưởng thức, từ từ ngồi xuống, ông nhìn thật xa xăm, kể cho chúng tôi nghe cuộc hành trình đầy gian nan của chiếc thuyền khi rời khỏi quê hương thân yêu vào mùa thu 1982 để đi tìm người yêu của ông là chị Xuân Thu:
- Phải, tôi là người gốc Việt!... Tìm mãi mới được một người tài công là bạn thân của tôi, chúng tôi lúc ấy còn trẻ, chỉ là những chàng thanh niên đầy hoài bão, tình yêu, muốn làm gì là làm mà không nghĩ sâu; chiếc thuyền mong manh khi ra khỏi hải phận quốc tế chưa được bao xa đã bị sóng quật tan nát, những mảnh ván yếu ớt bị tung vỡ hết, trên thuyền cả thảy 30 người, sóng đã đem họ xuống lòng đại dương một cách nhẹ nhàng như con cá lớn nuốt một con ốc nhỏ.
Còn một mình tôi chiến đấu với sóng với cái bụng rỗng, sóng lên cao tôi trườn lên, xuống thấp tôi lại trùi theo, may mắn là tôi vẫn ôm khư khư mảnh ván thuyền mà không dám rời ra. Cứ thế tôi và mảnh gỗ cứ trôi nổi giữa lòng đại dương, lúc ban ngày trời thật nóng, đêm thì thật lạnh, tôi tưởng mình đã chết, tôi ngủ trên mảnh gỗ không biết ngày giờ nữa, mà lạ là không bị rơi ra khỏi mảnh gỗ đó, tôi nghĩ mình sẽ chết trong nay mai vì không còn sức nữa...
Cho đến một ngày, may mắn đã đến với tôi, chiếc tàu giàn khoan của Nhật Bản ra làm việc trên con đường tôi đang bị đắm, họ đã thấy tôi lúc ấy như một cái xác vật vờ, đã vớt tôi lên bờ, mà cả người tôi vẫn cứ co quắp ôm chặt mảnh gỗ đến không tháo ra được, phải gọi mấy người vào xoa bóp các cơ gân cho giãn ra, mới lấy được mảnh gỗ ra khỏi người tôi.
Tôi như người đã chết, phần sống chỉ còn 10-15%, nhờ những người bác sĩ tận tình cứu giúp, túc trực ngày đêm bên tôi, đút cho tôi từng thìa cháo, chích thuốc cho tôi hồi tỉnh. Sau hai tuần tôi đã khá hơn, nhưng trí nhớ tôi đã không có lại được ngay lúc đó. Người săn sóc tôi thật chu đáo với tất cả tâm tình chính là con gái của người làm việc trên giàn khoan đó... Chính là vợ tôi, người con gái Nhật này đây, cô ta dậy tôi tiếng Nhật, gọi tôi là Kaito, có nghĩa là biển, là người chiến đấu, nàng đã giúp tôi hồi phục trí nhớ từ từ.
Tôi mang ơn cha nàng đã cho tôi sự sống, mang ơn vợ tôi, và nước Nhật đã rất nhân đạo cứu giúp tôi và... rất nhiều thuyền nhân Việt đã đến sau đó.
Tôi nghĩ chị Xuân Thu và anh Kaito sẽ ôm lấy nhau khóc cho cuộc tương phùng đầy bất ngờ sau 40 năm. Nhưng không!... Anh vẫn ngồi yên kể như kể một chuyện tình của kẻ thứ ba, lâu lâu anh quay lại nhìn cô gái Nhật Hina đầy biết ơn và san sẻ câu chuyện của anh với nàng.
Sau đó anh quay lại nhìn chị Xuân Thu với cặp mắt tiếc nuối:
- Tất cả mọi sự đã qua, 40 năm đã thay đổi tất cả... Anh mong em thật hạnh phúc!
Không ngờ cả hai anh chị đều tỵ nạn trên nước Nhật, người sống đầu Nam, kẻ sống đầu Bắc nên không bao giờ gặp được nhau. Tôi được chứng kiến một cảnh gặp gỡ cảm động sau hơn 40 năm của chị Xuân Thu và người yêu, tôi cảm nhận được sự yêu thương, mừng vui của chị Xuân Thu hiện ra trong ánh mắt khi nhìn thấy anh Kaito hạnh phúc và trân trọng chị Hina, tuy rằng từ đây chị Xuân Thu sẽ mãi mãi không còn là người yêu của anh Kaito nữa nhưng chị sẽ vui và an tâm khi thấy người yêu của mình có cuộc sống hạnh phúc, bình an bên người vợ tốt.
Tình yêu của chị đối với anh thật quảng đại quá!
Chị Xuân Thu chẳng nói gì thêm nữa, chị không cần phải kể lể chia sẻ nỗi nhớ thương ray rứt của chị cho anh biết những ngày tháng qua chị sống ra sao. Chị chấp nhận sự thật với sự an tâm rằng chị đã không gây ra tội lỗi làm cho người yêu của mình bị chết oan trên biển cô đơn lặng lẽ vì chị. Tôi thấy chị vui ra mặt, chị không còn ấm ức áy náy về anh Kaito nữa.
Chị bắt tay bằng cả hai bàn tay mình, có lẽ là lần cuối, nói với hai vợ chồng:
- Cám ơn Hina rất nhiều đã cứu lấy anh Kaito. Cám ơn anh Kaito đã hành động rất đúng. Cầu chúc cho cả hai thật nhiều hạnh phúc, yêu thương mãi, gia đình thật nhiều bình an.
Vợ chồng tôi theo chân chị ra xe, trời đầy hơi sương lạnh của một chiều thu đầu tháng mười, từng chiếc lá vàng rơi nhẹ xào xạc trên lối đi. Chuyến đi Nhật của tôi thật ý nghĩa và có duyên lành, gặp lại chị Xuân Thu sau 40 năm, chứng kiến cảnh hội ngộ đầy bất ngờ của anh chị ấy mà tưởng chừng sẽ không bao giờ tồn tại ở trần gian này nữa.
Tôi nắm lấy bàn tay chị, nụ cười tỏa nắng ấm của chị như xóa đi tất cả mọi ưu phiền bấy lâu.
Cho dù xa nhau, nhưng không mất nhau
Cho dù gần nhau, nhưng không có được nhau
Em về với em, tôi về với tôi
Một dòng sông đi qua, có nhớ cuộc tình xa.
(Mỗi độ trăng về- Trúc Hồ)
Kể lại một câu chuyện thật trong chuyến đi đến Nhật Bản vào cuối tháng 9 vừa qua.
Gửi: Mon Jan 27, 2025 5:33 am Tiêu đề: Chả giò... ngày Tết - Sỏi Ngọc
Chả giò… ngày Tết
(Hình minh họa: You Le/Unsplash)
Chả giò... ngày Tết
Sỏi Ngọc – 19 tháng 1, 2025
(DS Cao Anh Tấn sưu tầm)
Suốt sáu năm trời làm giám đốc ngân hàng trong chi nhánh của nhà thương nhi đồng trên tổng số 32 năm sự nghiệp ngành ngân hàng là thời hoa gấm nhất của tôi, khách hàng của nhà bank là các vị bác sĩ, y tá, sinh viên thực tập, nhân viên của nhà thương, ai nấy thật dễ thương, có lòng nhân ái và rất thông cảm, nhân viên dưới quyền tôi chỉ có sáu người thôi, nhưng họ thật chăm chỉ và một lòng trung thành với tôi.
Năm nào tôi cũng đạt được chỉ tiêu là nhân viên giỏi nhất và được nhiều khách hàng quý mến nhất, tên tôi được đề trên một bảng chữ điện tử đỏ chóe khi bước vào nhà bank chính và được đăng trên báo của toàn thể ngân hàng; nên vào dịp tết Nguyên Đán mỗi năm, tôi đều nghỉ một ngày trước vào khoảng 28, 29 Tết Âm Lịch để làm 500 cuốn chả giò nhân tôm thịt cho các khách hàng quen biết và nhân viên để cám ơn họ đã chọn chỗ tôi làm dịch vụ, và đặt niềm tin vào tôi.
Tác giả trong ngày Tết. (Hình: tác giả cung cấp)
Ngày tôi đem chả giò vào nhà bank như ngày lễ hội vậy, nhân viên thì háo hức chờ đến giờ cơm trưa để được nếm thử; tôi đem theo cả nước mắm chua ngọt pha với tỏi ớt hơi cay, rau salad, dưa leo, húng cay, bún đã luộc sẵn. Nơi chúng tôi làm việc không rộng lớn lắm, nên mùi thơm không cưỡng nổi của những cuốn chả giò khi bỏ vào lò hâm bay thơm ngào ngạt cả phòng, ra đến tận quầy bên ngoài; khách người bản địa quen biết ai cũng ngừng lại trước quầy tiền của nhà bank hỏi vọng vào bằng tiếng Pháp:
-Cô LyLy hôm nay làm nem phải không? Món này là tôi thích nhất mỗi lần đi ăn ở các nhà hàng Á Đông đấy.
Những người Tây gọi chả giò là nem, tôi phải giải thích cho đúng nghĩa:
-Vâng, tôi làm chả giò... Chả giò là chiên lên với dầu, còn nem thì chỉ cuộn thịt, tôm, rau, chứ không chiên... Nếu bà thích thì chút nữa giờ cơm trưa, xin mời bà xuống cùng ăn với chúng tôi nhé.
-Ôi! Hân hạnh vậy sao, tôi không tin được nữa đó! Cám ơn cô lắm nghe, tôi sẽ phải rủ thêm bà giám đốc cửa hàng bách hóa trên lầu năm, với ông chủ tiệm bán đồ chơi con nít trước cửa nhà thương đó, họ mê đồ ăn Việt Nam lắm.
-Vậy đúng 12:00 trưa các ông bà xuống ăn với chúng tôi nhé.
Tôi chia ra những gói nhỏ mười chiếc chả giò để dành tặng riêng cho những bác sĩ, y tá, giám đốc nhà thương, ai cũng thích và họ cám ơn tôi không ngớt lời. Từ đó ai cũng biết khoảng giữa tháng một là Tết Nguyên Đán Việt Nam, họ trang trí đầy những cành mai đào mua ở chợ Tàu trong phòng làm việc như để làm vui lòng tôi. Khi đi ngang quầy két thì để trên bàn một viên kẹo giấy hoa màu đỏ tặng tôi lấy hên, không quên câu nói bằng tiếng Việt Chúc Mừng Năm Mới.
***
Ngày mồng một Tết mỗi năm, tôi đều lên tầng ba của nhà thương, nơi đây quy tụ phần lớn các em nhỏ dưới 17 tuổi bị bệnh nan y, những chiếc đầu trọc lóc, nhẵn thín, nhỏ xíu, mũi thì bị cắm dây oxy để thở, có em thì tay bị chích truyền nước biển, thuốc... nhìn cảnh các em nhỏ mà lòng se thắt vì những ánh mắt thật ngây thơ, các em vẫn sinh hoạt chơi đùa với nhau mà không hề cảm thấy đau đớn hay bị phiền lụy gì cả, chỉ có ba mẹ và người thân của các em ngồi ủ dột mà thôi. Tôi muốn lì xì cho mỗi em nhỏ $2.00 trong bao đỏ để cho các em lên tinh thần, được nhìn thấy nụ cười tươi trên khuôn mặt xanh xao và để cho tôi có cơ hội làm việc nghĩa vào đầu năm.
Sau khi chào hỏi, phân phát hết những bao lì xì đỏ cho các em xong, tôi dừng lại ở một chiếc giường của một cô bé không có người thân bên cạnh, cô bé nằm ngủ với mái tóc vàng óng ả trải trên mặt gối, khuôn mặt xinh như nàng công chúa ngủ trong rừng vậy. Tôi lại gần đặt bên cạnh gối bao lì xì, đọc tên cô bé trên tấm bảng viết trên đầu giường Nasha Kovalchuk, 7 tuổi.
Sau khi hỏi cô y tá, tôi mới biết cô bé Nasha là người tỵ nạn đến từ Ukraine mới được một tháng thôi, mẹ cô bé đã vừa chết trong một cuộc chạy trốn chiến tranh từ đất nước đao binh chết chóc ấy đến Canada, cô bé đi cùng với ba, một chiến binh được phép đảo ngũ để đưa đứa con duy nhất của mình đến nơi bình yên; vừa đến Canada chưa được bao lâu thì phát hiện ra bé bị cancer máu (leukemia)
(Hình minh họa: National Cancer Institute/Unsplash)
Tôi còn được biết hai cha con mới đến Canada nên không có insurance về sức khỏe, nhà thương đã giúp họ bằng cách lập một quỹ go fund me trên fb và website của nhà thương để kêu gọi những mạnh thường quân đóng góp tiền chữa trị cho cháu nhỏ. Số tiền cần thiết là $115,000.00 CAD.
Giờ cơm trưa chỉ một tiếng đồng hồ, tôi đã đi phân phát những bao lì xì, dừng lại nói chuyện với những cô y tá về ngày Tết cổ truyền Việt Nam ra sao, hỏi thăm các cháu nhỏ ở mỗi giường đã hết giờ; tôi bước ra khỏi nơi đó, lòng thẫn thờ, nghĩ đến cô bé Nasha mệt lả, khuôn mặt trắng xanh, với đôi mắt nhắm nghiền trên chiếc giường bệnh, không người thân bên cạnh, mẹ cô mới mất, còn cha cô chắc phải chạy đôn đáo kiếm việc để có tiền chạy chữa cho con, đến bao giờ ông mới tìm được $115k trả tiền nhà thương?
Tôi mủi lòng, nước mắt từ đâu bỗng rớt ra từ khóe mắt, tôi phải làm gì đây để giúp cô bé thoát khỏi cảnh oan khiên này?!
Tôi nghĩ đến những ngày chồng tôi đi làm xa, vắng nhà vài tháng, chỉ một mình tôi nuôi con trong một đất nước thật hòa bình như thế này mà còn thấy khổ sở chật vật, mỗi lần con tôi chỉ bị cảm sốt thường thôi, cũng làm tôi cuống cả lên, hay nó chỉ bị ngã chảy máu ở đầu gối, cũng làm tôi thấy đau đớn lắm; huống hồ gì họ chỉ mới đến Canada được một tháng, người vợ trẻ vừa qua đời trong chiến tranh chắc chả có nấm mồ nào dựng lên cho nàng, bây giờ đứa con gái duy nhất lại bị bệnh cancer nữa, ông ta phải có một tinh thần thép mới có thể chiến đấu sống còn!
Tôi kể chuyện bé Nasha cho các nhân viên nghe, muốn mọi người cùng giúp sức tìm ra phương cách kiếm tiền giúp cha đứa bé có đủ tiền để trị bệnh cho con, các nhân viên cùng đồng lòng để một két nhỏ ngay quầy tiền của những tellers, bên dưới đề gây quỹ cho Nasha, bảy tuổi, bị Leukemia, nằm điều trị tầng ba. Riêng tôi, kể từ hôm nay sẽ bỏ giờ cơm trưa của mình lên kế hoạch gọi phone đến những người tôi quen biết, giàu có, có trái tim nhân hậu, muốn giúp đỡ người thiếu may mắn...
Hình ảnh bé gái Nasha nằm ngoẹo đầu trên giường bệnh tầng ba mãi ám ảnh trong đầu óc tôi, tôi muốn bé sẽ thoát khỏi căn bệnh hiểm nghèo này. Tôi sẽ làm mọi thứ để cứu cô bé tội nghiệp ấy!
Trái tim tôi thật nhói đau mỗi khi nhớ về bé Hải Âu, tôi muốn chuộc lại lỗi lầm! muốn trả lại món nợ mà tôi cảm thấy như mình là người gián tiếp gây ra cái chết đầy đau thương này:
Những năm tháng đầu tiên khi tôi vừa xin được vào ngân hàng, tôi bận rộn làm việc ngay cả những giờ overtime, ngày nghỉ lễ, tôi cũng nhận làm để chứng tỏ thành tích và khả năng của mình với cấp trên; tôi tích lũy được một số tiền kha khá để dành cho tương lai.
Chị Lài, người mẹ đơn thân, có một con trai tên Hải Âu, năm tuổi, cùng đi nhà trẻ với con trai tôi, hai đứa chơi rất thân, mỗi lần tôi đi làm về trễ thường nhờ chị đi đón con tôi về nhà chị cho đến chiều khi tôi đi làm ra mới đến đón con, con tôi được chị chăm lo, cho ăn uống tắm rửa sạch sẽ, tôi đón con về chỉ cho nó ngủ mà thôi. Chị yêu con tôi như chính con chị, được một năm khi hai trẻ sáu tuổi thì vào lớp một.
Con tôi học giỏi, nhanh trí bao nhiêu thì con chị lại cứ hay lo ra, mệt mỏi và ngủ trong lớp, đến nỗi nhà trường phải gọi chị lên và yêu cầu chị cho cháu đi bác sĩ xem sao, vì cháu học không vô, như người kiệt sức; khi đến nhà thương nhi đồng, họ phát hiện ra cháu bị cancer máu, leukemia!
Chị đau khổ, than khóc và cho bé nghỉ học để điều trị.
Trong những lúc khổ sở cùng cực nhất, chị đã gọi đến tôi, tôi vì mắc bận làm việc, bao nhiêu tâm huyết tôi đã để cả vào sự nghiệp. Lúc ấy vợ chồng tôi vừa mua nhà mới, không còn ở cùng khu với chị nữa, con trai tôi được ông bà ngoại chăm lo vì gần nhà.
Tôi nhớ chị đã cầu khẩn tôi:
-Chị không có ai ngoài em, xem gia đình em như em ruột của chị vậy, chị đã thương thằng con em như con trai Hải Âu của chị... Chị biết em đi làm cực khổ, kiếm tiền không dễ, nay con chị ở trong hoàn cảnh giữa cái sống và chết rất mong manh, chị nhờ em... chị thật ngại khi nói ra...
-Chị muốn gì cứ cho em biết, nếu trong khả năng em sẽ giúp chị!
-Chị muốn... em cho chị mượn 50 ngàn...
-Năm chục ngàn?!... Làm sao em có một số tiền lớn như thế chứ!
-Chỉ có em mới giúp được chị thôi! Em làm ơn... làm ơn cứu thằng bé...
-Chị hãy bình tĩnh, khóc than không giải quyết được gì, hãy kể cho em nghe chuyện gì xảy ra đi?
-Nhà thương bảo chị phải trả 75 ngàn để họ làm nghiên cứu thử nhóm máu với tủy sống của những người tham gia gì đó mà chị không hiểu nhiều về y khoa lắm thì cháu mới có cơ hội sống sót, còn nếu chỉ chữa xạ trị bình thường thôi, thì khả năng khỏi hết bệnh sẽ không cao. Mình phải trả thêm chi phí cho những bệnh viện tư thì họ làm mới nhanh được, insurances chị mua cho cháu cũng không nhiều, chị thật sự rất túng thiếu...
-Em... cũng có con nhỏ, phải để dành tiền cho chúng đi học và lỡ có chuyện gì cũng còn phải xoay sở chứ, căn nhà tụi em mới mua nữa, làm gì có 50 ngàn khơi khơi cho chị mượn...
-Chỉ cầu khẩn em, hãy giúp chị, vì ngoài em ra chả còn ai nữa!
-Chị có thể mượn nhà bank, em sẽ làm một cái loan cho chị vào ngày mai nhé.
-Không! Chị không muốn đâu!
-Tại sao? Chỉ có nhà bank mới có số tiền ấy cho chị mượn thôi.
-Hay em... có thể đứng tên em dùm chị được không?
-Chị sợ gì mà không dám đứng tên? Em sẽ làm cho mà, em sẽ làm hết giấy tờ và sẽ đem về cho chị ký tên thôi.
-Không đâu, chị sợ để tên mình rồi sau này lỡ chị không trả được thì sao? Họ lại... truy nã, bắt bớ chị...
-Chị nghĩ cái gì vậy chứ, bây giờ con chị đang bệnh, chị phải mượn tiền nhà bank, sau này đi làm trả lại cho họ!... Còn em, em không thể nào cho chị mượn được vì em còn mang nợ chất chồng đây và còn con em nữa... Đó là tất cả em có thể giúp chị, chị hãy suy nghĩ và cho em biết nhanh nhất nhé.
Chị Lài vẫn mang ý nghĩ là không thể đi làm trả tiền cho nhà bank được trong tương lai, và nhất quyết muốn tôi phải cho chị mượn tiền riêng của mình, hoặc chính tôi phải đứng ra mượn tiền nhà bank dưới danh nghĩa của mình. Tôi vừa bận rộn làm việc ngày đêm, lại vừa không vui lắm khi bị chị Lài ép mình làm chuyện “ngược đời”, tôi tránh không cầm phone mỗi lần chị nhắn tin.
Những lúc chị thất vọng, đau khổ nhất, tôi đã vô tình làm ngơ!
Bốn tháng sau, trong lúc đang họp, chồng tôi để lại một tin nhắn:
“Đi làm về, anh hẹn em đến thẳng nhà quàn Urgel Bourgie trên đường X nhé, bé Hải Âu đã qua đời”
Tin này như một mũi dao nhọn đâm thẳng vào tim tôi, vô cùng bàng hoàng, nhói đau, tôi đã bệnh một tuần nằm liệt giường, tự trách mình và nỗi đau tội lỗi ấy mãi đeo đuổi tôi cho đến ngày hôm nay.
***
Hình ảnh bé Nasha còn tội nghiệp hơn thế nữa, vì mẹ bé vừa qua đời, cha chân ướt chân ráo đến một đất nước còn rất lạ lẫm, đã phải bươn chải để cứu lấy mạng sống của con gái.
Tôi muốn chuộc lỗi, thực sự rất muốn chuộc lại lỗi lầm đã gián tiếp gây ra sự ra đi mãi mãi của bé Hải Âu, tôi mong bé ở trên cao tha lỗi cho tôi, cầu mong bé sớm đầu thai vào một gia đình khá giả, được yêu thương và hạnh phúc hơn. Cũng cầu xin bé hãy giúp tôi làm cho việc gây quỹ này được thành công để cứu bé Nasha, cũng như các cháu bé khác thoát khỏi cảnh bệnh hoạn đau đớn của cuộc đời trầm luân này.
Nhờ những buổi chiều tôi ở lại phone “cầu cứu” đến những nhà hảo tâm mà tôi quen biết, quỹ gofundme đã dần đạt được gần con số 115k, khách hàng đến quầy két làm việc của chúng tôi, ai cũng bỏ tiền vào đấy, người thì 50, kẻ 100, 200, bao nhiêu tôi cũng cám ơn, không phải là số tiền họ bỏ vào hộp két mà chính là trái tim, lương tâm con người, tôi thật mang ơn họ.
Riêng chi nhánh ngân hàng tôi, số tiền đã là 15k, cả chị lao công quét dọn buổi tối cũng bỏ vào hộp $50.00, lúc đó tôi thật cảm động đến rơi nước mắt!
Chuyện tôi quyên tiền cho bé Nasha một tuần sau đã đánh tiếng vang đến ông tổng giám đốc của ngân hàng, ông đã phone xuống tôi, giọng rõng rạc:
-Cô lại làm chuyện bao đồng nữa phải không?
Tôi sợ sẽ làm ông giám đốc hiểu lầm, nên vội vàng giải thích:
-Tôi xin lỗi... tôi không hề lấy giờ của nhà bank kêu gọi từ thiện đâu, tôi đã ở lại để phone đến những người tôi quen biết, đây là những khách riêng của tôi, chứ cũng không phải khách của nhà bank đâu ạ!
Ông ta bỗng chuyển chủ đề:
-Tôi nghe nói cô làm nhiều chả giò để lấy lòng khách hàng phải không?
-Không đâu ạ, đây là chính trái tim tôi mách bảo thôi, nhân viên của tôi quá dễ thương, nên cuối năm tôi phải trả ơn họ một chút thôi...
-Vậy tại sao cô cũng tặng cho những bác sĩ, y tá nữa đấy?
-Ủa... mà sao ông biết vậy?
-Làm sao mà tôi không biết, tôi có tai mắt khắp mọi nơi mà...
-Dạ... thì cũng là tôi quý họ, họ đã đem bao nhiêu khách mới làm dịch vụ với mình, mình phải có gì tặng họ Tết nhất chứ!
-Cô cũng biết... ngoại giao nhỉ!
-Xin lỗi ông... tôi...
-Quỹ Nasha còn thiếu bao nhiêu nữa?
-Chúng tôi đã quyên được khá lắm rồi, bây giờ chỉ còn thiếu khoảng 20k nữa là đạt được con số mong muốn thôi ạ.
-Nếu bây giờ nhà bank bỏ vào 25 ngàn... cô nghĩ sao?
Tôi tưởng như tai mình nghe lầm, lắp bắp:
-Ông nói... nói sao ạ?... Xin ông lập lại...
-Tôi nói sẽ nhờ cô thủ quỹ chuyển thẳng vào gofundme 25 ngàn, cô thấy đủ chưa?
-...Thật không?
-Cô tưởng tôi nói giỡn hả? sống phải có trái tim chứ!
-Ông làm tôi cảm động quá... Tôi cám ơn ông... tôi...
-Nếu cô muốn cám ơn tôi thì hãy làm cho tôi 100 cuốn chả giò được không?... mà phải lấy tiền đó nhé, vì nghe nói cô cứ làm cho người ta không thôi.
-Ông muốn tôi làm cho ông 200 cuốn tôi cũng tặng không nữa đó! Ông thật quá dễ thương và có trái tim nhân hậu ạ!
-Không đâu, chính nhờ cô đấy! Thật ra... ông giám đốc nhà thương đã điện thoại cho tôi, ông khen cô không ngớt lời, là một giám đốc có lòng nhân ái, ông ta kể về cô cho tôi nghe, chính cô đã cho tôi cái suy nghĩ là ngân hàng mình đã sống nhờ vào nhà thương này mấy chục năm qua, mà chưa bao giờ mình đền ơn đáp nghĩa họ cả, nay đúng là dịp tốt. Người cám ơn cô phải là tôi đấy!
-Tôi... tôi rất cảm động và sẽ làm cho ông 200 cái chả giò vào tuần tới nhé
-Ah mà thôi, cô cứ chia ra thành hai gói mỗi gói 100 chả giò đi, vì tôi sẽ đem cho bà giám đốc nhân sự 100 cái.
Một tiếng sau, tôi có một đơn đặt hàng với 1,000 cái chả giò cho toàn nhà bank. Kỳ này tôi được mọi người trả tiền làm chả giò thật hậu hĩnh nên chắc cũng phải trả cho ông chồng làm uber giao hàng đến nơi đến chốn một món tiền không nhỏ rồi đây!
***
Vào một buổi chiều ngày thứ sáu tháng hai năm 2023, một năm sau ngày quyên góp quỹ Nasha kết thúc.
Tôi đã được đổi đến một chức vụ khác cao hơn trong cùng một ngân hàng, không còn làm trực tiếp với khách hàng nữa mà chỉ giữ những phần đầu tư của họ. Lúc ấy tôi cũng đang sửa soạn nghi hưu.
Bất ngờ cô receptionist phone vào báo cho tôi biết có một người khách muốn gặp tôi rất quan trọng, họ đang chờ tôi trong phòng khách.
Khi tôi bước vào, tôi thấy một cô gái với mái tóc vàng dài óng ả, cuộn thành lọn, mặc chiếc áo đầm vàng có ren như công chúa, cô bé khoảng 8,9 tuổi, đi bên cạnh một người đàn ông khoảng 30-35 tuổi, mặc bộ đồ quân phục, tay ôm một bó hoa to đủ màu sắc.
Thấy tôi, cả hai vội đứng dậy, người đàn ông tự giới thiệu bằng tiếng Anh:
-Tôi là cha của Nasha, sức khỏe của cháu đã khá tốt lên mỗi ngày, đang được theo dõi, nhờ vào quỹ mà bà đã bỏ nhiều công sức lo cho cháu cách đây hơn một năm. Chúng tôi thật may mắn, đến đây để cám ơn bà và những người bạn của bà đã cho cháu một món quà thật quý mà suốt đời này chúng tôi không bao giờ quên ơn.
Cô bé trao cho tôi bó hoa, kiễng chân lên ôm lấy tôi và hôn lên đôi má tôi; tôi không nói được lời nào, ôm lấy cô bé, áp vào người mình, nghe trái tim nhỏ nhắn đập nhẹ nhàng mà cả lòng rộn ràng hạnh phúc, nước mắt long lanh.
Tôi đã chuộc lại lỗi lầm, đã trả được phần nào tội lỗi đã đeo bám tôi suốt bao năm qua.
Gửi: Wed May 14, 2025 1:44 am Tiêu đề: NẮNG ...TÌNH - SỎI NGỌC
Nắng… tình!
Cảnh Chùa Việt Nam, Sugar Land, Houston, TX.
Nắng... tình! - Sỏi Ngọc
(Phú Lan sưu tầm)
(Kể về cuộc đời của người bạn cũ gặp lại sau 50 năm tại Houston TX, USA)
Từ lúc sanh ra, hai chị em tôi rất ít khi gặp ba, chỉ biết có mẹ, sau này chúng tôi mới nghe mẹ kể, ba là người lính VNCH, ít về nhà, khi chúng tôi hơi lớn lên một chút thì ông đã tử trận oai hùng vào dịp Tết Mậu Thân 1968, năm tôi mới được bốn tuổi và chị sáu tuổi.
Mẹ là một người phụ nữ hiền lành, mảnh mai, đẹp và quyến rũ, ai gặp mẹ, nói chuyện với mẹ là khó có thể quay lưng, nên cuộc đời mẹ thật truân chuyên, trong thơ Nguyễn Du có câu:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. (Kiều-Nguyễn Du)
Sau hai năm để tang ba, mẹ đi thêm một bước nữa với ông giám đốc gốc Pháp, làm cùng công ty rượu ở Sài Gòn, mẹ để hai chị em tôi vào trường học nội trú với các bà sơ Couvent Des Oiseaux, lâu lâu mẹ mới đón về nhà chơi. Mẹ góa vào lúc còn rất trẻ nên nhiều người theo tán tỉnh mẹ, mẹ chọn ông giám đốc Hugues dù ông ấy hơn tuổi mẹ rất nhiều và vì thấy ông giàu có thể bảo bọc cuộc sống của ba mẹ con, với lại sau này mục đích của mẹ muốn đưa chị em tôi sang Pháp sống, chứ tình yêu trong mẹ đã chôn theo cái chết vì tổ quốc của ba ở Kontum rồi.
Chị em tôi quấn quít bên nhau nhiều hơn là gần mẹ vì bà suốt ngày bận rộn với công việc, kiếm tiền trang trải cuộc sống và lo cho chúng tôi học chương trình Pháp ở nội trú. Hai chị em tôi ít dùng tiếng Việt, vì môi trường sinh hoạt chỉ dùng toàn tiếng Pháp. Điều này làm tôi xa cách mẹ hơn.
Mỗi lần được mẹ cho về nhà chơi, chị tôi như người mẹ nhỏ bên cạnh tôi, lo cho tôi ăn uống, tắm rửa, chơi đồ hàng với tôi trong lúc mẹ làm cơm hoặc thỉnh thoảng nói chuyện qua loa với các con, tôi cảm nhận một rãnh ngăn cách vô hình nào đó giữa hai mẹ con; còn ba dượng thì khôn khéo hơn để lấy lòng chúng tôi, cho thật nhiều đồ chơi, dắt cả nhà đi ăn, xem phim, nhưng trong tim chúng tôi vẫn không coi ông là ba của mình!
Mốc lịch sử không thể nào quên trên quê hương bé nhỏ, tội nghiệp, khi miền Nam bị đổi chủ, lúc ấy ba dượng công tác ở Pháp hai tháng, nên bị kẹt lại bên đó không thể về với mấy mẹ con; tất cả chúng tôi được lệnh theo chân một trung úy người Mỹ trong công ty của mẹ do ba dượng gởi gấm, lên máy bay ngay buổi chiều ngày 27 tháng Tư 1975, tất cả nhân viên trong công ty làm rượu có chi nhánh ở Saigon, ai muốn đi thì theo lên phi cơ đậu sẵn ở phi trường Tân Sơn Nhất sang Mỹ, họ chỉ có bốn tiếng đồng hồ để quyết định đi hay ở mà thôi.
Tôi không bao giờ quên đó là một buổi chiều ảm đạm với ánh mặt trời rực sáng đến chói chang gay gắt, làm cay mắt mọi người, không thể nào mở to mắt để nhìn những bực cầu thang rời rạc cứng nhắc khó leo mà họ đặt ngay giữa sân bay cho những người di cư tự chen lấn trèo lên; tôi nhớ mình bị rớt một chiếc dép giữa những bực cầu thang ấy, định cúi xuống nhặt nhưng đoàn người cứ ùn ùn đôn chúng tôi lên, tôi chỉ còn một chiếc dép bám vào chân và một chân đất khi vào đến bên trong!
Chúng tôi chỉ có chỗ ngồi xuống sàn mà không có ghế, mẹ tôi với đầu tóc rối bời, khuôn mặt lọ lem đầy nước mắt, tay mẹ vẫn ôm thật chặt giỏ giấy tờ; chị tôi quần áo xốc xếch vì bị xô đẩy, bàn tay vẫn nắm chặt lấy bàn tay tôi nhớp đầy mồ hôi và đất cát, không ai nói với ai câu nào, lo lắng, chen chúc ngồi sát vào nhau.
Ngày ấy tôi chỉ là một con bé 11 tuổi, đã hiểu được ngày ra đi sẽ là chia ly mãi mãi không bao giờ quay lại nữa vì trong thâm tâm tôi thấy đi như vậy là khó khăn lắm, khổ sở chen lấn để có một chỗ tốt trong máy bay, nếu quay trở lại vì bất kỳ lý do nào thì thật hoài công, phí sức! Nước mắt xối xả chảy như suối, tôi nhìn ra cửa sổ đoàn người vẫn bám theo chiếc cầu thang bên ngoài như một tổ ong vò vẽ bu vào hũ mật mà không một ai có thể lọt vào được, cánh cửa đã đóng lại vì quá tải.
Như một định mệnh, chiếc máy bay ấy đã đưa ba mẹ con tôi đến đảo Guam để sau đó vào Mỹ tại thành phố Garden Grove, tiểu bang California-Hoa Kỳ, nơi đây cộng đồng người Việt rất lớn.
**
Mẹ liên lạc được với ba dượng, ông qua Mỹ, giúp đỡ mẹ con tôi rất nhiều tiền bạc trong lúc đầu nơi xứ người, chúng tôi không bao giờ quên ơn này! Nhưng ông và mẹ vẫn không về với nhau một nhà mà vài ba tháng ở Mỹ, ông lại quay về Pháp. Mẹ mở tiệm nail, chúng tôi vừa đi học ban ngày, chiều về giúp mẹ làm business. Lúc ấy chỉ có ít tiệm nails trên đường Bolsa nên tiệm chúng tôi lúc nào cũng rất đông, khách xếp hàng đứng chờ dài thườn thượt, đủ mọi sắc dân, ba mẹ con tôi làm đến tối mịt 10 giờ đêm mới về đến nhà, kể cả thứ bảy chủ nhật. Khi nhắm mắt lại buổi tối, tôi chỉ thấy toàn những bàn tay, bàn chân đủ màu sắc của khách đưa vào mặt!
Khoảng bốn năm sau, ba dượng bị bệnh cancer phổi, ông mất đi để lại gia tài kha khá cho mẹ, mẹ không muốn cực nhọc nữa nên đã giao tiệm nail lại cho chị hai tôi, còn bà thì chỉ nghỉ ngơi, giúp cộng đồng và những người mới đến định cư.
Chị Hai sau khi học xong đại học ngành quản trị kinh doanh BBA, chị tiếp tiệm nail của mẹ, mở rộng to hơn và mướn thêm người làm; chị thật mát tay và có đầu óc kinh doanh, từ lúc mở khách nườm nượp ra vào, tôi sang tiệm giúp chị trong những ngày nghỉ, nơi đây tôi gặp tình yêu đầu đời, người con trai mang hai dòng máu Mỹ- Việt lớn hơn tôi 14 tuổi.
Ngày thứ bảy, Jimmy thay thế chị tôi đến mở tiệm đón khách, tôi xem chàng như người trong nhà nên rất tự nhiên; giờ cơm trưa chàng mua sẵn đồ ăn hâm nóng cho tôi, vừa ăn vừa nói chuyện khi bên ngoài mọi người vẫn tấp nập tiếp khách làm móng.
Chàng điềm nhiên khuyên tôi:
-Em không được bỏ bữa đâu, có bận cách mấy cũng phải ăn vì bữa trưa rất quan trọng cho cơ thể.
-Khách đông quá nên em sợ mình vào ăn, họ phải chờ thì thấy kỳ kỳ sao sao nên phải nhịn đến chiều về ăn luôn.
-Lúc nào tiệm cũng đông hết, chả lẽ em cứ nhịn bữa trưa hoài từ năm này đến năm khác sao? Sẽ có lúc bị thiếu máu cho xem, em có bao giờ thấy chóng mặt chưa?
Tôi lảng sang chuyện khác:
-Anh học ngành gì mà lại vào đây... mở tiệm nail với chị hai của em vậy?
-Thực ra anh đã có bằng kỹ sư cơ khí nhưng vì chưa tìm ra job đúng ý mình, trong lúc đó lại thấy tiệm nail của chị em đăng báo tìm manager nên anh muốn thử vận mệnh; anh ở gần đây thôi, lái xe có 10 phút, với lại anh rất thích làm đẹp cho phụ nữ...
-Tức là sao?... muốn làm đẹp cho phụ nữ?
-Anh rất thích may những chiếc áo đầm, dạ hội, thích làm móng tay có gắn kim cương (giả) cho phụ nữ, hay chải tóc...
-Wow, anh giỏi quá, có tay nghề tự nhiên như vậy hay anh đã học từ hồi xưa?
-Cái gì mình thích thì mình phải tìm tòi thôi, từ lúc nhỏ anh đã đi học về cắt may, nghĩ sau này sẽ mở tiệm may âu phục cho nam nữ, nhưng không hiểu sao, đường đời cứ dẫn dắt anh không mở tiệm mà lại đi học ra kỹ sư cơ khí; còn chải tóc kiểu này kiểu kia thì anh để ý và học hỏi thêm ở những tiệm cắt chải tóc, anh làm cũng không tệ.
-Vậy anh đã làm cho cô nào chưa?
-Có chứ, anh làm trước hết cho mẹ, em gái và những người bạn nữ, họ rất thích... Bữa nào anh sẽ làm cho em nhé, nếu em tin tài nghệ anh.
Tôi mở mắt lớn, đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, không ngờ người con trai ngồi trước mặt tôi với mái tóc thật nghệ sĩ màu nâu hơi quăn quăn dài ngang cổ, đôi mắt nâu trong bóng tối, nhưng xanh màu lá cây khi ra nắng, chiếc mũi không cao lắm của người Việt, dáng người tầm thước, ăn nói có duyên này lại là người tài hoa thế, mọi ngày chàng đến tiệm chỉ hay nói giỡn chọc phá tôi, có bao giờ nói về bản thân mình đâu, nay nghe chàng tâm sự, đã làm trái tim của đứa con gái chưa một lần có mối tình nào, một chút xao xuyến.
Bỗng chàng để hai bàn tay lên vai tôi:
-Em cứ ngồi yên trong này ăn uống từ từ đi, phải ăn hết đấy nhé, anh ra ngoài xem khách ra sao!
Nhìn theo dáng chàng ra ngoài, trái tim tôi bồi hồi với những tình cảm lẫn lộn. Từ ngày chị hai mở tiệm, tôi đi làm về tối, chàng cho tôi quá giang mặc dù nhà chàng ở gần tiệm hơn, buổi trưa đều mua cơm đến cho tôi ăn, nhưng tôi cứ hay bỏ bữa vì khách đông, những lần tôi không đi làm được vì bù đầu học cho những kỳ thi cuối khóa, chàng đều phone hỏi thăm tôi, và cũng nói dùm với chị Hai. Vậy... không biết chàng có tình cảm gì với tôi không, nhưng thật sự khi biết về chàng, tôi phục chàng quá, hình ảnh của Jimmy mãi cứ ẩn hiện trong trái tim tôi.
Không quen ăn trưa, tôi lại bỏ ra ngoài, thấy chàng bận rộn tính tiền với những khách hàng, tôi lảng ra tiếp khách mới làm móng nước. Hết người này đến người khác vô, tôi không có chút thì giờ cho mình, chỉ biết cố làm sao cho cái hàng dài ngoằng ngắn lại một chút.
Trời về chiều, ánh nắng đã tắt, tiệm phải mở đèn thật sáng mà tôi vẫn thấy không rõ, tôi cảm thấy cả người nôn nao, bao tử réo gọi, cuối tuần nên khách hơi đông hơn mọi ngày trong tuần, thầm nghĩ khoảng nửa tiếng nữa là xong, đóng cửa tiệm thì tha hồ ăn uống, xong người khách này tôi sẽ nghỉ tay; nào ngờ cả căn phòng như quay vòng tròn trước mặt, mắt hoa và tối đen, bất thình lình tôi gục xuống trong chậu nước dưới chân của người khách, tôi nghe tiếng mọi người la hét xung quanh, có người bồng tôi lên, gọi tên tôi và chợt yên ắng.
Khi mở mắt ra, chỉ có tiếng nhạc Jazz nhẹ nhàng, tôi nằm trên giường phía trong của tiệm nail, Jimmy ngồi dưới chân giường, chạy đến bên tôi, mừng rỡ nắm lấy tay tôi:
-Em... em đã tỉnh lại rồi... May quá!... Anh định sẽ gọi chị hai của em đến nếu em không tỉnh lại trong vòng 15 phút nữa, em đã ngất đi nửa tiếng rồi đó! Anh biết em không bệnh gì cả mà chỉ là đói và mệt thôi?! Cả ngày không ăn, đêm thức khuya học bài thì sức nào chịu cho nổi, anh hiểu nên đã không cho gia đình em hay... Mà cũng lo lắm!
-Em... cám ơn anh đã không làm lớn chuyện, chị hai biết được sẽ không cho em đi làm nữa, làm sao em có tiền đóng học và lo cho cuộc sống... Em không muốn mọi người coi em là gánh nặng, cũng không muốn ngửa tay xin tiền mẹ hay chị hai, em muốn tự mình làm, lỗi tại em không ăn uống đàng hoàng, lần sau em sẽ cẩn thận hơn.
-Chiều nay, anh mời em đi ăn nhe, ăn xong mình đi dạo một chút để em bớt mệt rồi mới về nhà học bài sau, em phải lo sức khỏe chứ, em có bệnh gì làm sao đi học tiếp?
Tôi cảm động vì những lời lẽ chân tình của chàng nên đã nhận lời đi ăn tối.
Chàng thật galant kéo ghế cho tôi ngồi ở một chiếc bàn khuất sau hàng cây và hồ cá trong một tiệm ăn Nhật, cẩn thận gắp những miếng thịt bò mềm mại, miếng cá tươi, dặn dò một cách dí dỏm:
-Em ăn nhai cho kỹ rồi hãy nuốt nhe, cẩn thận cho cái bao tử đang trống rỗng của em đó! Em ăn một bát soup miso trước cho có nước dễ nuốt nè...
Chúng tôi ăn uống nói chuyện thật vui, tôi mới biết chàng có người cha gốc Mỹ lấy người mẹ Việt khi cha chàng qua Việt Nam từ những năm 1950 dưới thời Ngô Đình Diệm, người Mỹ gởi những cố vấn quân sự qua Việt Nam, trong đó có cha chàng. Chàng được sanh ra ở Nha Trang-Việt Nam, đến năm 15 tuổi thì cả gia đình trở về Mỹ. Chàng nói viết được tiếng Việt giỏi vì được mẹ dạy dỗ từ khi mới lọt lòng.
Đẩy bát đậu hũ nước đường nóng hổi đến trước mặt tôi, chàng nài nỉ:
-Ăn bát dessert này sẽ tẩm bổ cho em thêm, tối về sẽ ngủ ngon lắm!
-Làm như em là cái bịch không đáy hay sao mà bắt em nhét đủ thứ vào hết, từ nãy giờ ăn nhiều lắm luôn rồi đó. Em no quá rồi!
-Vậy để anh nói họ bỏ vào cái hộp để ngày mai em ăn nhé, em thích ăn đậu hũ nước đường mà!
-... Ủa, sao anh biết hay vậy?
-Biết mới hay chứ! Con gái thích ăn món này lắm!
-Anh làm thầy bói giỏi ghê ta!
Ăn xong chúng tôi đi dạo như đã planning, tôi không ngờ chàng rất tâm lý và tếu mà thường ngày chúng tôi chưa hiểu hết về nhau, chàng làm tôi cười đến chảy nước mắt; đến một đoạn đường hơi vắng và có những vũng nước lớn vì trận mưa tối hôm qua, chàng nhảy qua trước và nói với tôi:
-Nhảy qua đi, anh sẽ đón em ở bên này!
-Vũng nước to quá, em sợ không nhảy qua được đâu.
-Được mà, ráng lên, đã ăn no rồi... em có dư sức đó, tự tin lên!
Tôi ráng sức bình sinh, nhảy lên với bước chân thật dài để đừng bị té vào đống sình bùn, nhảy quá đà, đến nỗi đâm sầm vào người chàng, tôi cảm thấy một vòng tay ôm gọn gàng thật chặt; không gian thật yên tĩnh, buổi chiều lắng đọng, tôi chỉ nghe tiếng chim hót từ xa vọng lại, tiếng thở dồn dập của tôi, và tiếng tim đập rộn ràng của ai đó, tôi mắc cỡ khuôn mặt hồng đỏ không dám ngước lên, chàng nhẹ nhàng vén những sợi tóc lòa xòa trên mặt tôi, cảm thấy hương thơm của hơi thở chàng tỏa lên khuôn mặt mình, đất trời như hòa làm một, cả hai trái tim chúng tôi cùng đập một nhịp điệu hạnh phúc.
Chàng trở thành người yêu của tôi qua buổi chiều hôm ấy.
Mỗi ngày đi học, chàng đón tôi khi ra khỏi cổng trường, chúng tôi có rất nhiều thứ nói với nhau như hai người bạn thân lâu ngày gặp lại, chúng tôi rất hợp nhau, cùng thích một món ăn, thức uống, ngay cả đi bộ, đạp xe hay chơi cờ với nhau.
Ngày tôi ra trường, mẹ và chị không đến mừng tôi được vì bận với cửa tiệm nail, chỉ mình chàng đến với bó hoa thật to trên tay và nụ hôn nồng nàn chân thành. Tôi không bao giờ quên được cả đời này, ngày hôm ấy chàng đã nghỉ để sửa soạn mua hoa, bong bóng và làm tóc cho tôi đi lãnh bằng. Tôi chưa bao giờ hạnh phúc đến thế, chưa bao giờ cảm thấy cuộc đời này thật ngọt ngào bên chàng.
Buổi chiều mẹ và chị đã hẹn làm tiệc đãi ngày đứa con gái út ra trường, tôi sẽ giới thiệu người yêu với gia đình, chàng sẽ chính thức thành người con rể tương lai của mẹ, tôi náo nức và chủ quan nghĩ đến mẹ sẽ rất hài lòng thấy người con rể này rất yêu con gái út của mẹ, mẹ sẽ không còn lo lắng băn khoăn gì nữa cho tương lai của nó, mà sẽ phó mặc cho chàng rể đầy trách nhiệm này.
Jimmy và tôi bước vào nhà, mẹ đã ra tận ngoài cửa đón, mẹ mặc chiếc áo dài cổ hở, để lộ chiếc cổ cao đầy đặn và trắng ngần, chiếc áo dài gấm trắng chỉ vẽ vài cánh hoa thạch thảo nhụy vàng rơi rớt trên nền áo thật đẹp, nhìn mẹ sang trọng như một cành hoa lan tinh khiết, đúng độ nở và quyến rũ.
Như đã nói ở trên, mẹ tôi là một phụ nữ đẹp và quyến rũ, ở tuổi 44 với những kinh nghiệm sống và trình độ kiến thức làm con người ta chín chắn hơn, mẹ như một đóa hoa nở rộ, đặc biệt có lối nói chuyện rất thu hút khó ai có thể cưỡng lại được.
Lần đầu tiên Jimmy gặp mẹ, chàng như bị thôi miên bởi sắc đẹp chín chắn và duyên dáng của người phụ nữ này, chàng ngồi yên nghe bà kể về quá khứ khó nhọc của gia đình ba mẹ con; hôm ấy mẹ đã tỉ mỉ sửa soạn mấy món ăn Việt đi kèm theo rau và sauce rất hợp khẩu vị mọi người.
Cuối cùng, khi mẹ đem món dessert ra, món bánh flanc café là món tôi và Jimmy rất thích, chàng vừa ăn vừa tấm tắc khen không ngớt lời. Tôi sung sướng hạnh phúc khi thấy chàng rể và mẹ tôi thật tâm đầu ý hợp, hai người nói chuyện với nhau không dứt, chàng còn vào bếp giúp mẹ chọn rượu ngon để nhâm nhi; còn tôi và chị hai vào phòng tâm sự với nhau, tôi kể rất nhiều về Jimmy cho chị nghe, chị cũng mừng cho tôi đã gặp được chàng hoàng tử của lòng mình.
Mười hai giờ đêm, sau khi hàn huyên với chị Hai xong, tôi muốn về nhà của mình, khi bước ra phòng khách, tôi thấy mẹ và Jimmy cả hai nằm trên cùng một chiếc ghế sofa dài salon, mỗi người đầu nghẹo qua một góc say ngủ và đầy mùi rượu, chị hai nói:
-Có bao giờ mẹ uống rượu nhiều như thế đâu, tiếp khách mà sao mẹ lại ngủ... chắc hôm nay phải gặp đúng “bạn rượu” mới uống say như vậy!
Trên bàn toàn những nước ngọt, rượu mạnh đủ loại ngả nghiêng, chắc mẹ tôi đã giới thiệu rượu khác loại cho Jimmy, hai người đã thử nhiều loại lẫn lộn nên mới ra nông nỗi này.
Nhìn dáng hai người cùng trên một chiếc sofa dài, buột miệng chị hai nói với tôi:
-Mẹ và Jimmy... hai người có vẻ ngang tuổi nhau đấy, với em thì có vẻ anh ta hơi già dặn quá!
-Mẹ hơn Jimmy 8 tuổi, còn Jimmy hơn em 14 tuổi lận!
-... Thôi mình cứ để hai người ngồi ngủ như thế đi, hai chị em mình vào phòng của chị ngủ, chút nữa giã rượu mẹ sẽ tự động về phòng của mẹ, em đừng lo.
Không hiểu sao, tôi cứ cảm thấy không yên lòng, bồn chồn, muốn quay ra đỡ mẹ về phòng, hoặc gọi Jimmy dậy để chở tôi về nhà, nhưng chị hai cứ rủ tôi tắt đèn lên giường, hơi đâu mà lo ra...
Vì không ngủ được, tôi trằn trọc, nửa đêm dậy đi washroom; từ trên lầu nhìn xuống, tôi không tin vào mắt mình, Jimmy đã nằm sát vào bên mẹ, hai chiếc đầu kề cận nhau, cánh tay phải choàng ngang người mẹ. Tôi như tỉnh hẳn ngủ, chạy một mạch xuống phòng salon, một tay bật đèn sáng, miệng la hét nói không thành lời:
-Mẹ!... mẹ làm gì vậy?... Jimmy tại sao?... tại sao...
Jimmy tỉnh hẳn, dụi mắt và đứng bật dậy, miệng ú ớ:
-... Xin lỗi... xin lỗi... không phải... anh uống say quá!
Mẹ hãy còn nửa mơ nửa tỉnh:
-Nhức đầu quá, sao... chuyện gì thế này...
Mẹ đứng lên lại té xuống ghế, hai mắt hãy còn mơ màng; tôi nói trong cơn tức giận thảng thốt:
-Jimmy... đồ vô liêm sỉ!... Hãy cút đi!
Tức giận, nước mắt tuôn trào, tôi mở bật cửa bỏ chạy ra ngoài, bên ngoài không một ánh đèn đường, không trăng cũng không một vì sao, tối đen như người bị bịt mắt!
Tôi nghe tiếng chị Hai nức nở gọi sau lưng:
-Hạnh!... Hạnh à...
Cả tiếng chân Jimmy chạy huỳnh huỵch phía sau gọi tên tôi, tôi cứ lao đầu chạy trong đêm tối mà chả biết phương hướng. Chỉ thấy từ đàng xa một vệt sáng chói lòa của chiếc đèn xe đang ung dung lao tới với một vận tốc thật nhanh; tôi muốn dừng lại, muốn quay đầu lại, nhưng không còn kịp nữa, chỉ nghe một tiếng động thật lớn, cả người bay bổng nhẹ như cánh diều của ngày ấu thơ, nhưng sao... đau nhói.
**
Ba năm dằn vặt trôi qua, tôi đã may mắn được các bác sĩ giỏi giữ lại cái mạng, quen dần với chiếc hông trái được thay bằng titan, tôi đi đứng hơi khập khiễng với một chiếc giày bên trái cao hơn hai phân, xương chậu trái đã được lắp một phần bằng kim loại và khả năng mang bầu sau này cũng bị ảnh hưởng; tôi chọn đi làm kế toán cho một công ty người Mỹ cách chỗ tôi mướn nhà không xa lắm, tôi không muốn trở lại làm nail vì muốn tránh đi tất cả những ký ức gợi lại niềm xót thương.
Suốt ba năm nay, tuần nào tôi cũng nhận được lá thư không đề tên người gởi, chỉ thấy tên người nhận là tôi thôi, tôi biết người gởi là ai rồi, vì tôi đã mở ra đọc lần đầu tiên khi vừa mới từ nhà thương ra, nhưng tôi đã xé nát tan, oán hận vứt ngay vào thùng rác không chút xót thương, tôi không muốn biết tin tức mà chỉ muốn xóa sạch trong óc những gì thuộc về hắn! Và hôm nay cũng thế, không cần đọc, dửng dưng vò nát vứt ngay vào sọt rác dưới chân không chút ngần ngại; những lời xin lỗi, van xin, ngụy biện đối với tôi bây giờ như một trò hề!
Tôi muốn trút bỏ lòng thù hận và muốn xem người ấy như kẻ xa lạ.
Ngày qua đời qua mất rồi
Một thoáng chớp mắt đời đã phai
Còn lại vết thương hằn trên đá
Để tình ta... rồi mãi là tình xa. (Vết thương hằn trên đá-Nguyễn Tường)
Chị có nói chuyện với tôi một lần rằng mẹ đã quyết định đổi đến tiểu bang Texas, dọn vào chùa Việt Nam ở Houston, tu từ hai năm nay, cạo đầu, ở hẳn trong chùa làm phận sự như một ni cô, mẹ tụng kinh sám hối rất nhiều cho chính bản thân và cho tôi, mẹ muốn hồi hướng công đức cho đứa con gái út này, mẹ rất hối tiếc chuyện xảy ra tối hôm đó mà mẹ không hề cố ý.
Khi tôi còn trong nhà thương hôn mê cả tháng, mạng sống như treo trên sợi tóc, các bác sĩ nói bệnh tôi trở nặng hơn, lên cơn sốt mỗi khi mẹ vào thăm nuôi, nên tốt hơn là hãy chiều theo ý nguyện của tôi; mẹ đã phải đau khổ, chịu hy sinh, tránh mặt tôi trong suốt những năm tôi bị bệnh cho đến bây giờ, vì không muốn làm tôi bị tổn thương thêm.
Tháng Năm của ngày lễ Mẹ đã đến, nơi đâu cũng quảng cáo rầm rộ những lẵng hoa đẹp tặng phụ mẫu, ba năm vừa qua tôi chỉ biết khóc nhớ về mẹ, nhưng hôm nay tôi bỗng muốn có được một tâm hồn thanh thản như mọi người, muốn chui ra khỏi cái vỏ ốc phiền muộn, không oán giận nữa, tôi muốn đi chùa, muốn được lời khuyên của Đức Phật Như Lai soi sáng tâm hồn tôi, buông xuống tất cả mọi thứ hiểu lầm, tôi muốn đối diện với sự thật, nhất là đối với mẹ, người đã sinh thành ra tôi mà rất ít khi nào tôi cảm thấy gần gũi.
Tôi ao ước được đặt đầu vào lòng mẹ thổn thức một lần để cho dòng nước mắt quét trôi đi tất cả mọi u sầu.
Tôi đã tự dằn vặt, nước mắt tủi hờn không bao giờ khô mỗi đêm, khốn đốn khổ sở để quên đi cái trái ngang của tình yêu đầu đời, tôi đã phải trả một giá quá đắt; tôi biết chắc lỗi này chẳng phải do mẹ gây ra, cuộc đời mẹ cũng đã trải qua nhiều thử thách gian truân để nuôi hai chị em tôi đến ngày hôm nay; có phải con người chả có ai vẹn toàn, cuộc đời là những bài học giúp ta đứng vững hơn mỗi khi vấp té.
**
Mặt tiền của ngôi chùa Việt Nam- Sugar Land, tại Houston-Texas nổi bật với khuôn viên rộng lớn và hồ sen đẹp mắt, đặc biệt là tượng Quan Âm hiền hòa an lành cao 72 feet đứng trên tòa sen với bàn tay nghiêng xuống như cứu vớt những tâm hồn trầm luân.
Trái tim tôi đập rộn rã hồi hộp như đứa con nhỏ về thăm nhà, mong gặp lại người mẹ yêu thương sau biến cố cách đây ba năm.
Người đàn bà ngồi giữa sân sau chùa, dáng gầy, đầu đội chiếc nón lá phủ kín chiếc đầu cạo nhẵn thín, bộ quần áo lam, cặp mắt u buồn nhưng yên tịnh, khuôn mặt trái xoan vẫn phảng phất vẻ duyên dáng, đôi tay thoăn thoắt đang nhổ cỏ dại; hai dòng nước mắt nóng hổi đã ràn rụa trên mặt tôi từ lúc nào, thông thường ánh nắng tháng năm thật dịu, nhưng sao ánh nắng của ngày hôm nay thật chói chang, chói làm người ta phải che tay lên nhìn mới rõ, gợi nhớ cái nắng gắt của cách đây 50 năm, ngày chúng tôi rời khỏi quê hương!
Tôi khập khiễng đến bên mẹ, mẹ ngừng nhổ cỏ, nhìn hai bàn chân với hai chiếc giày một cao một thấp, kỳ quặc của tôi ngay trước mặt, mẹ vội vã ngước lên, một phút bàng hoàng như không tin được vào mắt mình, mẹ đưa tay lên dụi mắt, rồi quay nhìn lại tôi, không gian như ngừng lại, miệng mẹ há ra đầy ngạc nhiên và khuôn mặt bỗng dúm dó, tiếng nói tắt nghẹn, cả tôi và mẹ nước mắt chan hòa ướt mặt, chúng tôi cùng đổ ập vào vòng tay nhau, xúc động, nghẹn ngào:
-Mẹ ơi! Mẹ... tha lỗi cho con!
-Con, chính mẹ mới phải xin con tha lỗi cho mẹ!... Con gái út yêu quý của mẹ!
Chúng tôi thật sự không nhớ mình đã nói những gì, kể cho nhau nghe những gì mà thì giờ trôi qua thật nhanh, hai mẹ con đã vừa khóc vừa cười khi gợi lại những kỷ niệm xưa.
Hôm nay mới thật sự là ngày lễ Mẹ đáng nhớ nhất trong cuộc đời tôi.
Ánh nắng tắt ở cuối chân trời, tôi đã được toại nguyện đặt đầu lên vai mẹ, cảm thấy mùi hương xưa của riêng mẹ vẫn làm tôi quyến luyến, bàn tay ấm êm của mẹ vuốt lên lưng tôi, với tiếng hát rất khẽ, quen thuộc của mẹ mãi còn trong ký ức:
Gửi: Fri May 23, 2025 10:46 pm Tiêu đề: Chuyện không muốn kể - Đỗ Xuân Quý
Chuyện không muốn kể
Chuyện không muốn kể - Đỗ Xuân Quý
(Ngọc Huyền sưu tầm)
Lời chú giải
"Câu chuyện này tôi đã bắt đầu viết từ tháng 4 năm 2005 — vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày miền Nam thay đổi chế độ (hay với nhiều người, đó là ngày mất miền Nam).
Thời điểm ấy, tôi chỉ muốn ghi lại những trải nghiệm cá nhân, như một cách đối thoại với ký ức. Tuy nhiên, do có một số bạn bè thân thiết còn ở lại Việt Nam góp ý rằng nội dung có thể gây nhạy cảm và ảnh hưởng đến người khác, tôi đã tạm khép lại bản thảo ấy.
Giờ đây, sau 50 năm nhìn lại, tôi muốn viết lại — có thêm, có bớt — như một cách hoàn tất đoạn tâm tình mà tôi từng nợ chính mình. Một số nhân vật trong câu chuyện đã không còn. Và thời gian còn lại của mỗi chúng ta đã tới lúc giới hạn.
Tôi gửi lời cảm ơn đến những ai đã dành thời gian đọc câu chuyện nhỏ này. Dù là chia sẻ, đồng cảm hay chỉ đơn giản là lặng lẽ đọc đến dòng cuối cùng — với tôi, đó cũng là một sự kết nối rất quý giá."
Đỗ Xuân Quý, Tháng 4, 2025. Năm mươi năm nhìn lại.
Có những chuyện từng muốn quên đi. Nhưng càng cố quên, chúng lại càng khắc sâu trong ký ức. Những điều tôi sắp viết không phải để kể công, càng không để oán trách. Chúng chỉ đơn giản là một phần đời — những tháng năm tôi từng sống, từng giấu kín.
Sau ngày đất nước thống nhất, tôi — một sinh viên miền Nam mới ra trường — bước vào guồng máy mới với sự lạc lõng và bối rối. Từ giảng đường Sài Gòn đến nông trường Bến Cát, tôi đã đi một đoạn đường dài, không chỉ bằng đôi chân mà cả bằng sự cam chịu. Tôi học cách im lặng trong các buổi sinh hoạt lớp, sinh hoạt tổ; học cách sống sót trong cái đói, và giữ lại một chút gì đó của mình giữa một thời buổi mà con người được đo bằng khẩu hiệu.
Năm mươi năm đã trôi qua. Tôi viết lại những điều này — không phải để khơi lại vết thương, mà là để ghi lại một thời đã qua, cho chính mình, và nếu ai đó muốn đọc, thì xin mời.
Cuộc đời thiên hạ thường thì ba chìm bảy nổi, lúc lên voi, lúc xuông chó. Nhưng cuộc đời tôi chìm nhiều hơn nổi, còn voi đâu chưa thấy thì đã rớt như con rệp, chứ đâu có được con chó như mọi người.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc sống của tôi bị lật ngược một cách thê thảm. Nhưng điều làm tôi nhói lòng nhất không phải là sự nghèo khó hay bấp bênh, mà là sự tráo trở, gian trá, giả dối của những con người mà tôi từng coi là bạn. Ngày trước, chúng tôi cùng nhau mài đũng quần trong giảng đường, chia nhau từng chai bia, từng ly cà phê, hút chung điếu thuốc rẻ tiền.
Vậy mà chỉ một thời gian ngắn sau tháng tư năm ấy, một số trong bọn họ đã khoác lên mình mũ tai bèo, đôi dép râu, vai mang xách kaki màu lúa mạ, họ tìm đâu ra những thứ đó thật nhanh — bộ dạng không khác gì một anh cán bộ mới từ rừng về, hay một anh du kích nằm vùng thứ thiệt! Nhưng nhìn kỹ lại thì... người chẳng ra người, mà ngợm thì có lẽ đúng hơn.
Miệng phát ra những danh từ nghe nghịch chói tai, nào "đồng chí", nào là "khẩn trương kiểm điểm", " tốt thôi" "tích cực phát hiện người tốt, việc tốt"... Rồi họ hào hứng đứng lên tố cáo những người bạn cũ, vu cho ai đó có tư tưởng chống phá cách mạng, viết báo tường thuật, khai lý lịch của bạn bè, thậm chí ra sức "phanh phui" sự cai trị ác độc của chính quyền VNCH vừa sụp đổ, vừa cổ vũ vừa hăm doạ chúng tôi làm theo, tôi cố moi óc ra để nhớ lại cái gọi là "ác độc" ấy nằm ở đâu, nhưng nghĩ mãi không thấy. Cay đắng hơn là trong đám người vừa lột xác, có những kẻ từng là con cháu của các viên chức lớn trong chính phủ trước, thậm chí có người cha, anh là sĩ quan cao cấp trong ngành cảnh sát, quân đội. Vậy mà mới có một vài tháng sau ngày đổi đời, họ đã lật mặt, hùa theo những kẻ giả tạo, phản trắc, ra sức đấu tố, bêu rếu, thậm chí còn lợi dụng cơ hội để thanh toán ân oán cá nhân.
Có người sẵn sàng lên án bạn bè cũ chỉ vì những hiềm khích nhỏ nhoi thời sinh viên; có kẻ không ngần ngại tố cáo cả giảng viên, chỉ vì từng bị đánh trượt trong kỳ thi. Tất cả chỉ để mong được lọt vào danh sách “cảm tình” hay “đối tượng kết nạp” của cái tổ chức bẩn thỉu ấy.Tôi chứng kiến tất cả mà chỉ biết im lặng. Không phải vì sợ, mà vì hiểu rằng trong một thời buổi mà sự trung thực bị xem là lạc lõng, thì nói ra cũng chẳng thay đổi được gì. Có chăng, chỉ chuốc thêm phiền phức.
Tôi lặng lẽ bước qua những ngày tháng ấy, giữ cho mình một chút tự trọng còn sót lại giữa đám đông đang rủ nhau chạy về phía “vinh quang giả tạo”. Không vào đoàn, không xin xỏ, không tố ai để lấy điểm — điều đó có thể khiến tôi bị coi là kẻ “không phấn đấu”, nhưng ít nhất tôi không phải thẹn với chính mình.
Giữa dòng người đang dẫm lên nhau để trèo lên chiếc thang danh vọng rệu rã.
Tôi chọn cách đi ngược chiều.
Tôi nhớ có lần ngồi trong buổi họp lớp, một anh bạn cùng khóa —người miền Trung có cha là nạn nhân của sát máuTết Mậu Thân vậy mà anh hùng hồn đứng dậy chỉ tay, nói một câu mà tôi nhớ đến tận bây giờ:
"Chúng ta phải kiên quyết vạch mặt bọn tư sản, bọn có tư tưởng phản động nằm vùng! Dù có là bạn bè thân thiết cũng không được nhân nhượng! "
Tôi nhìn anh ấy, thấy rõ trong mắt anh ta không còn một chút gì gọi là thân quen. Lúc đó tôi muốn đứng dậy, hỏi anh ta: “Còn nhớ ai từng cho mày mượn tiền đóng tiền cơm tháng? Ai từng che giùm mày cái bài kiểm tra dinh dưỡng học bị thiếu điểm?” Nhưng rồi tôi im lặng. Vì tôi hiểu, nói ra cũng chỉ là lời của một kẻ đứng bên lề lịch sử, yếu thế. Những điều tử tế, trong lúc đó đã trở thành xa xỉ, dư thừa!
Cái đau không phải là mất đi tình bạn, mà là phải nhìn thấy nó chết dần, chết mòn trong sự giả dối, rồi bị lôi ra phơi bày như một thứ chứng tích lỗi thời, không còn dùng được. Vắc chanh bỏ vỏ.
Riêng tôi, tôi bị chèn ép, bị đào bới những việc làm khi còn là thành viên ban đại diện sinh viên. Những kẻ từng thất bại trong cuộc tranh cử với liên danh của tôi giờ đây hả hê bới móc, vẽ vời ra những "sai phạm" để tố cáo. Ngày xưa, họ chỉ là những kẻ cay cú vì thua cuộc, nhưng giờ đây, họ có trong tay quyền lực của "cách mạng"—một thứ quyền lực xu thời ăn theo, vừa thô bạo, vừa hơi hám của nịnh bợ thời cơ! Nhưng nó lại đủ để đạp nát tất cả những ai cản đường họ.
Những ngày đầu của tháng 5 năm ấy, tôi bị gọi lên "làm việc" liên tục ở số 4 Duy Tân. Văn phòng sinh viên học sinh thành đoàn thành phố. Cứ mỗi lần như vậy là lại một bản kiểm điểm mới, một danh sách “vi phạm” mới — nào là “có tư tưởng thân Mỹ Nguỵ”, “đã từng phát biểu mập mờ trong buổi sinh hoạt ban đại diện sinh viên năm 74”, thậm chí có người còn tố rằng tôi “không đứng dậy vỗ tay đúng lúc” trong một buổi lễ mít-tinh chào cờ sau ngày 30 tháng 4! có kẻ tố tôi đã ngủ gục trong lúc học chính trị ở giảng đường...
Ban đầu tôi tức giận. Sau đó là sững sờ. Rồi đến lúc, tôi chỉ còn thấy mệt mỏi. Mệt vì phải biện minh cho những điều vô lý. Mệt vì phải đứng giữa một sân khấu mà kịch bản đã được viết sẵn từ lâu, chỉ chờ tôi bước lên để diễn phần bịa đặt để “kẻ phản động im lặng chịu đòn”.
Trước niên học cuối, năm 1974 tôi và anh chủ tịch đã từng bị nhân viên của Nha Cảnh Sát Quốc Gia gọi lên thẩm vấn. Họ nghi chúng tôi hoạt động trong phong trào sinh viên học sinh chống phá chính quyền, thậm chí có liên quan đến nhóm đã ám sát anh Nguyễn Khắc Sinh Nhật hay giáo sư Bông. Tôi còn nhớ rất rõ cái cảm giác khi ngồi đối diện với viên sĩ quan cảnh sát năm đó—nghi hoặc, dò xét, nhưng vẫn còn khuôn khổ của một cuộc thẩm vấn theo thủ tục. Nhân bản.
Bây giờ, sau ngày 30 tháng 4, tôi lại một lần nữa bị gọi lên số 4 Duy Tân. Nhưng lần này, không còn là những câu hỏi dò xét theo quy củ nữa, mà là những lời buộc tội thẳng thừng, đầy uy hiếp:
— Chào anh, anh cho biết tên tuổi và quê quán.
— Anh có biết anh chủ tịch làm việc với anh hiện đang ở đâu không?
— Anh hãy khai thật, khai hết để chúng tôi tạo điều kiện cho anh sinh hoạt.
— Đây là hồ sơ của anh và anh chủ tịch. Chúng tôi có đầy đủ. Anh hoạt động cho Tổng Nha hay Phượng Hoàng? Anh hãy khai vào đây, chúng tôi sẽ đối chiếu...
Tôi ngồi đó, đầu óc quay cuồng như vừa trải qua một cơn ác mộng. Tôi biết tất cả những gì họ đang nói là vu khống, là bịa đặt, nhưng tôi cũng hiểu rằng, kẻ đang ngồi trước mặt tôi là kẻ có quyền. Kẻ chiến thắng. Kẻ đang lợi dụng thời cơ để thôn tính, để thay chiều đổi gió. Tôi cảm thấy run sợ.
Tôi nghĩ đến những lời cha tôi từng kể về những nhà tù dưới chế độ cộng sản, về những cuộc đấu tố, thanh trừng, những bản án không cần xét xử. Tôi hình dung những bức tường giam lạnh lẽo, những tháng năm đằng đẵng bị giam cầm mà không biết ngày nào được trở về. Ý nghĩ ấy làm tôi bủn rủn cả chân tay...
Rồi anh ta nhìn thẳng vào tôi. Đôi mắt anh ta vô cảm, nhưng trong đó lại ánh lên một tia sắc lạnh khó tả. Tôi còn chưa kịp định thần thì anh ta đã đặt một tập giấy xuống bàn trước mặt tôi:
— Giấy đây, anh qua bàn bên kia tự khai, ký vào. Thiếu giấy thì tôi đưa thêm.
Tôi nhìn chằm chằm vào tập giấy dày cộm. Mồm tôi há ra vì ngạc nhiên. Tôi phải viết gì vào đây cho "đủ" để họ hài lòng? Nhưng lúc này, tôi như một cỗ máy đã bị lập trình sẵn. Tôi cầm bút, bắt đầu viết.
Tôi viết từ những năm lên sáu, lên bảy ở miền quê, khi còn chăn trâu, đập đất, ươm giống trồng cây...Tôi kể về những ngày chạy ra Đà Nẵng vì chiến tranh và thiên tai, sáng bán bánh mì, phụ mẹ làm bún, chiều về phụ cưa gỗ với cha, học xong trung học, một mình vào Sài Gòn học tiếp. Cha già, mẹ ốm, họ hàng chẳng có ai đi vào bưng ra Bắc. Một cuộc đời bình thường, thậm chí là quá đỗi bình thường.
Tôi viết hơn bốn trang thì buông bút, ký tên, trao lại cho anh ta. Bụng đói cồn cào, cổ họng khô khốc vì khát nước. Nhưng quan trọng hơn hết, tôi đang hồi hộp chờ xem số phận mình sẽ ra sao.
Anh ta lật qua mấy trang giấy, lướt nhìn một cách hờ hững, rồi ngẩng lên, lạnh lùng ra lệnh:
— Ngày thứ Hai, anh quay lại gặp tôi.
Tôi đứng dậy, bước ra khỏi căn phòng ngột ngạt ấy mà lòng nặng như chì.
Nắng trưa hắt xuống mặt đường Duy Tân những vệt sáng chói chang như thiêu đốt. Tôi đi mà chẳng biết mình đang đi đâu. Phố xá trở nên xa lạ, như thể tôi vừa bị đẩy ra khỏi một thế giới mà mình không còn được phép thuộc về.
Tôi cố gắng nhớ lại tên của người đàn ông vừa thẩm vấn mình. Họ gọi anh ta là “đồng chí Thật”. Phải một thời gian sau tôi mới biết, anh ta có tên là H.T.M. “Thật” chỉ là bí danh.
Trước căn biệt thự sang trọng, bên công viên con Rùa, có một chiếc bàn nhựa cũ kỹ cùng vài ba chiếc ghế thấp lè tè. Tôi ngồi phịch xuống, gọi một ly trà đá. Khi chị bán nước bưng ly ra, ánh mắt chị nhìn xa xăm, như thể giấu một nỗi lo nào đó. Tôi nhìn xuống đôi bàn tay trắng, mượt mà của chị — đôi tay không có vẻ gì của người từng quen với vất vả — rồi thấy tim mình nhói lên. Một nỗi buồn rất nhỏ, nhưng cũng rất thật. Của sự thật thà, của đổi đời, của một cuộc sống đã bị đảo ngược.
Chắc chị... chắc chị cũng như tôi. Hoặc tệ hơn.
Tôi ngồi đó, uống từng ngụm trà như uống vào người cả nỗi lo, sự mỏi mệt, và cả cái bất lực đang len lén dâng lên từ đáy lòng.
Chắc họ đã nhận ra ở tôi không còn gì để khai thác, nên đến lần thứ tư, họ lạnh lùng thông báo: hồ sơ của tôi đã được chuyển về Trường Đại học Nông Nghiệp 4 Thủ Đức. Bắt đầu từ hôm nay, anh sẽ chịu sự "quản lý" của Ban Bí thư tại đó.
Quản lý tôi à? Tôi muốn bật cười, nhưng nỗi lo và cảm giác mất phương hướng khiến tôi chỉ biết im lặng mà bước đi. Bước lẹ — bước thật lẹ. Bước ra khỏi nơi ấy như một cái xác không hồn.
Nửa tháng sau, tôi nhận được giấy báo tập trung tại số 45 Cường Để để nhận “chỉ thị” đi đào kênh thủy lợi ở Cần Đước. Một hình thức bóc lột sức lao động trá hình, mà trước đây chúng tôi chỉ nghe qua sách báo — giờ thì nó hiện ra. Rõ ràng. Rành rành. Không còn chối cãi được nữa.
Hai tuần, chúng tôi lội bùn, đào đất dưới cái nắng cháy da. Vùng đất phèn nứt nẻ, cằn cỗi của miền biển hoang vu như muốn vắt kiệt sức lực cuối cùng trong cơ thể con người. Mỗi sáng, tôi cùng hàng trăm sinh viên khác lầm lũi bước trên con đê gồ ghề. Chân trần rướm máu, bụng đói meo, nhưng vẫn phải bước đi như chưa từng có điều gì xảy ra. Như thể chưa từng có tuổi trẻ, chưa từng có giảng đường, chưa từng có những mộng mơ ngày nào.
Buổi chiều ngày đầu của tuần lễ thứ hai, trên đường về lều, một bạn đồng môn — học sau tôi một năm — đã không may bỏ mạng bên con mương sình lầy nước cạn. Cái chết đến đột ngột, lặng lẽ như thể anh chưa từng tồn tại.
Ngay chiều hôm đó, chúng tôi nhận được lệnh: tuyệt đối không được nhắc đến cái chết của anh, không được bàn tán hay thắc mắc bất cứ điều gì. Lệnh do một đoàn viên thanh niên cọng sản (30 tháng 4) tên là Tư Ren, sinh viên năm thứ ba truyền xuống — một cái tên xa lạ, một khuôn mặt không ai trong nhóm của tôi biết rõ. Một kẻ lạ lẫm đến mức... chúng tôi chỉ còn biết gọi anh ta là “đồng chí Đực”.
Đêm hôm đó, trại lao động im ắng một cách lạ thường. Không ai nói một lời nào về cái chết của người bạn xấu số, nhưng ai cũng hiểu rằng sự im lặng ấy không phải vì không có gì để nói — mà vì không được phép nói. Tôi muốn chia sẻ ý nghĩ của tôi với người bạn đồng khoá bên cạnh, nhưng nghi ngờ, bất tín nên thôi...
Tôi nằm trên chiếc chiếu rách trải trên nền đất cứng, đầu óc quay cuồng giữa tiếng dế rúc và mùi phèn ngai ngái thấm vào tận phổi. Gió từ ngoài cánh đồng thổi vào lạnh buốt, nhưng trong lòng tôi lại dậy lên một thứ nóng ran — là giận, là đau, hay là bất lực, tôi không rõ.
Tôi nhắm mắt, cố gắng nhớ lại gương mặt anh ấy. Anh học sau tôi một khóa, hiền lành, hoạt bát. Nhà của anh ở gần trường Đắc Lộ, khu dệt Bảy Hiền. Anh là một Dự Trưởng hay Huynh Trưởng trong hướng đạo sinh. Trước đây vẫn thường đến nhà tôi mượn sách, có hôm còn rủ tôi đi uống cà phê ở ngã tư bịnh viện Vì Dân. Không ai ngờ, một người như thế lại chết tức tưởi dưới con mương nước phèn như một cọng cỏ bị giẫm lên mà không ai được quyền hé răng tiếc thương.
Trong bóng tối, một giọng thì thầm vang lên từ cuối dãy lều:
— Vũ chết mà không ai dám thắp cho nó một nén nhang...
Không ai đáp. Nhưng trong bóng đêm ấy, tiếng thở dài khe khẽ vang lên từ nhiều phía — như một câu trả lời câm lặng.
Tôi quay mặt vào vách, cắn chặt răng để không bật ra thành tiếng. Ở một nơi mà đến cái chết cũng phải im lặng, thì sự sống còn ý nghĩa gì?
Sau hai tuần vất vả đào con kênh Cần Đước, chúng tôi được đưa trở lại trường, trong khu làng Đại học Thủ Đức. Những tưởng sẽ được bố trí đi làm, ai ngờ thay vào đó là những giờ "học tập chính trị" khô khốc — học về đường lối chủ nghĩa cộng sản, học về tư tưởng cách mạng qua những cuốn sách... mà nội dung vừa mơ hồ vừa buồn cười — cười không nổi, mà khóc cũng không xong.
Tôi còn nhớ rõ cuốn "Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng" của ông Lê Duẩn — một thứ văn chương đầy khẩu hiệu, lê thê và đơn điệu. Trình độ, nếu có thể gọi là trình độ, thì chỉ nhỉnh hơn sách giáo khoa lớp sáu đôi chút... vậy mà chúng tôi phải ngồi mổ xẻ, thảo luận, rồi viết bài ca ngợi. Ca ngợi điều gì, tôi chẳng rõ. Mà có khi chính họ cũng chẳng rõ. Đọc mãi mà đầu óc tôi như muốn nghẹt lại trong những câu từ sáo rỗng và vô hồn.
Chưa hết, họ bắt chúng tôi xem phim. Nào là Xê-Muốc, nào là Thép đã tôi thế đấy — toàn những bộ phim dựng nên từ những ảo tưởng điên rồ: Một con quỷ nhạo báng, chế diễu phụ nữ, một thanh niên bỏ người yêu, bỏ gia đình, bỏ cả chính mình... để chết cho một con đường rầy, một lý tưởng mà chẳng ai dám hỏi nó là gì?
Tôi ngồi trong lớp, mắt dán vào màn ảnh, mà đầu óc thì trôi dạt đâu đâu. Tôi không thấy niềm tin, không thấy lý tưởng, chỉ thấy một mớ hình ảnh giả tạo được thổi phồng thành lý tưởng sống. Mà trớ trêu thay, nếu anh không vỗ tay đúng lúc, không viết vài dòng ngợi khen lấy lệ — thì có khi lại bị “báo cáo” vì tư tưởng không tích cực. Hài kịch đã biến thành hệ thống.
Trước ngày tôi lên đường làm luận trình về bệnh lý gia súc vùng đồng bằng Hậu Giang, giáo sư H., chủ nhiệm khoa Thú y, gọi tôi vào văn phòng ông. Trước năm 1975, ông từng là du học sinh ở Ba Lan. Ông có tư tưởng cởi mở, ảnh hưởng phương Tây rõ rệt, và là người tôi luôn thầm kính trọng. Không phải vì ông dễ dãi, mà vì ông có một sự sắc sảo, điềm đạm — một thứ trí tuệ khiến người ta lặng lẽ kính trọng, khác hẳn với phần đông những người “có chức” lúc bấy giờ. Và quả thật, tôi đã không nhìn sai người.
Tôi bước vào phòng, nhẹ tay khép cửa lại như thể chính tôi cũng cảm nhận được rằng sắp có điều gì đó không nên lọt ra ngoài. Tim tôi đập nhanh, trong lòng dâng lên chút lo lắng mơ hồ. Nhưng ông vẫn bình thản, chỉ tay cho phép tôi ngồi xuống, ánh mắt không một chút gay gắt.
Sau vài câu hỏi xã giao, ông đi thẳng vào chuyện:
— Anh có biết anh bí thư Đoàn, Tư R?
Tôi hơi bất ngờ, đáp nhỏ:
— Dạ... không, thưa thầy. Em biết anh ấy khi đi đào kinh Cần Đước
— Còn anh Nguyễn Văn H? Anh biết không?
— Dạ chưa hề nghe tên.
Ông nhíu mày, nhìn tôi như dò xét:
— Anh học bốn năm, hết ba năm cùng trường với anh ấy, mà nói không biết là sao?
Thật ra H. là Tư R.! Tư R. là tên bí danh của anh ta.
Tôi hơi lúng túng:
— Dạ... không, thật sự không có tiếp xúc, nhưng có chuyện gì không thầy?
Giọng ông chùng xuống, đều đều nhưng không giấu được sự nghiêm trọng:
— Anh ấy đã viết báo cáo về anh, nói với tôi rất nhiều về anh. những điều... không có lợi cho anh, không tốt lắm.
Tôi cảm thấy người lạnh đi như có luồng gió thổi ngược qua sống lưng.
— Vậy... vậy hả thầy? Em... em có thể biết vài điều cụ thể không?
Ông thở nhẹ, rồi nói như một lời dặn:
— Tôi chưa biết hư thực, đúng sai nhưng tôi biết ngày mai anh đi Hậu Giang. Anh cứ cố gắng làm tốt công việc... để tôi làm việc trực tiếp với anh bí thư.
Bước ra khỏi phòng khoa trưởng, tôi chỉ muốn chửi thề một tiếng thật to. Thật tình, cái tên mà tôi đặt cho hắn — “đồng chí Đực” — đúng là không thể nào tìm ra từ nào hợp hơn. Mà đã có đồng chí Đực, thì tất phải có đồng chí Cái.
Cô ta học sau hắn một năm, cũng là một “đồng chí 30 tháng Tư” điển hình — xuất thân bất ngờ, lột xác thần tốc, rất giỏi “bắt sóng” thời thế. Và cả hai đều giỏi một thứ giống nhau: nghe ngóng, leo lên, đạp đổ bạn hữu... và không bao giờ nhìn xuống.
Đực và Cái — một cặp đôi, một đôi tình nhân vụng trộm — ăn ý đến mức khiến người ta rùng mình. Họ kết hợp nhịp nhàng trong việc bóc lột và tiếp tay cho đoàn viên thủ kho tên D., người quản lý kho thực phẩm ký túc xá. Đêm nào cũng vậy, sau 10 giờ, khi lệnh “đóng cửa phòng, đóng cửa cư xá” được ban ra, là tôi biết: bọn họ chuẩn bị “ra quân”.
Lệnh được ban không phải để duy trì trật tự, mà để tiện cho việc tuồn gạo ra chợ Thủ Đức. Gạo được nhét vào những chiếc ba-lô nặng trĩu, chở bằng xe đạp len lỏi trong bóng đêm, rồi sáng sớm lại lặng lẽ quay về như chưa từng có gì xảy ra.
Dù trong phòng tôi đã có một anh đoàn viên “cắm” vào để theo dõi — chiếm luôn một cái giường để hợp thức hóa vai trò giám sát — nhưng mấy trò ma giáo kia đâu qua mắt được tôi. Mỗi lần nghe tiếng xe đạp lạch cạch ngoài hành lang, va nhau loảng xoảng trong im lặng, là tôi biết: đồng chí Đực và đoàn viên thủ kho D. đang đèo nhau, gạo trên lưng, tiền trong đầu, và dối trá đầy túi — thẳng tiến về Thủ Đức.
Hồi ấy có chương trình “khuyến mãi” kỳ lạ: mỗi sinh viên được mua một cây bút mực Trung Cộng với giá 10 đồng — rẻ hơn nhiều so với giá chợ đen vốn đã lên tới 20 đồng. Anh em chúng tôi mừng rỡ, chạy vạy khắp nơi vay mượn cho đủ, hy vọng kiếm được chút lời ít ỏi. Lúc đó, lương kỹ sư mới ra trường cũng chỉ 44 đồng mỗi tháng, nên 10 đồng là cả một gia tài.
Chúng tôi nộp tiền đầy đủ, rồi kiên nhẫn chờ đợi. Chờ mãi. Đến gần ngày ra trường, đồng chí Đực mới lạnh lùng đứng lên tuyên bố: sẽ hoàn trả tiền vì “không mua được hàng”.
Nhưng sự thật thì khác. Họ đã bán sạch mấy ngàn cây bút đó ngoài chợ Lăng Cha Cả và Tân Định từ lâu, với giá gấp đôi — bỏ túi riêng. Một lũ lưu manh khoác áo “cách mạng”. Thật không còn lời nào để nói.
*****
Đúng một năm sau ngày mất nước, tin về luận trình của tôi được chọn là một trong ba đề tài để bảo vệ trước hội đồng giám khảo. Một tin vui mà tôi đã chờ đợi từ lâu — vì nếu được đề cử bảo vệ luận trình, nghĩa là tôi đã nắm chắc hơn 90% tấm bằng Thú Y trong tay. Phần còn lại chỉ là môn chính trị tư tưởng — ai cũng biết là chỉ cần gật gù cho qua. Tôi thở phào. Vì nếu thi vấn đáp mà rớt, tôi sẽ ra trường với cái bằng trung cấp, lương tháng 30 đồng. Mất đứt 14 đồng so với lương kỹ sư — một khoản chênh lệch đủ lớn để gọi là... một khối tài sản khổng lồ thời đó!
Ngày thi môn chính trị, dưới sự giám sát của bảy giám khảo, tôi không may bốc trúng câu hỏi:
"Anh (chị) hãy trình bày quá trình hình thành và phát triển của xã hội chủ nghĩa ngoài miền Bắc hiện tại."
Tôi đứng dậy, thưa chào hội đồng rồi phát biểu:
Thưa giám khảo, nếu yêu cầu trả lời theo sách vở, thì em xin phép trình bày. Còn thực tế đời sống xã hội chủ nghĩa ngoài miền Bắc — em hoàn toàn không rõ. Vì thời đó, dân miền Nam như chúng em bị cấm tuyệt đối không được ra Bắc, trừ khi là con cháu cán bộ hoặc gia đình có công lớn với cách mạng.
Tôi vừa dứt câu, chưa kịp thở ra, thì ông Mười K. — Bí thư Đảng ủy, một người nổi tiếng nóng nảy và cực đoan — đập mạnh bàn đến nỗi ly nước trên mặt bàn văng tung toé. Tôi giật mình, mặt tái mét, tay chân lạnh ngắt như có gió rít trong xương. Ông quát lớn, mắt long sòng sọc:
"Anh không biết gì về xã hội chủ nghĩa à?! "
Tôi chưa kịp định thần, còn run lẩy bẩy thì may thay, Giáo sư H. — Chủ nhiệm khoa Thú Y — lên tiếng can thiệp cứu tôi; Ông ôn tồn đỡ lời:
Nếu anh chưa từng ra miền Bắc thì thôi, hãy trình bày về chủ trương, đường lối kinh tế của xã hội chủ nghĩa cũng được.
Tôi gắng nuốt nước bọt, gom góp những gì còn sót lại trong đầu: toàn là những khẩu hiệu, cụm từ thuộc lòng về “kinh tế kế hoạch hóa tập trung,” về “cải tạo công thương nghiệp,” về “lao động là vinh quang”... rồi cố gắng ghép chúng lại thành một bài diễn thuyết trôi chảy. Tôi tô vẽ bằng thứ ngôn từ mà chính tôi cũng không tin nổi — như thể đang làm chứng cho một thế giới tôi chưa từng đặt chân đến. Một thế giới được gọi là “cộng lại rồi chia đều” — cái khái niệm mơ hồ mà trong giới sinh viên chúng tôi vẫn gọi bằng một tiếng khô lạnh: cộng sản.
Sau này tôi mới hiểu ra — nói thật, trong nhiều hoàn cảnh, chính là tự tay đưa viên đạn vào nòng mà mình là kẻ phải hứng. Im lặng hay dối trá còn có thể sống. Nhưng một lời nói thật, trong một xã hội bắt đầu nhiễu nhương — đôi khi cũng đủ để tiễn một con người ra khỏi cuộc chơi bằng đủ mọi hình thức.
Đến tháng 8 năm 1976, tôi nhận được quyết định bổ nhiệm về Ty Nông Nghiệp Sông Bé, cùng với bảy người bạn đồng khóa. Chúng tôi được phân về các ngành: Trồng trọt, Thủy lợi, Chăn nuôi và Lâm nghiệp. Sau một tuần ở Ty, cả nhóm vẫn còn mòn mỏi chờ đợi quyết định phân công nhiệm sở chính thức.
Tôi thầm hy vọng sẽ được về một nơi nào đó gần Bình Dương hoặc Lái Thiêu — vùng đất màu mỡ, dân cư đông đúc, tiện đường đi lại, và quan trọng hơn hết: gần người yêu học cùng trường đang chuẩn bị thi ra trường. Nhưng rồi, hy vọng nhanh chóng vỡ vụn khi chúng tôi nhận tin: tất cả đều bị điều động lên Bình Long, An Lộc, Bù Đăng, Bù Đốp... những vùng rừng thiêng nước độc, xa xôi hẻo lánh.
Tôi quyết định tìm gặp ông Chín S. trưởng ty, để trình bày nguyện vọng. Tôi phân trần rằng ngành thú y, nếu đưa lên những nơi heo hút ấy, sẽ rất khó triển khai công việc vì thiếu thốn cả phương tiện lẫn cơ sở vật chất. Tôi xin được ở lại Ty, nhận bất kỳ nhiệm vụ nào cũng được. Nhưng ông chỉ lắc đầu, bảo nhân sự ở đây đã đủ, không thể ưu ái riêng cho ai.
Thất vọng tràn trề, tôi vẫn cố tìm cho mình một lối khác. Sáng sớm hôm sau, khi trời còn chưa kịp sáng rõ, tôi đạp xe xuống khu bến xe thị trấn Bình Dương để quan sát cảnh buôn bán, vận chuyển hàng hóa giữa các vùng. Những chiếc xe đò cũ kỹ, chạy bằng than, nhả khói đen kịt, chất đầy măng tươi, măng khô, khoai mì, khoai lang từ các vùng rẫy xa xôi đổ xuống. Chiều ngược lại, xe chở rau tươi, trái cây, heo, gà... lên trở về. Cảnh tượng lầm lũi, kham khổ ấy khiến tôi hình dung ra rõ ràng cái nơi khắc nghiệt mà mình sắp phải đến.
Nhìn thấy vậy, tôi đi đến một quyết định: bỏ nhiệm sở.
Tối hôm đó, trong buổi họp tổ cuối cùng trước ngày lên đường, anh tổ trưởng — một đoàn viên mẫu mực, con trai của một ông huyện ủy hay công an gì đó ở Củ Chi — biết tôi không đăng ký vé xe đi Bù Đốp. Thế là anh ta được dịp lên lớp, "dũa" tôi một trận tả tơi.
Giọng anh ta oang oang như một cán bộ tuyên huấn non tay:chụp ngay cái mũ "tư sản mại bản", bị kết luận là "cá nhân chủ nghĩa" phủ lên đầu tôi, là "thiếu tinh thần tập thể", là "bỏ lỡ cơ hội phấn đấu vào Đoàn, vào Đảng", là "sẽ trôi dạt như một kẻ không Tổ quốc, không lý tưởng, sống lay lắt ngoài lề lịch sử"... Nghe mà thấy buồn cười cho cái trò rao giảng đầy khẩu hiệu của một gã trẻ tuổi tưởng mình đang đứng trên bục cách mạng.
Tôi ngồi im. Ngoài mặt thì làm ra vẻ trầm tư, hối lỗi — nhưng trong lòng thì chỉ muốn phá lên cười. Khinh bỉ. Cái thứ lý tưởng mà họ rao giảng nghe rỗng tuếch, bày ra chỉ để kiểm điểm nhau, xếp hạng nhau, giành nhau một suất “vào biên chế” hoặc có cơ hội cất đầu giữa đám đông. Không ai tin vào điều họ nói — kể cả chính họ.
Sáng sớm hôm sau, khi các bạn cùng cảnh ngộ còn đang loay hoay chất ba lô, kiểm tra giấy tờ chuẩn bị lên đường đi xuống bến xe, tôi lặng lẽ gói ghém vài thứ cần thiết, nhét vào chiếc ba lô cũ sờn quai. Không một lời từ biệt, không trống không kèn, tôi đạp chiếc xe đòn dông rệu rã, âm thầm rời khỏi khu tập thể của Ty Nông Nghiệp Sông Bé
Con đường đất đỏ mấp mô dưới bánh xe như dài vô tận. Tôi cứ thế đạp đi, đạp mãi, hướng về Sài Gòn — nơi tôi từng gọi là nhà. Trong lòng là một mớ cảm xúc hỗn độn: vừa tiếc nuối, vừa lo âu, vừa le lói hy vọng. Tôi không biết rồi ngày mai sẽ ra sao, nhưng có một điều tôi biết rất rõ: nếu ở lại, tôi sẽ chết mòn trong một cuộc đời mà mình không hề lựa chọn.
Nắng hôm ấy như thiêu như đốt, mồ hôi thấm ướt lưng áo. Mỗi vòng bánh xe quay là một lời nhủ thầm: không quay lại nữa. Tôi đã từ bỏ sự sắp đặt, để tự mở ra một con đường cho chính mình — dù phía trước chỉ toàn những ngã rẽ mù mịt. — Về đến nhà của chị tôi, tôi mới sực nhớ anh trưởng toán còn "quản lý" giấy hộ khẩu của tôi. Một tờ giấy. Một sợi dây xích thời đại.
Sau một đêm trằn trọc suy nghĩ, sáng hôm sau tôi quay lại Ty Nông Nghiệp để gặp lại ông Chín S. Tôi thưa thật rằng mình xin bỏ nhiệm sở, và nếu có thể, mong ông giúp tôi một chỗ làm khác và cũng không quên xin ông giúp tôi xin lại cái bản sao của tờ hộ khẩu! Ông mỉm cười — một nụ cười nhẹ, đầy cảm thông.
Ông bảo tôi ngồi xuống chiếc ghế ở phòng tiếp tân, rót cho tôi một chén trà rồi chậm rãi hỏi về trình độ tiếng Anh và chuyên môn của tôi.
Tôi trả lời thành thật. Ông gật gù, suy nghĩ một lúc rồi nói:
Tôi sẽ giới thiệu cậu về làm ở đại diện Bộ Nông Nghiệp phía Nam, trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ở đó họ đang cần một bác sĩ thú y có trình độ ngoại ngữ để làm việc với chuyên gia Ấn Độ về việc chăm sóc đàn trâu sữa Murrah, sắp được chuyển thêm về trung tâm bò sữa Bến Cát — món quà của Thủ tướng Ấn Độ tặng nước mình. Cậu về đó, xin phục vụ.
Nghe chú nói, lòng tôi trào lên một niềm biết ơn thầm lặng. Giữa những tháng ngày ngả nghiêng, tôi vẫn còn một cánh cửa nhỏ hé mở — một lối thoát mong manh để bám víu lấy chuyên môn, giữ lấy chút hy vọng cho cuộc đời phía trước.
Tôi đến văn phòng đại diện Bộ Nông Nghiệp. Sau buổi phỏng vấn chuyên môn và kiểm tra Anh văn, tôi được nhận vào làm ngay. Tưởng đâu mọi chuyện đã yên, nào ngờ khi bước sang phần sinh hoạt chính trị, tôi lại thấp thỏm lo âu.
Ông trưởng phòng người miền Bắc, giọng nói Thái Bình hay Bùi Chu rất nặng hỏi thẳng: — Sinh hoạt đoàn, đảng của cậu đến đâu rồi?
Tôi rụt rè đáp: — Dạ, con chỉ mới được kết nạp làm hội viên trước ngày ra trường thôi ạ.
Ông ngẩng lên, ánh mắt đượm vẻ ngờ vực:
— Tại sao? Sinh viên học sinh thành phố đều là hội viên cơ. Hay cậu muốn nói là cậu kết nạp vào Đoàn?
Tôi lí nhí:
— Dạ không, thưa thủ trưởng. Con chỉ là hội viên thôi ạ.
Tôi định nói thêm: con đã từng bị “trù ếm” nhưng lại thôi.
Ông trầm ngâm giây lát, rồi tôi nhớ ông đã thở dài: — Thôi được. Sáng thứ hai, tám giờ, cậu trở lại đây, đem theo hộ khẩu và áo quần đủ dùng một tuần. Sẽ có xe đưa cậu về Trung tâm. Cuối tuần, nếu muốn, có xe đón về thành phố.
Tôi thở phào, nhưng trong lòng vẫn nặng trĩu những lo lắng mơ hồ.
Trưa thứ hai, chú Sâm — tài xế của Bộ NN— đưa tôi đến Trung tâm Trâu Bò Sữa Bến Cát. Nông trường có hơn ba trăm công nhân, phần lớn là lao động từ Hà Nam Ninh, Thanh Hoá, Nghệ An, cùng vài cán bộ trung cấp ngành chăn nuôi từ trại bò Ba Vì.
Nổi bật nhất là anh hùng lao động Hồ Giáo — quê Quảng Ngãi, đồng hương với Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Vì thế, ông được giao nhiệm vụ đặc biệt: chăm sóc bốn con trâu Murrah giống do chính phủ Ấn Độ tặng riêng cho ông Đồng.
Ông Hồ Giáo vừa là anh hùng lao động, vừa là đại biểu Quốc hội khóa I, nhưng trình độ học vấn rất thấp. Ông thân thiện với tôi, có lẽ vì tôi hay giúp ông đọc và viết thư từ Quốc hội gửi về, và cũng vì tôi trực tiếp chăm sóc trâu của Thủ Tướng — trách nhiệm mà ông chỉ tin tưởng giao cho tôi. Ngoài tôi ra, ông cấm tiệt không ai được bén mảng đến gần bốn con trâu ấy.
Dù tôi là cán bộ miền Nam đơn độc giữa tập thể toàn người "từ Bắc vào", ông Hồ Giáo vẫn quý mến tôi đặc biệt.
Ngoài công việc thú y, tôi còn lái máy cày, lái xe tải chở thức ăn ra nông trường. Đôi khi, tôi bập bẹ tiếng Anh trao đổi với chuyên gia thú y Ấn Độ. Cũng vì vậy mà có tin đồn lan ra: “Thằng đó chắc là tay sai Nguỵ còn sót lại! ” (!)
Cuộc sống ở trung tâm Bến Cát với tôi những ngày đầu vừa lạ lẫm vừa ngột ngạt. Sáng ra chuồng trâu cùng ông Hồ Giáo, kiểm tra sức khoẻ từng con như thể đang chăm báu vật quốc gia. Ban ngày thì phụ với các em công nhân dọn chuồng, quét dọn, lội suối bắt cua, tìm cá... gánh rơm trộn bã mía làm thức ăn cho trâu mới có con... cho qua ngày.
Công việc đã nặng nhọc, không khí chính trị lại càng ngột hơn, nào là sinh hoạt tổ, họp chi bộ, phê bình tự phê bình... Tôi — một thanh niên miền Nam mới ra trường — cảm thấy hoàn toàn xa lạ, gượng gạo.
Mỗi lần họp, tôi chỉ biết ngồi im, nghe đồng chí tổ trưởng thao thao bất tuyệt: phải “nâng cao tinh thần cách mạng”, phải “học tập gương Bác Hồ vĩ đại”, phải “chống tư tưởng tự do, cá nhân chủ nghĩa”... Tôi nghe mà đầu óc trống rỗng, chỉ mong buổi họp sớm kết thúc.
Thỉnh thoảng, tôi bị "gợi ý" phát biểu. Tôi đành nói vài câu cho qua chuyện, nhưng trong lòng ngày càng chán nản. Tôi dần hiểu: nơi đây — và cả đất nước lúc đó — không cần những người biết suy nghĩ, mà chỉ cần những người biết phục tùng.
Buổi tối, sau bữa cơm tập thể lèo tèo vài cọng rau muống với muối hột, thêm mấy miếng mỡ nổi lềnh bềnh, tôi thường ngồi một mình trước hiên lán, ngước nhìn bầu trời đen đặc. Tôi nhớ Sài Gòn, nhớ ánh đèn, thèm một bữa cơm có thịt, có cá. Tôi nhớ những giấc mơ còn dang dở, nhớ người yêu đang ở cư xá B của NN4...
Tôi tự hỏi: mình còn phải đi bao xa, chịu đựng bao lâu nữa mới tìm được một lối thoát cho chính mình?
Những tháng ngày ở Bến Cát, cái đói len lỏi trong từng bữa ăn. Chúng tôi sống cầm chừng bằng bo bo, khoai mì, sắn lát. Thịt cá trở thành xa xỉ, còn cơm trắng thì chỉ còn trong ký ức.
Một chiều oi ả tháng Ba, trên đường từ lán trại về khu tập thể, nhóm công nhân bất ngờ phát hiện một con rắn xanh nhỏ bằng ngón chân. Cả nhóm nhào theo bắt sống nó. Con rắn cố vùng chạy, nhưng cuối cùng cũng bị khuất phục trong tay một cậu công nhân trẻ...
Chiều hôm đó, tôi được phân công viết giấy xin thủ kho Chuyền tạm ứng hai lạng gạo và một muỗng mỡ để nấu cháo rắn. Bác Mộc — người lớn tuổi nhất nhóm — nhận phần chế biến. Bác tách riêng thịt rắn để nấu cháo, còn da và xương thì băm nhuyễn, trộn bột mì làm nem rán.
Không một phần nào của con rắn xấu số bị bỏ phí. Cái đói dạy chúng tôi trân trọng từng chút thức ăn, dù nhỏ đến đâu.
Tối đó, tôi có được một tô cháo nóng — một bữa “cao lương mỹ vị” giữa những ngày đói khát mịt mù. Nhiều anh kỹ sư từng du học Đông Âu mới về, giờ ngồi bó gối trong căn bếp ám khói mà chửi đổng. Họ nguyền rủa một chế độ phản bội lời hứa, bóc lột dân đến tận xương tủy, đẩy trí thức vào cảnh đói rách ê chề. Nhưng rồi tiếng chửi cũng nhanh chóng chìm vào tiếng gió rít và những cái tai đang rình rập ngoài kia.
Tôi hiểu, ở vùng đất bị lãng quên này, người ta sống sót không nhờ lý tưởng, mà bằng sự cam chịu.
Chiều thứ Sáu, xe Bộ Nông Nghiệp lại đón tôi về Sài Gòn. Tôi mang theo một ít thuốc trụ sinh quá hạn — viện trợ của chính phủ Cuba loại dùng cho người nhưng được tận dụng để trị bệnh cho gia súc. Tôi giấu riêng một ít đem xuống chợ trời Lăng Cha Cả bán kiếm tiền tiêu vặt.
Chú Sâm, người tài xế quen thuộc, vừa giảm tốc độ trên đường Nguyễn Văn Thoại thì từ xa đã thấy một nhóm người ào tới, kẻ đi, người chạy, người phóng xe bám sát theo sau. Xe vừa dừng, tôi lập tức bị vây kín như mồi ngọt giữa đàn kiến.
Trong đám đông hỗn loạn ấy, tôi bất chợt nhận ra hai anh đoàn viên từng cùng tôi trình diện ở Ty Nông Nghiệp Sông Bé. Họ cũng thấy tôi — nhưng đã quá muộn để quay đi. Cả hai lảng nhanh vào một quán trà đá bên kia đường, giả vờ như chưa từng quen biết
Bán xong thuốc, tôi thong thả bước sang quán, đến thẳng bàn hai anh. Tôi mỉm cười, chào thân mật, rồi móc túi trả tiền hai ly trà đá. Họ lúng túng, bắt tay cảm ơn ríu rít. Trước khi quay đi, tôi buông một câu nhẹ mà thấm:
— Nếu hai anh có dịp trở lại Bù Đăng – Bù Đốp, cho tôi gởi lời chào ông Phong toán trưởng nhé.
Một anh vội vàng tiếp lời:
— Nó bỏ nhiệm sở trước tụi tau rồi
Tôi nhép môi cười — Chào nhe. Hẹn gặp...
*****
Sau hơn hai năm vật lộn ở Bến Cát, các chuyên gia thú y Ấn Độ đã về nước từ lâu, lương của tôi lúc bấy giờ được 52 đồng một tháng, trước khi khấu trừ tiền lương thực, tiền công đoàn, đủ loại khoản chi phí phải đóng, nên chưa đến giữa tháng, túi tiền đã lép xẹp. Hết tiền. Tôi bắt đầu thèm một ly cà phê, một cái bánh đậu phụng đường đen rẻ tiền — những thứ ăn vặt mà vợ của anh lái xe máy cày mỗi tối thường ngồi chong đèn dầu leo lét, vừa cho con bú, vừa bày bán trong căn lều nhỏ bên hàng rào đất đỏ, chờ đợi những vị khách quen — phần lớn là công nhân nghèo, trong đó có cả tôi. Thỉnh thoảng, tôi gặp chồng của chị. Anh to con, nước da sậm màu, rắn rỏi. Anh thường ngồi uống rượu, hút thuốc một mình. Có vài lần anh mời tôi một ly rượu đế — thứ rượu nồng đến cháy cổ. Nhưng vì xã giao, và cũng để anh vui, tôi đành nhắm mắt đưa rượu, cố nuốt nhanh cho qua... anh, một người hiền lành, chân chất và rất vui tính...
Tháng nối tháng, cuộc sống lặp đi lặp lại như tiếng máy cày của anh nổ phành phạch ngoài công trường. Đều đều, đơn điệu, cũ kỹ. Một nhịp sống không chút thương tiếc, mòn mỏi dần theo ngày tháng.
Vì thiếu nước, thiếu dinh dưỡng, nhất là tay nghề vắt sữa của công nhân không đúng kỹ thuật nên đàn trâu bắt đầu còi cọc và sinh ra nhiều bệnh, nhiều nhất là viêm vú cấp tính... Tôi làm báo cáo-làm phúc trình-làm đơn thỉnh nguyện nhưng không có trả lời... Tôi nhìn thấy hơi lo và sợ cho trách nhiệm của mình.
Một tối đầu xuân 1979, trời se lạnh. Tin chiến sự biên giới phía Bắc vọng về — xa đâu tầm sáu, bảy chục cây số. Trong khoảng không u tịch ấy, tôi chợt nhận ra: nếu cứ ở lại, tôi sẽ mòn đi như gốc rạ sau mùa gặt. Không ai nhắc tới. Không ai tiếc. Và cũng chẳng ai biết từng có một người như tôi ở nơi hẻo lánh này.
Tôi thấy rõ mình đang mờ dần trong đời sống. Và điều đó làm tôi khiếp sợ hơn cả chiến tranh.
Tôi phải đi.
Thế là tôi rời khỏi Bến Cát. Âm thầm. Không một lời giã biệt. Chỉ mang theo một quyết tâm câm lặng: phải tìm cho mình một con đường khác. Một con đường mà ít nhất, tôi được quyền tự bước bằng đôi chân của chính mình — dù phía trước là sương mù, là vực sâu, là vô định. Ở lại, là chấp nhận chết dần trong im lặng.
Tôi rời Bến Cát với một nỗi buồn không tên và một thứ biết ơn lặng lẽ. Dù không cùng lý tưởng, không lớn lên dưới một bầu trời, tôi vẫn quý mến những công nhân trẻ miền Bắc — những trai tráng, những cô gái còn thơ, bị đưa vào Nam, sống giữa vùng sâu hẻo lánh, thiếu thốn trăm bề mà không một lời than vãn. Ở họ, tôi thấy sự cam chịu hiền lành, và một ánh sáng lặng lẽ của niềm tin — thứ mà tôi đã đánh mất giữa những vỡ vụn niềm tin và lý tưởng.
Tôi vẫn nhớ những gương mặt còn non. Có em chỉ mới học đến lớp tám, lớp chín, đã phải rời xa mái nhà, trường học, mang cả tuổi xuân gửi vào đất đỏ, vào rừng sâu. Các em chẳng mơ nhiều — chỉ mong một bữa cơm no, một lá thư kịp về mùa thu hoạch, một tin từ cô bạn học gần nhà, một chiếc áo lành khi đông tới.
Nhưng nụ cười của các em thì vẫn trong vắt, hồn nhiên như đồng cỏ sau cơn mưa, như thời thơ ấu chăn trâu ngày cũ. Tôi nhớ đàn trâu, tôi tự hỏi liệu chị Cẩn, cán bộ trung cấp thú y có đủ khả năng thay tôi để chăm sóc sức khoẻ cho chúng!
Chúng tôi — mỗi người rồi cũng bị cuốn trôi theo một dòng đời khác — nhưng từng có một quãng đời chung sống dưới bầu trời Bến Cát. Một nơi hoang vắng, nghèo khó, tối mù khi đêm về... nhưng chất đầy day dứt. Và ký ức đó, lạ thay, vẫn còn nguyên trong tôi — như vệt bụi đỏ chưa bao giờ chịu lắng.
Tôi vẫn có thể nhớ tên, nhớ mặt từng người — như thể họ chưa từng đi xa:
Chú Tân, người dạy tôi hút điếu cày đầu tiên; bác Mộc nấu ăn cho cả đội bằng nồi gang đen kịt khói; em Hoa, em Lưu, em Muồi, em Minh...những cô bé miền Bắc giọng líu lo, lúc nào cũng cười dù quần áo vá chằng vá đụp. Anh Cốn — chuyên viên khám thai đàn trâu, dáng cao to con mà đôi mắt lúc nào cũng đỏ ngầu vì khói thuốc; chị Cẩn, tốt nghiệp trung cấp Thú y, ít nói nhưng tận tâm; anh Thìn trưởng phòng kỹ thuật, điềm đạm, thương người; chị Nga, y tá xinh xắn, chăm lo sức khoẻ công nhân...
Rồi chú Vực — ông thủ trưởng mặt lúc nào cũng cau có nhưng thật ra rất thương anh em; bác Chuyền thủ kho lưng còng mà trí nhớ hơn cả sổ sách; chú Hồ Giáo — anh hùng lao động, vạm vỡ, dáng khắc khổ nhưng miệng luôn cười; và em Bổn, cái thằng “hâm hâm” mà ai cũng thương, bởi có lần nó nhịn ăn để nhường phần khoai sáng cho đứa bạn cùng tổ đang ốm... Bạn Lê Hồng Hoa, người gốc Quảng Ngãi, kỹ sư chăn nuôi, là một du học sinh mới về nước từ Hungary. Còn bạn Quang — cũng là kỹ sư chăn nuôi — vừa từ Kiev, Liên Xô cũ trở về chỉ một tuần trước khi tôi rời khỏi trung tâm. Cả hai đều là những người trẻ, đầy nhiệt huyết, từng mang theo khát vọng xây dựng ngành nông nghiệp nước nhà sau những năm tháng học hành ở trời Tây.
Một ước mong nhỏ nhoi của tôi là sau khi đọc câu chuyện này, nếu ai trong các bạn có tin tức gì về Trung tâm Bò sữa Bến Cát thời ấy, tin tức về các em, các anh chị đã cùng làm việc với tôi; xin gửi cho tôi một lời nhắn. Bởi dù năm tháng đã trôi qua, lòng tôi vẫn chưa thể nguôi ngoai về một quãng đời nhiều kỷ niệm — vui buồn, cay đắng, nhưng thật sự đáng nhớ.
Cách đây sáu, bảy năm, tôi tình cờ tìm lại được tin về chú Hồ Giáo — người anh hùng lao động năm nào — nghe đâu chú đã về sống tại quê nhà Nghĩa Hành, Quảng Ngãi, và muộn màng mới lấy vợ lần đầu. Tôi dự định một ngày gần nhất sẽ về thăm chú. Nhưng tiếc thay, khi vừa thu xếp xong thì hay tin: chú đã ra đi mãi mãi...
Anh tôi đón tôi về Sài Gòn thì trời đã tối.
Vừa đặt chân vào nhà, chị tôi báo tin: chị đã lo xong cho tôi một chỗ vượt biên. Tôi lặng người. Tâm trí rối bời. Tôi còn người bạn gái đang đợi. Tôi còn nợ bác sĩ Nhuận ba cuốn sách bệnh lý đại gia cầm mà ông vừa mới mang từ nước ngoài về và cho tôi mượn. Tôi còn nỗi day dứt không biết nếu tôi đi, những công nhân ở Bến Cát sẽ nghĩ gì. Liệu họ có xem tôi là kẻ phản bội? Là một tên gián điệp Ngụy còn sót lại như lời đồn đại?
Tôi do dự. Nhưng cuối cùng, tôi ra đi. Trong nước mắt.
May mắn, tôi vượt thoát an toàn. Giữa lòng đại dương, một tàu đánh cá Thái Lan cướp rồi vớt và đưa chúng tôi vào bờ.
Thời gian ở trại tị nạn Thái Lan, tôi gặp lại một vài gương mặt từng học chung trước năm 1975 ở NN4. Lúc đầu, họ tránh tôi. Ánh mắt họ dè chừng, bất an. Nhưng tôi thì khác — tôi vẫn chào hỏi, bắt tay, chụp hình chung như chưa từng có chuyện gì. Dù vậy, tôi không hiểu vì sao họ cứ dần lùi xa. Hay nói đúng hơn, họ cố lánh mặt.
Bốn năm trước ở NN4, tôi từng là cái "mụt nhọt", cái "ghẻ lở" để ruồi bu tỉa mồi. Nay, ở mảnh đất tự do này, vài ba con ruồi ấy lại tìm cách xa tôi... Không còn sự dè bỉu công khai, nhưng sự lạnh nhạt ấy làm tôi hiểu: có những vết thương, dù đã rời khỏi nơi chôn nhau cắt rốn, vẫn âm ỉ trong lòng người.
Tôi không có thân nhân ở Mỹ bảo lãnh. Không có điều kiện để được định cư. Tôi chỉ là một thanh niên mồ côi trong trại tị nạn, nhưng mang một giấc mơ rõ ràng: đi Mỹ.
Tôi quyết tâm. Tôi tình nguyện xin làm bồi bàn, bưng nước, quét dọn, kéo ghế mỗi khi phái đoàn di trú Mỹ đến trại. Cuối cùng, có thể vì lòng nhân đạo, hay đơn giản vì cảm tình với kẻ cần mẫn như tôi, họ đã cho tôi một vé đến Mỹ.
Giấc mơ của tôi bây giờ là do tôi quyết định.
Một giấc mơ mà hầu hết mọi người ở trại đều mong muốn: được đi Mỹ — đi Mỹ nơi có thể tìm việc làm dể hơn các nước khác, kiếm tiền, thật nhiều tiền. Để gửi về nuôi cha mẹ tôi đang đói khổ ở quê nhà. Để trả ơn gia đình người chị đã cưu mang tôi. Và để thực hiện một lời hứa: đưa người yêu tôi rời khỏi trường NN4.
Thông thường, từ lúc được phái đoàn Mỹ chấp thuận cho đi định cư đến lúc lên đường mất khoảng ba đến năm tháng. Giấc mơ đi Mỹ của tôi gần như đã trong tầm tay. Phần còn lại — là tôi phải chuẩn bị.
Tôi quyết định học thêm tiếng Anh. Tôi xin ông Trưởng trại cho tôi chuyển sang làm ở ban bưu tín, thay cho anh trưởng ban sắp lên đường đi định cư. Làm ở ban này, tôi được làm việc trực tiếp với bà Allison Osborn — một nữ thiện nguyện viên của Hội Thánh Tin Lành đến từ Tennessee, chuyên lo việc thư từ và đổi tiền hàng tuần cho đồng bào trong trại. Đó là cơ hội quý giá để tôi rèn luyện tiếng Anh trong môi trường thực tế, để một ngày không xa, khi đặt chân đến Mỹ, tôi không còn là người câm trong xứ tự do.
Khi tôi nhận làm trưởng ban bưu tín, cơ hội tiếp xúc với mọi người mở ra nhiều hơn. Nhiều người bắt đầu làm bạn với tôi — trong đó có cả vài ba anh từng học ở NN4 trước kia. Tôi được đãi cà phê, thuốc lá, hủ tiếu... liên tục. Ai cũng muốn nhờ tôi giúp nhận thư hay đổi tiền sớm, nhưng thật lòng, tôi chẳng làm gì khác được ngoài những gì đã quy định sẵn bởi bà Osborn.
Ba tháng trôi qua. Khi danh sách đi Mỹ định cư đến tay tôi, lòng tôi chộn rộn. Lên Bangkok, tôi bất ngờ được cử làm trưởng đoàn cho 136 đồng bào — phần lớn là người Việt, cùng một vài gia đình Miên và Lào. Chuyến bay định mệnh ấy, của hãng Transworld, đưa chúng tôi rời khỏi Thái Lan, quá cảnh ở Ý trước khi chạm vào giấc mơ phía bên kia đại dương. Tự Do.
Tôi đến Mỹ vào một ngày đầu năm 1980, gió lạnh cắt da. Nơi đầu tiên đặt chân đến là một thị trấn nhỏ ở North Carolina — vùng đất hiu quạnh, vắng tiếng người Việt, vắng cả sự thân thuộc. Tôi không quen ai, cũng không có người thân đón chờ. Chỉ có gió lạnh và nỗi cô đơn quấn quanh như lớp áo mỏng giữa xứ người.
Chưa đầy một tuần, tôi biết mình không thể trụ lại nơi ấy. Tôi tìm đường về Ohio — nơi có bạn bè giới thiệu, nhiều người Việt hơn, dễ sống hơn. Nhưng đời sống ở đây cũng không dễ dàng gì. Ban ngày, tôi đi làm nhà hàng: rửa chén, lau sàn, bưng nước, dọn bàn. Ban đêm, tôi học tiếng Anh ở trường cộng đồng. Mỗi buổi học là một cuộc chiến nhỏ — chiến đấu với buồn ngủ, với những từ ngữ lạ lẫm, với mặc cảm mình là kẻ đến sau, không có gì trong tay ngoài một nỗi nhớ nhà âm ỉ.
Tôi nhớ có lần, đang vừa lau bàn vừa loáng thoáng nghe khách gọi món, tôi giật mình khi một người khách Mỹ hỏi:
— Where are you from?
Tôi ngập ngừng đáp:
— Vietnam.
Giọng tôi lơ lớ, ngượng nghịu. Rồi không biết nói gì thêm, tôi chỉ cúi đầu cười trừ. Vậy mà hôm sau, ông ấy quay lại, lần này đến chỉ để gặp riêng tôi. Ông cho biết có một người bạn làm quản lý ở một công ty chế biến sữa, và họ đang cần người. Ông muốn giới thiệu tôi.
Đúng ngày hẹn, tôi tìm đến chỗ làm theo địa chỉ ông cho. Tôi nghĩ mình sẽ xin vào làm công nhân, khuân vác hay vận hành gì đó. Nhưng bất ngờ — họ không tìm công nhân. Họ cần một kỹ thuật viên xét nghiệm mẫu sữa trước khi đưa vào dây chuyền đóng hộp.
Tôi sững người. Vừa mừng, vừa lo. Tiếng Anh tôi chưa thạo. Tay nghề trong ngành thì có, nhưng là với trâu bò, nông trại, chưa từng động đến máy móc sản xuất hiện đại kiểu Mỹ. Vậy mà người quản lý chỉ hỏi đôi ba câu, rồi gật đầu. Nhận tôi.
Khi đã có việc làm ổn định với đồng lương hậu hĩnh, tôi bắt đầu gửi tiền về nhiều hơn. Nhờ vậy, cha mẹ tôi có điều kiện dọn từ quê ra thành phố. Chị tôi cũng gom góp đủ để thu xếp một chuyến vượt biên. Chưa đầy hai năm sau, cả gia đình chị, anh tôi, vài người bà con và — quan trọng nhất — người yêu tôi cũng đã đến được trại tị nạn Ga Lang ở Indonesia.
Tôi mừng đến nghẹn ngào. Cứ nghĩ rằng từ đây, chúng tôi sẽ được đoàn tụ, sẽ bắt đầu một đời sống mới trên đất Mỹ — bình yên và đầy hy vọng.
Vì là thân nhân trực hệ, cả gia đình anh chị tôi và bà con đều được tôi bảo lãnh sang Mỹ trong thời gian ngắn. Riêng người yêu tôi, vì chúng tôi chưa cưới, nên cô ấy chỉ thuộc diện "fiancée" — một từ không hề có trong danh mục định cư chính thức của sở di trú Hoa Kỳ lúc ấy.
Tôi chạy ngược xuôi, viết thư, nhờ luật sư, nhờ dân biểu tiểu bang, nhờ bạn bè quen biết can thiệp. Tôi làm mọi cách có thể — với niềm tin rằng nếu mình đủ chân thành, đủ kiên trì, thì định mệnh sẽ không phũ phàng. Nhưng Ga Lang, Indonesia — nơi tôi từng hy vọng là điểm bắt đầu cho cuộc sống lứa đôi — lại trở thành nơi kết thúc. Không tiếng khóc, không giận hờn. Chỉ là một sự im lặng buốt lòng. Cô ấy đi theo một con đường khác, không lời từ biệt hay oán trách... nhẹ nhàng như đã chờ sẵn trong lòng.
Tôi biết, ở một nơi như trại tị nạn — nơi người ta sống giữa lưng chừng hy vọng và tuyệt vọng — những chọn lựa đôi khi không còn nằm trong tay chính mình nữa.
Và thế là, mối tình của tôi khép lại ở một bến bờ xa lạ, không phải bằng một đám cưới, mà bằng một nỗi lặng thầm không tên.
Tôi nán lại Ohio thêm hai năm, vừa để giúp gia đình anh chị tôi ổn định cuộc sống, vừa để tự mình khép lại những day dứt chưa yên. Nhưng càng ở lâu, tôi càng thấy lòng mình nặng trĩu. Mỗi con đường, mỗi góc phố, mỗi đêm đi làm thêm giờ về đều gợi lại hình ảnh một giấc mơ dang dở — nơi tình yêu tôi từng ấp ủ đã lặng lẽ chìm sâu trong lớp sình lầy ký ức.
Và rồi, tôi quyết định ra đi một lần nữa. Lần này không phải là vượt biên hay trốn chạy, mà là tìm kiếm — tìm một nửa còn lại của mình, tìm một cuộc đời khác, hy vọng khác, ở một nơi khác ngoài Ohio buồn bã.
Tôi chuyển về California — mảnh đất nắng ấm, đông đúc cộng đồng người Việt, và đầy rẫy những cơ hội mới. Với kinh nghiệm từ Ohio, tôi nhanh chóng tìm được việc làm trong cùng ngành, nhưng chức vụ cao hơn, lương bổng tốt hơn. Cuộc sống bắt đầu khởi sắc. Tôi thuê được một căn phòng nhỏ, mua chiếc xe cũ, đi làm, đi học bổ túc thêm ngành, và dần cảm thấy mình có thể bắt đầu lại từ đầu — lần này không phải trong sợ hãi, mà trong hy vọng.
Và rồi, như một món quà âm thầm mà số phận gửi tới, tôi gặp cô ấy. Sau nầy là vợ của tôi.
Cô ấy không giống ai mà tôi từng quen. Không ồn ào, không khoa trương. Chỉ là một người phụ nữ hiền lành, kiên nhẫn, và có một đôi mắt biết lắng nghe. Chúng tôi bắt đầu như những người bạn. Rồi như hai kẻ tha hương tìm được tiếng nói chung. Chúng tôi không nói nhiều về quá khứ. Không cần phải kể hết những gì mình đã đi qua. Chỉ cần nhìn vào hiện tại — là đủ hiểu.
Ba mươi sáu năm đã trôi qua từ ngày chúng tôi về chung một nhà. Ba mươi sáu năm chung gạo thổi cơm. Ba sáu năm đầy biến động, nhưng cũng đầy ấm áp. Tình yêu không ồn ào, không rực rỡ — mà bền bỉ như một dòng suối nhỏ, mà âm thầm chảy qua từng mùa nắng, mùa mưa.
Và bây giờ, khi nhìn lại, tôi vẫn không quên cuộc tình cũ. Nhưng tôi biết, nếu không có những đoạn đường gập ghềnh kia, tôi đã không thể có được bến đỗ bình yên hôm nay.
Sau nhiều năm gầy dựng, cuộc sống của tôi dần tạm ổn. Có vợ, có con, có một chỗ nho nhỏ che nắng trú mưa nhưng đủ ấm, rủng rỉnh xu hào, vợ chồng tôi bắt đầu tham gia vài buổi tiệc tùng, hội họp trong cộng đồng người Việt. Ở những lần gặp gỡ ấy, tôi bất ngờ nhận ra vài gương mặt quen — những người từng học cùng thời ở NN4. Tôi vẫn cư xử bình thường, niềm nở, như chưa từng có gì xảy ra. Nhưng ngược lại, họ lại có vẻ tránh mặt tôi. Lúc đầu tôi nghĩ là tình cờ, nhưng lặp đi lặp lại vài lần, tôi hiểu: có những khoảng cách không phải do thời gian hay không gian, mà do người ta cố tình giữ lấy.
Tôi không buồn, cũng không trách. Mỗi người mang trong mình một câu chuyện, một lựa chọn để tự vệ, để tồn tại. Tôi hiểu, ở cái thời điểm sau 75 ấy, nhiều điều đã bị bóp méo, lòng người dễ bị tổn thương và niềm tin cũng dễ đổ vỡ. Có thể trong mắt họ, lúc đó tôi không cùng “phe”, hoặc tệ hơn, là người từng chống lại, đi ngược chiều với họ. Nhưng tôi biết rõ, tôi không chống ai — tôi chỉ không muốn phản bội chính tôi, lừa dối lương tâm của tôi.
Thành ra, tôi vẫn mỉm cười mỗi lần chạm mặt, vẫn chìa tay bắt như cái ngày trước 75 còn ngồi chung một giảng đường, chung bàn ở câu lạc bộ sinh viên. Dù các anh có bước đi nhanh hơn tôi, ngoảnh mặt sang chỗ khác, tôi cũng không lấy làm phiền. Vì đến một độ tuổi nào đó, tôi hiểu rằng: giữ được lòng bình an với quá khứ của mình mới là điều quan trọng.
Mùa hè năm 1992, tôi đưa vợ và con về Việt Nam thăm và trình diện ông bà nội. Trong chuyến đi ấy, tôi dành lại ít thời gian để gặp vài người bạn cũ mà tôi vẫn còn giữ liên lạc. Gặp lại họ, ai nấy đều vui mừng. Giọng nói, nụ cười, cái bắt tay vẫn đầy thân tình. Trong câu chuyện rôm rả hôm ấy, họ kể tôi nghe về những gương mặt quen thuộc năm nào — người thì đã vượt biên từ lâu, người thì bị đẩy ra rìa trong những cơ cấu mà chính họ từng tin là lý tưởng, có người thì bỏ việc, bất mãn chế độ vì không được trọng dụng như từng mơ tưởng. Có bạn đã đeo bảng đỏ " bỏ đảng", bỏ vợ đi buôn bán chợ trời rất thành công! Nghe đâu cả "đồng chí Đực" cũng đã chia tay “đồng chí Cái”, mỗi người một hướng — như cái cách mà cuộc đời vẫn thường hay xoay trở bất ngờ.
Những anh với những chị “cờ đỏ an ninh trật tự” ở NN4 — mà tôi vẫn gọi đùa là “bọn mắt lé cờ đen” — vì cái thói hay liếc ngang liếc dọc, chuyên rình mò như thể mọi người đều là đối tượng tình nghi. Mặt mũi họ lúc nào cũng đằng đằng sát khí, bước đi nghênh ngang như thể đang cai quản cả một vương quốc. Họ không nói chuyện, họ quát tháo. Không góp ý, chỉ hăm he. Những người như thế, ngày đó được trọng dụng, được tung hê, được gán cho cái danh an ninh trật tự như thể một thứ quyền lực tối cao.
Ấy vậy mà hơn mười lăm năm sau, bạn tôi kể: người thì giờ sống lặng lẽ như cái bóng trong một công ty nhỏ của bạn học cùng khoá; người thì bị 'chuyển công tác' vì vướng vào chuyện không minh bạch; kẻ khác — nghe đâu — sống cô độc trong một căn nhà tập thể cũ kỹ, vợ bỏ, không bè bạn. Có người từng hăng hái viết báo cáo, đấu tố, thậm chí chụp mũ lẫn nhau, giờ lại trở thành vật hy sinh cho chính guồng máy mà họ từng góp phần dựng nên. Có người cùng khóa từng móc thẻ đảng đập lên bàn để dằn mặt một bạn học yếu thế hơn — chỉ vì bất đồng một ý kiến nhỏ nhoi. Có kẻ khác thì về nước trước tôi, may mắn hơn tôi nhiều mặt, vậy mà lại đem chuyện tôi từng bưng nước, kéo ghế cho phái đoàn Mỹ ra làm trò cười, chế giễu với đám bạn còn ở lại. Họ quên rằng, mỗi người một hoàn cảnh, và không phải ai cũng có được may mắn như họ. Nhưng đời là vậy — quay rất chậm, tưởng như không động đậy, nhưng cuối cùng cũng sẽ xoay đủ một vòng, không chừa một ai.
Chia tay về lại khách sạn, tôi bỗng thấy lòng mình lắng lại. Không phải vì hả hê. Mà là một nỗi buồn rất cũ — buồn cho thời cuộc, cho lòng người, và cho cả chính tôi — một phần của ký ức ấy, dù đã cố gắng đi xa đến đâu, cũng không thể hoàn toàn rũ sạch...
Tôi đã ngồi nghe, không vui mà cũng chẳng buồn. Bởi thời gian đã dạy tôi một điều: cuộc đời không phải lúc nào cũng diễn ra như ta mong muốn, và con người, rốt cuộc, rồi ai cũng phải trả giá cho những điều mình tin hoặc từng làm. Có thể là trong âm thầm. Có thể là giữa đám đông.
Tôi trở lại Mỹ sau chuyến thăm ấy, lòng nhẹ đi nhiều. Tôi không trách ai, cũng không cần ai phải nhớ ơn hay xin lỗi. Chúng tôi — mỗi người từng có một thời trẻ tuổi, từng tin vào những điều khác nhau, từng chọn những ngã rẽ rất riêng. Đến lúc này, điều còn lại trong tôi là sự bằng lòng: bằng lòng với cuộc sống hiện tại, với vợ con bên cạnh, với mái ấm mà tôi đã gây dựng bằng chính đôi tay và trái tim mình.
Và trên hết, tôi biết ơn hành trình đã qua — đầy thăng trầm nhưng đủ để tôi hiểu: chỉ khi ta biết thứ tha, kể cả với chính mình, thì ký ức mới thôi cào cấu, và quá khứ mới thực sự nằm lại phía sau.
Lòng tôi như mang thêm một lớp bụi thời gian. Những gì tưởng đã cũ, đã lùi xa trong ký ức, bỗng sống dậy rõ ràng hơn bao giờ hết. Mỗi gương mặt, mỗi câu chuyện, mỗi lần bắt tay đều như nhắc tôi rằng: quá khứ không rời bỏ ta — nó chỉ lùi lại, đứng yên đó, chờ ta ngoảnh nhìn.
Tôi trở lại với công việc, với gia đình, với guồng quay thường nhật ở xứ người. Nhưng đôi khi, trong những chiều chủ nhật yên ả, tôi lại ngồi lật lại những tấm hình cũ, đọc vài bức thư bạn gửi từ khắp nơi, và tự hỏi: những người năm xưa giờ ra sao? Còn sống? Còn giữ chút ký ức nào về một thời khốn khó nhưng thật lòng? Còn nhớ đến một người bạn từng bị nghi kỵ, từng bị gạt ra bên lề — nhưng chưa một lần oán hận?
Thời gian dạy tôi nhiều điều. Rằng tha thứ không phải là quên, mà là một cách tự chữa lành. Rằng mỗi người đều có lý do khi chọn con đường riêng. Và rằng, sống sao để khi nhìn lại, lòng không tiếc nuối, không hổ thẹn — đó mới là điều quý giá nhất sau tất cả.
Giờ đây, giữa xứ sở từng là giấc mơ của tôi, tôi vẫn là một người Việt Nam — mang trong mình vết cắt không lành hẳn, nhưng cũng mang theo niềm tin rằng: mình đã đi, đã sống, và đã không quay lưng với chính mình.
Nếu ai đó hỏi tôi: điều gì còn đọng lại sau hành trình dài dằng dặc ấy — từ những ngày nhọc nhằn ở Bến Cát, những tháng năm trốn chạy, đến những năm lập nghiệp nơi đất khách — tôi sẽ trả lời: đó là niềm tin. Niềm tin vào chính mình. Niềm tin vào lòng người. Niềm tin rằng, dù có khi bị vùi dập, hiểu lầm hay phản bội, nếu sống với một trái tim ngay thẳng, thời gian sẽ là nhân chứng công bằng nhất. Và rằng: đừng bao giờ làm điều gì cho bạn bè hay người thân mà chính mình cũng không muốn người khác làm với mình.
Tôi viết lại những dòng này không để khơi lại nỗi buồn, càng không để oán trách ai. Chỉ là một câu chuyện — bình thường như bao kiếp người Việt tha hương khác. Năm mươi năm nhìn lại, đó là một đoạn đường dài. Dài không chỉ bởi thời gian, mà bởi lòng người, bởi những đổi thay của đất nước, và cả những dâu bể trong chính mỗi chúng ta.
Nhưng nếu đâu đó có một người trẻ đọc được những dòng này, tôi mong họ hiểu rằng: sự thật có thể bị che khuất, nhưng lòng tự trọng thì đừng bao giờ để mất. Lý tưởng có thể sai đường, thời cuộc có thể đổi thay, nhưng điều còn lại sau tất cả — chính là nhân cách.
Tôi lớn lên trong chiến tranh. Đi qua đổ vỡ. Qua cả những vết thương không ai thấy. Nhưng tôi không đi qua cuộc đời này để bỏ lại cay nghiệt phía sau. Tôi muốn đi qua đời như một người từng ngã xuống — và đã biết cách đứng dậy.
Tôi không sống để trở thành ai đó trong mắt người khác. Tôi chỉ sống để không phụ lòng chính mình — người đã từng đơn độc, từng bị tổn thương, nhưng chưa bao giờ quên đứng dậy bằng lòng ngay thẳng
Đỗ xuân Quý, Tháng 4, 2025. Năm mươi năm nhìn lại.
Kể lại câu chuyện của chị K., xảy ra tại California, Hoa Kỳ
Sỏi Ngọc
Một cô bé Mỹ lai, khoảng 12-13 tuổi với mái tóc dài ngang vai quăn tự nhiên, ôm lấy khuôn mặt bầu bĩnh, đôi mắt nâu tròn to, vai đeo một ba lô khá nặng so với thân hình mảnh khảnh của mình, hai tay ôm một em bé còn rất nhỏ chừng hai, ba tháng tuổi, cô bé đứng trong đuôi người nối dài xếp hàng ở trước cửa ngân hàng Bank of America, trên đường Harbor, Garden Grove, California chờ đến lượt mình.
Những người đứng chờ phía trước thấy cô bé có con nhỏ bèn nhường chỗ để cô bé được tiếp sớm hơn, ai cũng tò mò nghiêng người nhìn vào bên trong lớp vải quấn đứa trẻ xem thử đứa bé ấy là con gái hay con trai, lớn nhỏ ra sao, có bà người Mỹ đứng sát bên lên tiếng:
-Chắc cháu bé mới hơn hai tháng phải không? Còn nhỏ quá bế ra đây làm gì?! Sao không để nhà cho mẹ cháu giữ nó?
Khuôn mặt của cô bé một chút ngỡ ngàng, lo lắng nhìn xung quanh không biết phải trả lời ra sao, chỉ yên lặng cúi nhìn đứa trẻ đang say giấc trong tấm khăn hồng êm ấm.
Đứng chờ khoảng mười phút, cô bé được một người teller tiếp chuyện:
-Em mới có 12 tuổi rưỡi thôi?... Không đủ quyền pháp lý để ký vào hợp đồng ngân hàng một cách độc lập đâu, em không thể tự mình mở tài khoản, ngay cả cho con mình, nếu không có người giám hộ hợp pháp, ví dụ cha mẹ, ông bà... Em đi một mình với baby thôi hả?
-Dạ vâng, cháu... em...
Cả hàng người phía sau đang chờ xôn xao hẳn lên, ai cũng có vẻ tò mò chuyện cô bé, muốn biết quan hệ của cô bé với đứa trẻ nằm gọn trong chiếc khăn kia, người thì bảo “đó là em của nó,” kẻ thì đoán “là con gái của nó,” hàng xếp đang thẳng tắp từng người một, bỗng trở thành một đám đông tụ họp đứng vòng quanh cô bé trước counter để xem có thể giúp ích được điều gì cho cô bé, có người còn hỏi thẳng:
-Vậy em có biết cha nó là ai không?
-Em thực sự chỉ mới... 12 tuổi thôi sao?
Với những câu hỏi phũ phàng, tới tấp của những kẻ không quen biết, cùng với sự từ chối thẳng thừng của nhân viên nhà băng, tất cả đã làm tăng thêm sự lo sợ, hoang mang, cảm thấy tủi thân và cô đơn, hai hàng nước mắt chảy dài ướt mặt, cô bé nói trong nước mắt:
-Con phải làm sao đây?... cho con gặp... giám đốc của ngân hàng ạ?
Tôi mời Ann vào văn phòng riêng, đưa em một hộp Kleenex, một chai nước lọc, đẩy đến trước mặt em một hộp kẹo lúc nào cũng sẵn có trên bàn làm việc.
Trước khi ngồi xuống, Ann đặt con xuống chiếc ghế bên cạnh như đặt con búp bê, mở chiếc ba lô lấy ra một lô giấy tờ đưa tôi đọc, tâm sự:
-Thưa cô giám đốc, mẹ con qua Mỹ theo diện con lai, qua đây từ những năm 1994-1995, bà đi làm, thay đổi công việc rất nhiều hãng... Bà bắt đầu nghiện ngập từ ba năm nay, từ khi con ra đời đã không biết cha mình là ai... Mẹ buồn khổ vì những mối tình không trọn vẹn và công việc không theo ý muốn, mẹ tiếp xúc với những tên vô lại trên đường phố vô gia cư, bắt chước chúng uống rượu, hút thuốc, có bao nhiêu tiền bà đều mua rượu, say xỉn, rồi không đủ tiền bà đã... bán... con!
Nói đến đây cô bé Ann tủi thân, khuôn mặt gục xuống đất, hai tay xoắn lấy chéo áo, thút thít:
-Lúc đầu con chưa hiểu tại sao người ta lại đến dẫn con đi chơi, cho mẹ một số tiền để mua rượu và thuốc, mua quần áo đẹp cho con mặc, mua đồ ăn kẹo bánh mà con thích; con đã theo ông ta vào hotel mà ông nói là ở đó rất nhiều đồ chơi và đồ ăn ngon. Khi đến nơi con chỉ thấy một chiếc giường và hai người đàn ông lạ mặt người gốc Á đang chờ ở đó, họ tiến lại vuốt ve, nói lời ngọt ngào mà con chả hiểu được gì, cho con uống thứ nước ngọt mà khi uống xong rất buồn ngủ; trong cơn mơ màng, con thấy họ đã nằm lên con, vuốt ve hôn hít, nhưng con không thể nào có sức chống cự cũng không thể nào la hét... Con cảm thấy rất đau đớn, cái đau về thể xác thì ít mà đau về tinh thần rất nhiều, con oán hận mẹ đã lừa dối con, oán hận cái xã hội đã làm nên những con người sống ích kỷ, giả tạo vô đạo đức! Con cũng oán trách ông Trời, con có làm nên tội tình gì mà đã trừng phạt con nặng nề thế.
Tôi nghe Ann vừa khóc, vừa kể; cô bé còn vén quần lên cho tôi xem một vết cắn khá sâu, hằn những vết răng của những con quỷ đội lốt người trên đùi của em, dấu vết của những tên vô lại đã dằn vặt thể xác em khi lên cơn... Tất cả những tệ nạn xã hội trên đất Mỹ, trong những khu ổ chuột ở Cali này tôi đều đọc báo, xem TV thấy nói rất nhiều, nhưng chưa bao giờ nghe chính miệng của một nạn nhân bé nhỏ, chưa đủ tuổi trưởng thành, nhỏ hơn cả các con tôi kể ra một cách uất ức như thế, tôi cũng phải chảy nước mắt với Ann, tôi nắm lấy hai bàn tay em như truyền thêm sức mạnh và san sẻ nỗi đau ấy, muốn giúp em trừng trị lũ “súc sinh” kia đã làm cho cô bé ra nông nỗi này.
Tôi cũng là người tỵ nạn sống kiếp lưu vong như mẹ của em, nhưng may mắn hơn thôi. Gặp những người đồng hương bị hiếp đáp, cuộc sống gian nan, tôi muốn giúp đỡ và bênh vực họ trong khả năng của mình, để dân tộc Việt trong mắt người ngoại quốc không đến nỗi thấp hèn, chung tay giúp đỡ để cùng nhau tiến lên, xây dựng một cộng đồng Việt vững mạnh trên đất Mỹ.
Ann khẩn khoản cầu xin tôi một cách tội nghiệp:
-Cô giúp con với, mở cho con một tài khoản riêng, con muốn được chính phủ giúp cho tiền sữa để nuôi em bé, con muốn làm một người mẹ tốt, không muốn sống như mẹ đâu! Con cũng hiểu vì quá nghèo khổ, lại bị thiếu thuốc vật vã, mẹ đã bán cái thân xác của con cho những... con thú, nhưng con biết mẹ cũng không vui đâu, mẹ càng uống nhiều rượu thêm nữa để quên đi cái điều mẹ làm không đúng với con, mẹ càng lấn sâu hơn vào con ma rượu mỗi khi chiều tối. Con cũng đã từng ngồi bên mẹ, tâm sự với mẹ, giúp mẹ trải qua cơn khó khăn cai rượu, nhưng không thể được, mẹ đã đánh con thiếu sống thừa chết để chạy vụt ra khỏi nhà đi mượn tiền mua rượu, mượn tiền đến nỗi không trả được phải... bán chính con gái ruột của mình! Con còn nhỏ thể xác nhưng đã lớn khôn trong suy nghĩ; từ lúc sanh con bé này, con không muốn cuộc đời mình sẽ giống như bà ngoại nó! Con tha thứ cho mẹ, nhưng không muốn mẹ sẽ dùng tiền sữa của con bé đi uống rượu!
Tôi giảng giải:
-Trước mắt nếu con không muốn mẹ là người giám hộ hợp pháp vì sợ bà lấy tiền của cháu bé đi uống rượu hay làm hại đến tương lai con, thì cô bắt buộc phải làm giấy tờ lên một dịch vụ bảo vệ trẻ em CPS, họ sẽ đưa hai mẹ con vào cơ sở tạm cư đặc biệt dành cho mẹ tuổi vị thành niên, chính phủ sẽ bổ nhiệm một người giám hộ hợp pháp tạm thời cho con, mọi quyền tài chính sẽ được người giám hộ này lo hết, như mở tài khoản ngân hàng, nhận trợ cấp chính phủ, riêng con cũng được đi học lại theo trình độ của con, họ sẽ cho hai mẹ con một chỗ ở an toàn nữa. Con có thể thuyết phục mẹ vào trung tâm cai nghiện rượu, sau đó họ sắp xếp cho một công việc phù hợp với mình, nhưng phải ráng làm việc, kiên nhẫn và chịu khó mới được.
-Vâng, con hứa sẽ ráng làm người mẹ tốt để làm gương cho con gái, con sẽ để lại giấy tờ của con và con bé ở đây, nhờ cô làm tất cả giúp con nhé.
-Cô chỉ muốn giữ một bản sao thôi, còn bản chính con hãy giữ bên người, để lỡ có chuyện gì thì phải trình ra...
-Dạ!
-Chiều hôm nay ở nhà đã có đồ ăn chiều chưa? Có đủ sữa cho cháu bé bú hôm nay không?
-Con cho con bú... còn cơm chiều thì...
Thấy Ann ngập ngừng, tôi đoán chắc cháu không có tiền mua đồ ăn, tôi đưa $50 tiền riêng của mình, căn dặn:
-Cô cho riêng con số tiền nhỏ này, mua cơm ăn chiều nay, cô sẽ làm giấy tờ gởi lên nơi có trách nhiệm để con được một chỗ ở an toàn cho hai mẹ con và được chính phủ chu cấp. Vì con không có điện thoại liên lạc nên ba hôm nữa hãy đến đây gặp cô vào giờ này nhe.
***
Ba ngày sau...
Cả ngày làm việc tôi thấp thỏm, rất mong gặp lại Ann để báo tin vui cho biết là dịch vụ bảo vệ trẻ vị thành niên đã chấp nhận đơn xin của em, em sẽ có được chỗ ở tạm thời ngay lập tức, tránh xa bà mẹ nghiện ngập cứ muốn bán con gái mình để lấy tiền hút thuốc uống rượu. Tôi vui khi nghĩ đến em ấy sẽ được đi học lại, có tương lai tươi sáng, và đứa bé sẽ được gởi ở nhà trẻ gần đó.
Tôi đã phải bỏ thì giờ đến tận nơi để xin cho Ann, không muốn nhìn cảnh một đứa trẻ vị thành niên, chưa đủ khả năng và kinh nghiệm để lo cho chính bản thân mình, thì làm sao nuôi thêm một đứa bé mới lọt lòng! Nhưng chờ mãi cả ngày, đến khi nhà băng đóng cửa vẫn không thấy tăm hơi của cô bé.
Hai tuần trôi qua, vẫn không có tin tức của Ann, tôi vô cùng lo lắng, sợ cô bé lại bị mẹ bán cho một môi giới nào đó, ở một tiểu bang xa xôi mà chính em ấy cũng không biết nơi chốn thì sẽ ra sao. Tôi rùng mình nghĩ đến những phim tài liệu nói về những cô bé vị thành niên bị bắt cóc, giam cầm dưới lòng đất cho đến mấy chục năm sau, làm nạn nhân tình dục cho những kẻ đồi bại bệnh hoạn, tôi đành phải điện thoại đến đường dây khẩn cấp 911 để báo cảnh sát truy lùng những kẻ sống ngoài vòng pháp luật.
Từ hôm đó, hình ảnh của bà mẹ nhí 13 tuổi, tay bồng đứa bé mới sanh được đưa lên khắp các đài truyền thông và mặt báo.
Đến ngày thứ hai mươi, khi tôi đang dùng cơm phía sau nhà băng, cô teller mừng vui chạy vào tìm tôi:
-Helen ơi, ra xem có ai tìm cô này!
Tôi bỏ bữa cơm dở dang, theo cô nhân viên ra bên ngoài, bắt gặp khuôn mặt tội nghiệp của Ann gầy nhỏ, đôi mắt buồn trũng sâu, mất đi vẻ ngây thơ, tay vẫn bồng theo đứa bé nhỏ ngoan ngoãn nằm yên trong tấm khăn.
Thấy cô bé còn nguyên vẹn hình hài đứng trước mắt tôi, không như trí tưởng tượng của tôi trong mấy ngày qua, mừng quá tôi chạy vội ra ôm cô bé vào lòng như chính đứa con thân yêu xa nhà bấy lâu, dắt cô bé vào bên trong:
-Cháu có khỏe không? Sao mấy hôm nay cháu không đến đây như đã hẹn vậy? Có ai đã làm hại gì cháu không?
Cô bé nhìn tôi với ánh mắt của một người đã trưởng thành, già giặn, nghẹn ngào:
-Mẹ con đã... qua đời!... Bà uống nhiều rượu quá, và cả thứ thuốc trắng mà tụi nó cho mẹ thử khi mẹ lên cơn. Mẹ ra đi mà không hề biết có con và đứa cháu ngoại bên cạnh, con đã cố gào thét tên mẹ, giựt tóc mai như bà bên cạnh nhà chỉ, gọi ambulance nhưng họ đã tới quá trễ! Sau đó con xin nhà quàn làm lễ nhỏ cho mẹ trước khi thiêu. May quá, tất cả không tốn đồng nào cả vì họ nói con nghèo quá, không có họ hàng nữa, họ làm thí cho con. Họ có đưa cho con cái hộp gỗ đựng tro cốt của mẹ, con đã tự đi rải tro ở bờ sông trong một park gần nhà, mỗi năm con sẽ đến đó nhớ về mẹ!
-Oh vậy à! Cô xin lỗi và xin chia buồn cùng con nhé! Con còn nhỏ mà trải qua bao sóng gió cuộc đời...
-Con cũng còn chút may mắn được những người bạn của mẹ quen biết chỉ cách con phải làm gì cho mẹ sau khi mẹ mất, còn cho con mượn tiền mua thức ăn và sữa cho bé vì con... không còn sữa nữa!
Tôi xót xa cảm động khi nghe Ann kể bị tắt sữa, con bé còn quá bé nhỏ phải chịu đựng sự đau đớn khổ sở, cái tuổi mà những đứa bé khác chỉ biết ăn biết chơi.
Tôi cắt ngang nét rầu rĩ của con bé:
-Thôi bây giờ để chuyện buồn sang một bên đi, cô muốn báo tin mừng cho cháu là cháu đã được trung tâm hỗ trợ trẻ em nhận đơn, cháu đã có chỗ ở rồi đấy, cháu có thể đến ở ngay hôm nay...
Cô bé giương cặp mắt to tròn lên nhìn tôi với vẻ nghi ngờ:
-Hôm nay sao? Hôm nay cháu có chỗ ngủ chính thức cho hai mẹ con sao? Có phải là sự thật không, cháu không nghe lầm chứ?
Những giọt nước mắt cảm động lẫn mừng vui bắt đầu lả chả rơi xuống khuôn mặt ngây thơ, hốc hác xanh xao:
-Cháu cám ơn cô rất nhiều đã giúp đỡ cháu nhé, cháu mang ơn cô suốt đời...
Không hiểu sao, tôi có một tình cảm thật đậm đà với cô bé này, dù chỉ mới quen em vài ngày thôi, câu chuyện của em đã làm lòng tôi xao xuyến, thương tâm. Tôi để hai mẹ con em ấy ngồi dưới bếp, dùng chút sữa với bánh trái cho đỡ đói, phone ngay xuống trung tâm nhờ người đến đón hai mẹ con cháu Ann, nhưng họ nhờ ngược lại tôi chở cháu xuống đó vì không có đủ nhân viên đi đón người mới.
***
Một tháng sau, tôi lấy vài ngày hè, người đầu tiên tôi nghĩ là đến thăm bé Ann, tôi muốn biết cuộc sống của hai mẹ con bây giờ ra sao, nhân tiện muốn đem một số quần áo còn mới của những đứa bé nhà giàu chỉ mặc qua một lần đã bỏ, vài thùng sữa bột và tã cho baby. Tôi miên man nghĩ về em trên suốt quãng đường đến trung tâm cách nhà tôi khoảng 45 phút, cũng ở trong Orange County, tưởng tượng đến khuôn mặt bầu bĩnh, đôi mắt ngây thơ non dại của người mẹ nhí này...
Trước khi vào thăm ngôi nhà chung của Ann, tôi gặp cô Nhàn, giám hộ người Việt Nam tạm thời cho Ann, kể cho tôi nghe:
-Ann rất chăm chỉ học hành, còn nhỏ mà rất có trách nhiệm với đứa con, đến nhà trẻ thăm con vào mỗi giờ nghỉ giữa ngày của buổi học, lo cho con bú điều độ và đúng giờ. Ngày cuối tuần em cũng giành hết thì giờ cho con nhỏ, khi baby ngủ thì Ann ngồi vào bàn học ngay, rất ít đi chơi. Nhìn cô bé chăm chỉ mà mình rơi nước mắt vì chưa thấy có ai giống vậy, Ann là một ngoại lệ, em đã trưởng thành trước tuổi, những cô bác sống xung quanh đều muốn giúp em một tay nuôi bé nhưng em luôn từ chối để tự mình trông con.
Tôi gặp Ann với đứa bé ở hàng hiên phía sân sau ngôi nhà. Ann đang lúi húi làm bài tập ở trường, con bé con nằm sát một bên, ngoan ngoãn như con búp bê. Ann ngẩng đầu lên, bất chợt thấy tôi, bé mừng rỡ, vứt ngay cây bút xuống bàn, chạy ra ôm chầm lấy tôi:
-Cô Helen! Cô Helen có khỏe không? Con nhớ cô rất nhiều, con mong cô đến chơi lắm!
-Cô mang cho cháu một chút quần áo, sữa và tã cho baby, với lại xem cháu có thích nghi với cuộc sống mới này không? Có vui không hay lúc nào cũng... nhớ về quá khứ?
-Cháu rất ok, cháu bận quá nên không có thì giờ nghĩ đến việc đã qua nữa... Với lại đã qua rồi thì... buồn cũng không làm gì được!
-Cháu thật ngoan và can đảm lắm, cô rất khâm phục đó!
Tôi bế đứa bé lên hôn lên đôi má hồng đào của nó, hỏi Ann:
-Con đặt tên cho búp bê này là gì vậy?
-Dạ là Dove, con mong cuộc đời nó phẳng lặng và an lành như con chim bồ câu đem sự thiện lành đến cho những người mà nó gặp trong cuộc sống của nó.
-Thật dễ thương và ý nghĩa quá! Sao cháu có thể nghĩ ra tên này vậy? Có ai chỉ cho cháu không?
-Cháu rất thích ngắm chim bay, những con chim bồ câu trắng hay đến đầy sân nhà cháu khi mẹ còn sống, lúc đó con còn rất nhỏ, mẹ hay nói là bồ câu trắng đem lại sự hòa bình, yên vui cho mọi người, nên từ đó hình ảnh con bồ câu trắng mãi trong trí óc của con.
Tôi ôm Ann vào lòng, thấy thương con bé sớm côi cút, rất hiểu chuyện. Tôi đề nghị:
-Cô chỉ có một mình ở nơi đất khách quê người mà thôi, cô có một con trai lớn, nó đã có gia đình riêng rồi, cháu có muốn... làm con gái út của cô không? Mình có rau ăn rau, có cháo ăn cháo, hai cô cháu mình sống nương tựa với nhau cho tới khi cô trăm tuổi có được không?
Ann mừng rỡ ôm chặt lấy tôi như sợ tôi biến đi mất. Tôi cảm nhận được trái tim cô bé đập thật nhanh với tất cả sự biết ơn và hạnh phúc:
-Con... con xin cám ơn cô, sẽ mang ơn này suốt đời... Con vui quá, từ đây con sẽ có cô là người thân duy nhất trên cuộc đời này rồi... Con xin hứa sẽ là một người tốt để không phụ lòng cô!
***
Thời gian vun vút trôi, tôi đã về hưu sau khi cống hiến trên 30 năm cho ngân hàng Bank of America, con trai tôi đã theo công sở rời nhà qua Minnesota, rất hiếm khi về thăm mẹ, nhưng nó rất yên tâm vì thấy cách cư xử của Ann đối với tôi thật trọn tình trọn nghĩa. Ann đã lập gia đình với một người Mỹ làm cùng hãng, sống cách nhà tôi một con đường, chiều nào hai vợ chồng cũng đi bộ đến nhà để cùng ăn cơm tối với tôi. Cả hai đã có thêm một đứa con trai, Jimmy 11 tuổi, cháu bé trai này được tôi nuôi ẵm bồng từ lúc mới lọt lòng nên quấn quít bà ngoại lắm. Cháu nói chuyện với gia đình bằng tiếng Mỹ, nhưng khi qua nhà bà thì đổi sang tiếng Việt không dấu, chút ngọng nghịu thật dễ thương làm sao.
Còn bé Dove đã thành cô gái 21 tuổi, duyên dáng, đang theo học bác sĩ, cô bé có trái tim nhân ái, yêu thương giúp đỡ mọi người như cái tên Dove của cháu vậy.
Từ khi đặt chân đến nước Mỹ, quê hương thứ hai, đất nước của tự do, của những giấc mơ, hoài bão về tương lai, tôi đã nguyện với lòng trước nhất phải thành thân, kế đó giúp đỡ cộng đồng người Việt lớn mạnh, tự lực, không là những kẻ ăn bám xã hội, nay tôi đã toại nguyện, đã thực hiện được giấc mơ ấy!
Cơn gió nhẹ thoáng qua, những mảnh nắng vỡ nhảy múa lung linh trước thềm, tiếng chân thằng bé Jimmy chạy từ nhà sau lên, ôm lấy ngang hông tôi:
-Thưa bà con mới đi học về, cám ơn bà đã “giặt” cái xe đạp cho con hết bụi nhé!
Bạn không có quyền gửi bài viết Bạn không có quyền trả lời bài viết Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn Bạn không có quyền tham gia bầu chọn