XIN GIẢI THÍCH
Nhân đọc bài trong mục TÌM HIỂU VIỆT NAM của lamson lee (ngày 12-7-2019) trong loạt bài Đầu Năm Nói Chuyện Bói Toán, tôi thấy có đoạn sau đây, xin chép lại nguyên văn:
“Lẽ ra người viết không muốn nói đến việc củ, nhưng nói ra chỉ để mà dẫn chứng sự sai lệch của những sự tranh cãi liên miên về lai lịch của một loại KINH trong LỤC KINH của Tàu. Thật là ác giã ác báo. Kinh dịch là loại kinh cổ điển thứ sáu (lục kinh) mà người Tàu thuộc loại trí giã lại không tự chứng minh được là của ai?? có vui không, vì cái sỡ học của Hán là cái học trộm cướp. Nên chứng minh sau được??? ”
Bỏ qua các luận chứng của tác giả nêu ra ở đoạn trên, chúng tôi chỉ lấy làm lạ khi tác giả nói LỤC KINH.
Vì hình như xưa nay người ta chỉ nói TỨ THƯ & NGŨ KINH ; tứ thư là: Đại học, Trung dung, Luận ngữ và Mạnh tử, còn ngũ kinh là: kinh Thi, kinh Thư, kinh Lễ, kinh Dịch và kinh Xuân Thu. Mặc dù sử có nói đến kinh Nhạc, nhưng kinh này bị Tần thỉ hoàng đốt chẳng còn lại bao nhiêu, cho nên sử chỉ ghi NGŨ KINH vì năm kinh này còn đầy đủ.
Cho nên thiển ý của chúng tôi nêu lên là: nên gọi NGŨ KINH hay là lục kinh?
***********************************************
Còn chuyện BÓI TOÁN chỉ nói cho vui trong lúc “trà dư tửu hậu” thôi, mà hồi xưa các cụ nhà ta hay gọi là RỜ MU RÙA (lẽ ra phải nói là MAI RÙA). Bởi thế dân gian có câu “Bói ra ma quét nhà ra rác” là thế. Vì THIÊN CƠ BẤT KHẢ LẬU mà, người xưa đã nói thế.
Bởi vậy KINH DỊCH lưu lại chỉ có TƯỢNG mà chẳng có LỜI. LỜI tức là những gì về sau do các triết gia Trung Hoa cổ thời (gọi là thánh nhân) viết để luận bàn theo ý của quí ngài thôi. Cho nên nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Nho giáo thường nói: Đọc DỊCH phải là NHỚ TƯỢNG mà bỏ LỜI là thế.
***********************************************
Sau hai quyển sách viết về Kinh Dịch của Phan Bội Châu (1867-1940) và Ngô Tất Tố (1894-1954) là bộ DỊCH KINH TÂN KHẢO của Kiến trúc sư NGUYỄN MẠNH BẢO (? -?) được nhiều vị học giả lưu ý. Sách được tác giả tự xuất bản năm 1958, in tại nhà in Sen Vàng, Sài Gòn ; khổ to nhất (15 cm x 23cm), gồm 7 quyển, mỗi quyển trên dưới 600 trang, tất cả trên 4000 trang; quả là một công trình đồ sộ thời đó. Chính vì thế mà tác phẩm này được trao giải thưởng Văn chương Toàn quốc năm 1961. Mà khi đó, một tờ báo có viết rằng “Tác giả tuyên bố: chưa chắc những người trong ban giám khảo đã đọc hết tác phẩm của tôi. ”. Bộ sách chúng tôi đang có là bộ đóng bìa cứng, gáy mạ chữ vàng.
Tuy nhiên, cuốn 1 thì ghi “in tại nhà in Sen Vàng, Sài Gòn 1958” trong khi cuốn 7 (cuốn chót) lại ghi ở cuối trang 3668: Sài Gòn ngày 16 tháng giêng 1959, tức là ngày mùng 8 tháng chạp năm Mậu Tuất. Cổ Kim Ấn Quán.
Cũng trong trang này, tác giả viết mấy lời, đọc thấy cảm động lắm: ”Sau khi nhà in và xuất bản Cổ Kim Ấn quán thành lập xong, vì quá sức làm việc, tác giả phải nằm giường bệnh 90 ngày mà vẫn sửa bài cho máy chạy. “.
Và, ở mấy trang cuối của quyển 1 (đánh số trang từ A đến E), tác giả viết mấy lời cũng rất cảm động:
“CÙNG QUÍ-VỊ ĐẠI-ĐỨC và HIỀN-TRIẾT ĐÔNG-TÂY
Tôi rất đội ơn Quí-Vị Đại-Đức và Hiền-Triết Cổ Kim Âu-Á đã sáng-tác và lưu lại những tác-phẩm mà tôi đã dùng để tham-khảo bộ Dịch-Kinh Tân-Khảo này.
Những Kinh-Sách để tham-khảo:
(...)
Bao gồm năm loại: Loại Hán văn (21 quyển), Loại Việt văn (3 quyển), Loại Nhật văn (1 quyển), loại Anh văn (2 quyển) và loại Pháp văn (35 quyển).
Còn mấy cuốn viết về Dịch như của Phan Bội Châu (1867-1940), Ngô Tất Tố (1894-1954) thì trước 1975 đã có sau này được in lại nhiều lần; kể cả sách về Dịch của Nguyễn Duy Cần (1907-1998) và Nguyễn Hiến Lê (1912-1984).
Sau này, đến năm 2011 có hai cuốn giá trị:
1- Kinh Dịch, Cấu Hình Tư Tưởng Trung Quốc, dịch giả: Lê Anh Minh và Dương Ngọc Dũng; nxb Khoa học Xã hội, 2011, in lần II, dài 925 trang khổ lớn.
2- Chu Dịch Đại Truyện, do Lê Anh Minh (dịch & chú), nxb Khoa học Xã hội, 2011, dài 361 trang khổ lớn.
Tây đô, chiều chủ nhật,
July 21st 2019
CHỮ ÍT TÌNH NHIỀU
भक्तिवेदन्तविद्यारत्न
|