Đã tháng 9 tây rồi trời vẫn nóng hầm, bỏ ra bờ sông chơi hóng mát chợt thấy hàng cây táo dại vàng ươm rực lửa, lá đã đồi mồi để chuyển qua màu đỏ mới cảm thấy thu đã về. Tối về đọc Chim Việt Cành Nam online lại thấy thi sĩ Đỗ Đình Tuân đăng tám bài thơ Thu bằng chữ Hán của thi hào Nguyễn Khuyến, đang lúc rỗi rảnh bèn dịch chơi cho đỡ nhớ nhà! Mời các anh chị cùng thưởng thức.
Thân
LB
Bài 1
秋山宵望
八靣村墟一嵿孤
纔登萬象入中都
風輕雲弄嫦娥影
霧霽天高北斗區
品物一天金世介
江山四顧玉輿圖
霜鳴何處秋声答
喚起欧陽澡思蘇
Phiên âm:
Thu Sơn tiêu vọng
Bát diện thôn khư nhất đính cô
Tài đăng vạn tượng nhập trung đô
Phong khinh vân lộng thường nga ảnh
Vụ tễ thiên cao bắc đẩu khu
Phẩm vật nhất thiên kim thế giới
Giang sơn tứ cố ngọc dư đồ
Sương minh hà xứ thu thanh đáp
Hoán khởi Âu Dương * táo tứ tô
Dịch Nghĩa:
Đêm thu đứng trên núi trông
Tám mặt xóm làng một ngọn núi trơ trọi
Vừa leo lên đã thấy hình tượng muôn vàn thu vào chính giữa
Gió nhẹ những đám mây giỡn bóng Hằng Nga
Mù tan trục bắc đẩu nhô cao trên vòm trời
Đầy trời phẩm vật như một thế giới vàng
Bốn mặt non sông như một tấm dư đồ bằng ngọc
Một tiếng sương thu từ đâu đáp lại
Gợi nhớ đến bài phú của Âu Dương khi xưa.
Dịch vần:
Đêm thu trên núi
Tám mặt xóm làng một đỉnh cao
Vừa lên trăm cảnh chợt thu vào
Mây vờn gió ghẹo vầng trăng sáng
Mù sạch trời quang bắc đẩu cao
Thế giới một bầu vàng khắp cõi
Non sông bốn mặt ngọc đồ bao
Sương rơi một tiếng thu đâu lại
Gợi nhớ Âu Dương phú thuở nào.
Đỗ Đình Tuân
Ghi chú:
*Âu Dương: tức Âu Dương Tu đời Tống (TQ) có bài phú "Tiếng thu" nổi tiếng
Đêm thu vọng
Tám hướng làng quây một núi cô
Vừa lên vạn cảnh thoáng lô xô
Mây đùa gió nhẹ cung nga chiếu
Móc tạnh trời cao bắc đẩu nhô
Phẩm vật một trời vàng thế giới
Giang sơn bốn cõi ngọc dư đồ
Sương kêu đâu đó lời thu đáp
Gợi nhớ Âu Dương viết phú xưa
Lộc Bắc
Sept2015
Bài 2
秋夜有感
山河寥落四無声
獨坐書堂看月明
何處秋風吹一葉
引來無限故園情
Phiên âm:
Thu dạ hữu cảm
Sơn hà liêu lạc tứ vô thanh
Độc tọa thư đường khán nguyệt minh
Hà xứ thu phong xuy nhất diệp
Dẫn lai vô hạn cố viên tình
Dịch Nghĩa:
Cảm xúc đêm thu
Non sông bốn mặt lặng ngắt như tờ
Một mình ngồi trong nhà học ngắm trăng sáng
Gió thu từ đâu thổi một chiếc lá đến
Khêu gợi lên biết bao mối tình nhớ nhà
Dịch vần:
Cảm xúc đêm thu
Non sông bốn mặt im lìm
Ngồi trong nhà học lặng nhìn trăng thanh
Gió thu chiếc lá lìa cành
Lòng man mác xiết bao tình nhớ quê
Đỗ Đình Tuân
Đêm thu xúc cảm
Non sông bốn hướng lặng như tờ
Phòng học một mình ngắm nguyệt mơ
Chiếc lá, gió thu đâu đến nhỉ?
Gợi buồn vô tận nhớ quê xưa
Lộc Bắc
Sept2015
Bài 3
秋夜砧聲
更深霜重晏裘輕
四顧寒砧枕畔縈
搗月高低侵角嚮
隨風斷續散虫聲
驚回戍婦襄城夢
喚起征夫魏闕情
一種幽愁消未得
遠山何處又鐘鳴
Phiên âm:
Thu dạ châm thanh
Canh thâm sương trọng án cừu khinh
Tứ cố hàn châm chẩm bạn oanh
Đảo nguyệt cao đê xâm giác hưởng
Tùy phong đoạn tục bán trùng thanh
Kinh hồi thú phụ tương thành mộng
Hoán khởi chinh phu ngụy khuyết tình
Nhất chủng u sầu tiêu vị đắc
Viễn sơn hà xứ hựu chung minh
Dịch Nghĩa:
Tiếng đập vải đêm thu
Canh khuya sương nặng áo cừu tía nhẹ
Tiếng đập vải bốn bề vang quanh bên gối
Dồn dập dưới trăng cao thấp át cả tiếng tù và
Theo làn gió đứt nối lẫn vào tiếng dế
Khua tỉnh giấc mộng Tương Thành của người thú phụ
Gợi dậy tình ngụy khuyết của kẻ chinh phu
Một thứ u sầu chưa tiêu tan được
Ở ngọn núi xa nào đó lại nghe tiếng chuông rền.
Dịch thơ:
Tiếng đập vải đêm thu
Canh khuya áo nhẹ sương dày
Nghe quanh bên gối tiếng chày gần xa
Thấp cao át tiếng tù và
Dưới trăng đứt nối lan hòa tiếng sâu
Mộng hồn thú phụ tan mau
Gợi tình ngụy khuyết mối sầu chinh phu
Khối buồn mãi chẳng tan cho
Núi xa đâu đó chuông chùa lại vang.
Đỗ Đình Tuân
Tiếng chày đêm thu
Canh khuya sương nặng áo mong manh
Chày đập bốn bên gối quẩn quanh
Dồn dập dưới trăng che kẻng rúc
Gió đưa trầm bổng dế cầm canh
Hoảng kinh vợ lính vừa nhen mộng
Khơi dậy chinh phu mối khuyết tình
Một thứ u sầu chưa xóa được
Núi xa đâu đó tiếng chuông nhanh
Lộc Bắc
Sept2015
Bài 4
甲申中秋寓河內有感
寄同年举人吳金鼓人
十年此地此中秋
城郭依依景已殊
白燭紅燈迷遠近
素冠青蓋雜誰吾
蘇江有恨濤声急
濃領無情夜月孤
夜禁近聞严肅甚
詩翁曾意舊遊不
Phiên âm:
Giáp Thân trung thu ngụ Hà Nội hữu cảm
Ký đồng niên cử nhân Ngô Kim Cổ Nhân
Thập niên thử địa thử trung thu
Thành quách y y cảnh dĩ thù
Bạch chúc hồng đăng mê viễn cận
Tố quan thanh cái tạp thùy ngô
Tô giang hữu hận đào thanh cấp
Nùng lĩnh vô tình dạ nguyệt cô
Dạ cấm cận văn nghiêm túc thậm
Thi ông tăng ý cựu du phầu
Dịch Nghĩa:
Cảm nghĩ nhân dịp tết Trung thu năm Giáp Thân (1884) ở Hà Nội viết gửi cho bạn đồng niên là ông cử họ Ngô (Người làng Kim Cổ)
Cũng tết trung thu ta ở nơi đây mười năm về trước
Thành quách còn y nguyên nhưng cảnh đã khác
Nến trắng đèn đỏ lấp loáng như gần như xa
Mũ trắng dù xanh lẫn lộn ta với người
Sông Tô như giận tiếng sóng vỗ dồn dập
Núi Nùng vô tình mảnh trăng đêm trơ trọi
Lệnh cấm đi đêm gần đây nghe nghiêm ngặt lắm
Nhà thơ có còn nhớ cuộc đi chơi trước kia không?
Dịch thơ:
Hà Nội trước tết Trung thu năm Giáp Thân (1884)
Mười năm về trước cũng nơi đây
Thành quách như xưa cảnh đổi thay
Nến trắng đèn hồng trưng đấy đó
Dù xanh khăn đỏ lẫn tao mày
Dòng Tô nuốt hận dồn cơn sóng
Ngọn Lĩnh thờ ơ lạnh áng mây
Lệnh cấm đi đêm nghiêm ngặt lắm
Trước kia ông có nhớ chăng hầy?
Đỗ Đình Tuân
Hà Nội trung thu
Mười năm thu trước, cũng nơi này.
Thành quách y nguyên, cảnh đổi thay
Nến bạc, đèn hồng xen viễn cận
Dù xanh mũ trắng lẫn tôi thầy
Sông Tô sóng hận xô dồn dập
Núi Lĩnh vô tình nguyệt hóa ngây
Lệnh cấm đi đêm giờ bỗng ngặt
Thi ông còn nhớ chuyện xưa bày?
Lộc Bắc
Sept2015
Bài 5
秋熱
已過重陽氣尚温
含杯盡日倚柴門
綠環水帯疑將束
青染天衣不見痕
風水常如五六月
雨雷遠入两三村
歸來遂我田園趣
世事搔頭笑不言
Phiên âm:
Thu nhiệt
Dĩ quá trùng dương khí thượng ôn
Hàm bôi tận nhật ỷ sài môn
Lục hoàn thủy đới nghi tương thúc
Thanh nhiễm thiên y bất kiền ngân
Phong thủy thường như ngũ lục nguyệt
Vũ lôi viến nhập lưỡng tam thôn
Uy lai toại ngã điền viên thú
Thế sự tao đầu tiếu bất ngôn
Dịch nghĩa:
Mùa thu trời nóng
Đã qua tiết trùng dương mà khí trời vẫn còn nóng
Suốt ngày chỉ ngồi tựa cửa sài uống nước
Vòng nước biếc vây quanh tưởng như cái đai thắt lại
Da trời xanh biếc như chiếc áo không thấy vết khâu
Nắng gió vẫn như ngày tháng năm tháng sáu
Tuy có mưa sấm nhưng ở tận mấy làng xa
Về nghỉ là được thỏa cái chí điền viên của ta
Còn mọi việc trên đời có nghe thấy cũng chỉ gãi đầu mỉm cười không nói.
Chú thích:
1. Trùng dương: cũng còn gọi là trùng cửu, tên một tiết, tức ngày mồng chín tháng 9 âm lịch hàng năm.
Dịch thơ:
Mùa thu nóng
Qua tiết trùng dương khí vẫn nồng
Suốt ngày tựa cửa uống rượu suông
Vây quanh dòng nước như đai thắt
Xanh biếc da trời chiếc áo nhung
Nắng gió nóng oi như giữa hạ
Sấm mưa xa mãi phía hừng đông
Trở về thỏa chí điền viên trước
Mọi việc trên đời biết cũng không.
Đỗ Đình Tuân
Thu nồng
Qua tiết trùng dương nóng vẫn hầm
Suốt ngày tựa cửa uống như vâm
Vây quanh nước biếc như đai thắt
Xanh nhạt da trời chẳng vết thâm
Nắng gió vẫn nồng như tháng hạ
Sấm mưa tuy có chốn xa xăm
Nghỉ ngơi thỏa chí điền viên nhé
Thế sự, gãi đầu, miệng nín câm!
Lộc Bắc
Sept2015
Bài 6
中秋前一日與縣尹楊君
南帮武君舟中唱歌
入夜烟波未十分
孤舟蕩漾一風薰
半空篙櫓侵江月
满坐琴歌遏白雲
劇兴未應愁此老
幽懷聊為慰諸君
近来只欲南窗卧
瀟瑟胡笳不忍聞
Phiên âm:
Trung thu tiền nhất nhật dữ huyện doãn Dương quân
Nam bang vũ quân chu trung xướng ca
Nhập dạ yên ba vị thập phân
Cô chu đãng dạng nhất phong huân
Bán không cao lỗ xâm giang nguyệt
Mãn tọa cầm ca át bạch vân
Kịch hứng vị ưng sầu thử lão
U hoài liêu vị úy chư quân
Cận lai chỉ dục nam song ngọa
Tiêu sắt hồ già bất nhẫn văn
Dịch nghĩa:
Trước hôm trung thu một ngày cùng ông huyện họ Dương
và ông bang tỉnh Nam họ Vũ nghe hát ở dưới thuyền
Lúc chập tối trên mặt sông khói mới tỏa sóng mới gợn lăn tăn
Một con thuyền dập dờn trong làn gió nhẹ
Sào và chèo cao lưng trời lấn cả sóng trên sông
Tiếng đàn hát nhộn nhịp trong tiệc làm cho đám mây trắng ngừng lại
Hứng vui quá mạnh xin chớ lấy lão làm phiền
Nỗi lòng thầm kín chỉ mong làm khuây cho các bác
Gần đây chỉ muốn nằm khểnh trước cửa sổ phía nam
Những tiếng kèn hồ buồn rứt không muốn để lọt tai.
Dịch thơ:
Trước Trung thu một ngày đi nghe hát trên sông
Chập tối mặt sông khói sóng nhen
Một cơn gió nhẹ lướt con thuyền
Lưng trời sào mái sông trăng lấn
Đàn sáo đầy thuyền mây lắng yên
Cao hứng chớ lo phiền dạ lão
Lòng riêng những muốn thỏa anh em
Lâu nay chỉ muốn nằm chơi khểnh
Những thứ kèn hồ chẳng thích xem.
Đỗ Đình Tuân
Trung thu nghe hát
Chập tối mặt sông khói sóng lan
Thuyền con nhẹ lướt gió xa gần
Ngang trời chèo mái trăng sông chiếm
Nhộn nhịp đàn ca níu bạch vân
Hứng chí cũng không vừa dạ lão
Buồn riêng mong thỏa những người thân
Gần đây chỉ muốn xuôi nam, nghỉ
Kèn sáo du dương chả thiết cần!
Lộc Bắc
Sept2015
Được sửa bởi MAI THO ngày Sat Jun 18, 2016 8:40 pm; sửa lần 2.
Hàng cây táo dại ươm vàng rực lửa (*)
Lá rơi ngoài cửa kêu gọi thu về
Tụ tập tại đây xúc động đam mê
Vần thơ -Hán Việt- muôn đời bất diệt
Thời gian chạy trôi, chẳng gì phai biến
Thơ cổ, lời xưa, âm điệu một thời
Vang danh ngày đó suốt kiếp muôn đời
Lòng luôn rung động trước lời tiền bối
Cuộc sống bôn chen, tháng ngày qua vội
Lặng nghe, ngẫm nghĩ… xúc động bồi hồi
Hồn thưởng thức, tim lắng đọng trong tôi
Ôi ! lời thơ xưa mãi luôn bất hủ… QuangBĐ (*) câu mượn của tác giả trên
Gửi: Sun Sep 27, 2015 11:08 am Tiêu đề: Thu dạ châm thanh - Nguyễn Khuyến
Thu Dạ Châm Thanh - Nguyễn Khuyến
秋夜砧聲 - 阮勸 Thu Dạ Châm Thanh - Nguyễn Khuyến
更深霜重晏裘輕 Canh thâm sương trọng án cừu khinh,
四顧寒砧枕畔縈 Tứ cố hàn châm chẩm bạn oanh.
搗月高低侵角嚮 Đảo nguyệt cao đê xâm giác hưởng,
隨風斷續半虫聲 Tùy phong đoạn tục bán trùng thanh.
驚回戍婦襄城夢 Kinh hồi thú phụ tương thành mộng,
喚起征夫魏闕情 Hoán khởi chinh phu ngụy khuyết tình.
一種幽愁消未得 Nhất chủng u sầu tiêu vị đắc,
遠山何處又鐘鳴 Viễn sơn hà xứ hựu chung minh.
Dịch nghĩa:
Đập Vải Đêm Thu
Canh khuya sương nặng áo khoác nhẹ (1)
Bốn bề tiếng đập quanh quẩn bên gối (2)
Dưới trăng (tiếng đập vải) cao thấp át cả tiếng tù và. (3)
Theo gió đứt nối lẫn với tiếng côn trùng.
Khua tỉnh giấc mộng “Tương Thành”của người vợ lính (muốn được đoàn tụ với chồng đang chinh chiến phương xa). (4)
Gợi dậy lòng ham muốn công danh của kẻ chinh phu. (5)
Một thứ u sầu chưa tiêu tan được
Từ núi xa nào đó lại có tiếng chuông.
(1) Cừu 裘 = áo bằng da thú.
Án Cừu晏裘 = Áo của Tể Tướng Án Anh đời Chiến quốc. Vì muốn tiết kiệm nên ông mặc 1 cái áo khoác bằng da rất lâu. Về sau người ta dùng chữ “Án cừu” để chỉ sự tiết kiệm hay cảnh nghèo khó. Đỗ Mục đời Đường có thơ rằng:
(3) Đảo Nguyệt 搗月 = ám chỉ trăng sáng = do câu Ngọc thố đảo dược 玉兔搗藥 = tương truyền trên mặt trăng có con thỏ trắng ngồi giã thuốc trường sinh.
Xâm 侵 = tiến dần, xâm lấn, xâm đoạt.
(4) Thú phụ 戍婦 = vợ của người lính đồn trú ở phương xa.
Tương Thành 襄城 = Thuộc tỉnh Hà Nam TH. Trước Tây lịch, Chu Tương Vương 周襄王 lánh nạn nội phản chạy ra đây và cho xây thành đắp lũy vì vậy được gọi là Tương Thành. Từ đó Tương Thành là trọng điểm giao thông và quân sự. Hạng Võ 項 羽 sau khi chiếm được Tương Thành đã hạ lệnh chôn sống tất cả những người trong thành, kể cả thứ dân già trẻ lớn bé. Sau này Hạng Vũ còn tàn sát thêm 5 lần nữa và được lịch sử TH cho là “Lục thứ đại đồ sát 六次大屠殺” của Hạng Vũ. Vào cuối đời Minh, Lý Tự Thành 李自成 khởi nghĩa, công phá Tương thành nhiều lần, giết tướng triều đình là Uông Kiều Niên 汪喬年. Người chết vô số.
Tương thành mộng 襄城夢 = Cụ Nguyễn Khuyến muốn chỉ giấc mộng của người vợ lính có chồng đi chinh chiến phương xa, muốn được đoàn tụ cùng chồng (cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi?). Ngoài ra tôi không thấy còn điển tích nào khác về “Tương thành mộng”.
(5) Ngụy Khuyết 魏闕 = Cửa cao lớn trước cung điện nhà vua. Ngụy khuyết tình 情 hay ngụy khuyết tâm 心 ám chỉ lòng ham muốn công danh.
Nước gió (thời tiết) vẫn như ngày tháng năm tháng sáu, (5)
Mưa sấm rơi xuống vài ba làng xa.
Về lại (quê) thỏa cái thú điền viên của tôi,
Mọi việc trên đời (chỉ) gãi đầu mỉm cười không nói.
Chú thích:
1. (Tiết) Trùng dương 重陽: vào ngày mồng 9 tháng 9 âm lịch vì vậy còn gọi là
tiết Trùng cửu. Những tên khác là Tiết Kính lão, Đạp thu, Cúc hoa, Đăng cao...
2. Hàm 含: ngậm; Sài 柴: củi để đun bếp; Sài môn柴門: khung cửa dùng gỗ
vụn, gỗ tầm thường chắp thành, chỉ cảnh nghèo khó mộc mạc.
3. Lục hoàn 綠環: vòng mầu xanh; Đái: cái thắt lưng; Thủy đái 水帯: giải nước, dòng nước; Cổ thi có câu: Thủy đái bích đào hoa loạn lưu 水带碧桃花亂流 = Hoa đào loạn trôi theo dòng nước; Thúc 束: buộc, bó.
4. Thiên y 天衣: da trời; Thanh nhiễm thiên y 青染天衣 hoặc thiên y nhiễm lam 天衣染藍: có nghĩa là da trời mầu xanh.
5. Phong thủy 風水: Trong bài này tác giả dùng chữ “phong thủy” đối với chữ “vũ lôi” ở câu dưới vì vậy phong thủy chỉ có nghĩa đen là “gió và nước” hay nghĩa bóng là thời tiết mà thôi. Ngoài ra phong thủy còn là Khoa xem phương hướng mồ mả, nhà ở, cơ sở thương mại... để mang đến mọi điều tốt lành, ngày xưa gọi là khoa Địa lý.
Gửi: Fri Jun 17, 2016 3:54 pm Tiêu đề: Thu Dạ Cùng Thanh - Nguyễn Khuyến
Thu Dạ Cùng Thanh - Nguyễn Khuyến
Thổi "tù và"
秋夜蛩聲 - 阮勸 Thu Dạ Cùng Thanh - Nguyễn Khuyến
一天星斗夜沉沉,Nhất thiên tinh đẩu dạ trầm trầm,
乍頂聲聲思不禁。Sạ đính thanh thanh tứ bất câm.
隔竹高低敲丙枕,Cách trúc cao đê xao bính chẩm,
和霜斷續瀉滄音。Hoà sương đoạn tục tả thương âm.
愁侵角戍三更月,Sầu xâm giác thú tam canh nguyệt,
喚起鄉閨萬里心。Hoán khởi hương khuê vạn lý tâm.
銷鐵橫秋男子操,Tiêu thiết hoành thu nam tử tháo,
丁寧莫使入人深。Đinh ninh mạc sử nhập nhân thâm.
Dịch Nghĩa:
Tiếng Dế Đêm Thu
Một trời đầy sao đêm thăm thẳm,
Bỗng có điệu thanh âm nổi ran lên không ngừng. (1)
Cách hàng trúc (thanh âm) cao thấp đập vào gối (2)
Hòa với sương đứt nối nhỏ xuống tạo thành âm hưởng lạnh lẽo. (3)
Cái sầu xâm nhập tiếng tù và của lính thú lúc canh ba. (4)
Gợi lên lòng nhớ gia thất (của người lính thú) từ nơi xa xăm. (5)
Tiết tháo của người nam nhi ngập khung trời thu, làm tiêu chảy cả sắt. (6)
Luôn luôn nhắc nhở không để cho (cái sầu) vào sâu (lòng) người. (7)
Chú Thích:
(1) sạ乍= chợt.
đính頂=đỉnh=rất cao, chỗ cao nhất.
thanh thanh tứ聲聲思=thanh âm có ý vị-trong bài Tỳ bà Hành của Bạch Cư Dị có câu: “Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ絃絃掩抑聲聲思” mà Phan Huy Vịnh dịch là: “Nghe não nuột mấy dây buồn bực”.
bất câm不禁=bất cấm=không đè nén được, không ức chế được.
(2) xao敲=gõ, đập.
cao đê高低=cao thấp.
bính丙=có nhiều nghĩa.
a/là can thứ 3 trong 10 thiên can, dùng đếm năm, ngày, tháng như bính tý 丙子, bính tuất丙戍.
b/thứ 3 như bính đẳng丙等=hàng thứ 3, bính dạ丙夜=canh 3 tức nửa đêm.
c/đuôi cá.
d/bính chủng xạ tuyến丙种射线=tia phóng xạ gamma.
e/lửa như: bính đinh thần丙丁神=thần lửa, phó bính付丙=cho vào lửa=đốt đi (ngụ ý bảo mật).
f/ bính hướng丙向=hướng nam.
g/bính luân丙綸=polypropylene, sợi cước hóa học dùng để dệt thảm, đan lưới.
h/bính ty丙絲=sợi, tơ hóa học.
chẩm=cái gối đầu, xương ót.
bính chẩm丙枕=cái gối đầu khi ngủ. Có thể do một câu nói của vua Đường Thái Tông được lưu truyền là: “trẫm tư thiên hạ sự, bính dạ bất an chẩm朕思天下事, 丙夜不安枕” Trẫm nghĩ việc thiên hạ, nên ban đêm gối đầu ngủ không yên. Tôi không tìm được tài liệu nào giải thích chữ này hợp lý hơn.
bính chẩm ưu丙枕憂=cái lo bên gối=cái lo canh cánh bên lòng.
Đêm thu tinh tú trầm trầm
Lắng nghe tỉnh mịch thanh âm não nùng
Trời xanh cao thấp không dừng
Lối về quanh quẫn mơ hồ giọt sương
Bước chân gõ nhịp thê lương
Tiếng còi lính thú đêm trường buồn lây
Quê nhà gợi nhớ khôn khuây
Nước Nam anh hùng ngập đầy trời thu
Lòng ta nung nấu mịt mù
Hoài về cố Quốc lòng ru nỗi sầu ...
Gửi: Sat Jun 18, 2016 3:04 pm Tiêu đề: Thu Dạ Cùng Thanh - Nguyễn Khuyến
Thu Dạ Cùng Thanh - Nguyễn Khuyến
Thổi "tù và"
秋夜蛩聲 - 阮勸 Thu Dạ Cùng Thanh - Nguyễn Khuyến
一天星斗夜沉沉,Nhất thiên tinh đẩu dạ trầm trầm,
乍頂聲聲思不禁。Sạ đính thanh thanh tứ bất câm.
隔竹高低敲丙枕,Cách trúc cao đê xao bính chẩm,
和霜斷續瀉滄音。Hoà sương đoạn tục tả thương âm.
愁侵角戍三更月,Sầu xâm giác thú tam canh nguyệt,
喚起鄉閨萬里心。Hoán khởi hương khuê vạn lý tâm.
銷鐵橫秋男子操,Tiêu thiết hoành thu nam tử tháo,
丁寧莫使入人深。Đinh ninh mạc sử nhập nhân thâm.
Dịch Nghĩa:
Tiếng Dế Đêm Thu
Một trời đầy sao đêm thăm thẳm,
Bỗng có điệu thanh âm nổi ran lên không ngừng. (1)
Cách hàng trúc (thanh âm) cao thấp đập vào gối (2)
Hòa với sương đứt nối nhỏ xuống tạo thành âm hưởng lạnh lẽo. (3)
Cái sầu xâm nhập tiếng tù và của lính thú lúc canh ba. (4)
Gợi lên lòng nhớ gia thất (của người lính thú) từ nơi xa xăm. (5)
Tiết tháo của người nam nhi ngập khung trời thu, làm tiêu chảy cả sắt. (6)
Luôn luôn nhắc nhở không để cho (cái sầu) vào sâu (lòng) người. (7)
Chú Thích:
(1) sạ乍= chợt.
đính頂=đỉnh=rất cao, chỗ cao nhất.
thanh thanh tứ聲聲思=thanh âm có ý vị-trong bài Tỳ bà Hành của Bạch Cư Dị có câu: “Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ絃絃掩抑聲聲思” mà Phan Huy Vịnh dịch là: “Nghe não nuột mấy dây buồn bực”.
bất câm不禁=bất cấm=không đè nén được, không ức chế được.
(2) xao敲=gõ, đập.
cao đê高低=cao thấp.
bính丙=có nhiều nghĩa.
a/là can thứ 3 trong 10 thiên can, dùng đếm năm, ngày, tháng như bính tý 丙子, bính tuất丙戍.
b/thứ 3 như bính đẳng丙等=hàng thứ 3, bính dạ丙夜=canh 3 tức nửa đêm.
c/đuôi cá.
d/bính chủng xạ tuyến丙种射线=tia phóng xạ gamma.
e/lửa như: bính đinh thần丙丁神=thần lửa, phó bính付丙=cho vào lửa=đốt đi (ngụ ý bảo mật).
f/ bính hướng丙向=hướng nam.
g/bính luân丙綸=polypropylene, sợi cước hóa học dùng để dệt thảm, đan lưới.
h/bính ty丙絲=sợi, tơ hóa học.
chẩm=cái gối đầu, xương ót.
bính chẩm丙枕=cái gối đầu khi ngủ. Có thể do một câu nói của vua Đường Thái Tông được lưu truyền là: “trẫm tư thiên hạ sự, bính dạ bất an chẩm朕思天下事, 丙夜不安枕” Trẫm nghĩ việc thiên hạ, nên ban đêm gối đầu ngủ không yên. Tôi không tìm được tài liệu nào giải thích chữ này hợp lý hơn.
bính chẩm ưu丙枕憂=cái lo bên gối=cái lo canh cánh bên lòng.
Gửi: Sun Jul 17, 2016 10:05 am Tiêu đề: Đối tửu - Nguyễn Du
Đối tửu - Nguyễn Du
對酒 - 阮攸 Đối tửu - Nguyễn Du
趺坐閒窗醉眼開, Phu tọa nhàn song tuý nhãn khai,
落花無數下蒼苔。 Lạc hoa vô số há thương đài.
生前不盡樽中酒, Sinh tiền bất tận tôn trung tửu,
死後誰澆墓上杯。 Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi?
春色漸遷黃鳥去, Xuân sắc tiệm thiên hoàng điểu khứ,
年光暗逐白頭來。 Niên quang ám trục bạch đầu lai.
百期但得終朝醉, Bách kỳ đãn đắc chung triêu tuý,
世事浮雲真可哀。 Thế sự phù vân chân khả ai.
Dịch nghĩa :
Ngồi xếp bằng bên cửa sổ nhàn hạ, mắt say mở, (1)
Hoa rơi vô số xuống rêu xanh. (2)
Lúc sống không (uống) cạn chén rượu (3),
Chết rồi, ai (cầm) cái ly để trên nấm mồ mà rưới? (được hiểu là rưới lên mộ) (4)
Sắc xuân thay đổi dần, chim vàng bay đi, (5)
Năm tháng ngầm thúc dục, đầu bạc đã đến. (6)
Trăm năm, chỉ được suốt ngày say, (7)
Thế sự (như) mây nổi, thật đáng buồn.
Chú thích:
(1) phu tọa = ngồi xếp bằng, ngồi kiết già.
(2) Phỏng theo 1 câu thơ của Triệu Quỳ趙葵 đời Tống:
落花無數點蒼苔 lạc hoa vô số điểm thương đài.
(3) Tôn = cái chén uống rượu, cái chai.
(4) Kiêu= rưới, tưới; mộ thượng bôi = cái ly để trên nấm mồ. (chữ “mộ thượng bôi” ở câu 4 đối với chữ “tôn trung tửu” của câu 3)
(Chú ý: chữ “bất=chẳng”, phủ nhận trợ động từ, ở câu 3 đối với chữ “thùy=ai”, nghi vấn đại danh từ ở câu 4, gây lúng túng cho người muốn dịch sát nghĩa bằng thơ Đường luật)
(5) Tiệm thiên=dần dần thay đổi.
(6) Niên quang=nói về thời gian.
Ám trục=ngầm đuổi.
(7) bách kỳ= đời người, do câu nhân sinh bách tuế vi kỳ人生百嵗為期 =đời người hạn kỳ 1 trăm năm, hoặc câu bách niên viết kỳ di百年曰期頤 =1 trăm năm là hạn kỳ của đời sống.
Chung triêu = có 2 nghĩa: suốt buổi sáng, cũng được hiểu là suốt ngày (chỉnh thiên 整天, chung nhật終日, theo Hán Điển)
Tạm Dịch:
(1)
Xếp bằng bên cửa mắt mơ say,
Hoa rụng xuống rêu xanh điểm đầy.
Chai rượu lúc sinh tu chẳng cạn,
Mộ phần khi tử rưới còn ai?
Mầu xuân dần nhạt chim vàng biến,
Thời khắc ngầm xui tóc bạc phai.
Bách tuế suốt ngày say túy lúy,
Chuyện đời mây nổi đáng buồn thay.
(2)
Xếp bằng bên cửa mắt say,
Hoa rơi vô số phủ đầy rêu xanh.
Rượu ly chẳng cạn lúc sinh,
Chết rồi nấm mộ ai đành rưới đây?
Sắc xuân dần nhạt chim bay,
Thời gian thôi thúc tóc mây bạc mầu.
Trăm năm mong được say lâu,
Chuyện đời mây nổi nỗi sầu không phai.
HHD
Đối Tửu
1-
Ngồi chơi bên cửa mắt mờ cay
Hoa rụng trên rêu phủ lớp đầy
Lúc sống rượu chai không uống cạn
Chết rồi ai tưới mộ dùm đây?
Sắc xuân dần nhạt chim vàng khuất
Năm tháng dục ngầm tóc trắng phai
Được cái trăm năm say túy lúy
Mây trôi thế sự đáng buồn thay!
2-
Ngồi chơi bên cửa mắt cay
Thềm rêu hoa rụng lấp đầy sắc xanh
Rượu không cạn chén lúc sinh
Chết rồi ai rưới mộ mình dùm đây
Mùa Xuân dần nhạt, chim bay
Thời gian dục dã tóc tai đổi mầu
Trăm năm uống suốt giải sầu
Chuyện đời mây nổi chìm sâu nỗi buồn!
Kính chào quí Văn, Thi hữu.
Xin phép được đóng góp với quí vị một chút cho vui .
Mạn phép hoạ hai bài thơ của Thi hữu Lộc Bắc.
Nếu có gì không phải kính mong thứ lỗi
NguyễnTâmHàn
**********
Trước rượu
1-
Bên cửa khoanh chân nhướng mắt cay
Thềm rêu hoa rớt phủ giăng đầy
Còn sinh rượu đó ta tu đấy
Hết kiếp mộ nào kẻ tưới đây ?
Xuân thắm đang lui chim chóc khuất
Năm chồng đã điểm tóc sương phai
Trăm năm nếu có dường say khướt
Thế sự mây trời , thật thảm thay
2-
Bên song nhướng mắt còn cay
Hoa rơi phủ ngập thềm đầy rêu xanh
Say sưa cho trọn kiếp sinh
Mộ khô ai kẻ thương mình tưới đây ?
Xuân tàn én đã xa bay
Thời gian phủ xuống tóc phai nhạt mầu
Đời trăm năm, rượu giải sầu
Thế tình mây dạt trũng sâu kiếp buồn
NguyễnTâmHàn
_________________ Chút niềm vui cho mình, cho người
Gửi: Fri Oct 28, 2016 10:50 am Tiêu đề: Thu Thành Vãn Vọng
Thu Thành Vãn Vọng
秋城晚望-阮飛卿 Thu Thành Vãn Vọng-Nguyễn Phi Khanh
木落都城九月天,Mộc lạc đô thành cửu nguyệt thiên,
斜陽罩地截雲煙。Tà dương tráo địa tiệt vân yên.
離鴻遠遠迎風陣,Ly hồng viễn viễn nghênh phong trận,
隙月涓涓隔樹懸。Khích nguyệt quyên quyên cách thụ huyền.
吟興四時秋易感,Ngâm hứng tứ thời thu dị cảm,
人生萬事老堪憐。Nhân sinh vạn sự lão kham liên.
兵戈況復彫殘後,Binh qua huống phục điêu tàn hậu,
遙望晴旻一慨然。Dao vọng tình mân nhất khái nhiên.
Dịch nghĩa:
Chiều mùa thu ở đô thành ngắm cảnh.
Đô thành lá cây tàn rụng, trời tháng chín, (1)
Nắng chiều trùm mặt đất cắt khói mây.
Xa xa đàn chim hồng ra đi bay đón cơn gió,
Ánh trăng trong sáng xuyên kẽ lá (2) (vầng trăng) treo cách ngọn cây. (3)
Hứng ngâm thơ trong bốn mùa, mùa thu rất dễ cảm,
Muôn việc trong đời người, tuổi già thì buồn bã. (4)
Sau cơn binh đao lại thêm cảnh điêu tàn, (5)
Trông xa trời tạnh ngậm ngùi thay! (6)
(1) Mộc Lạc木落: lá cây tàn rụng.
(2) Khích nguyệt隙月: ánh trăng xuyên qua kẽ hở.
Quyên quyên涓涓: hình dung nước chảy chậm chậm nhè nhẹ; hình dung trong sáng thuần khiết; mới mẻ trong sáng.
(3) Huyền懸: treo.
(4) Kham liên 堪憐: lão cảnh kham liên. 老景堪怜= cảnh già buồn bã, thê lương.
(5) Huống phục況复: thêm vào, lại thêm.
(6) Mân旻: trời, thiên không, đặc biệt chỉ trời mùa thu.
Phỏng Dịch:
Ngắm Cảnh Chiều Thu
Tháng chín thành đô lá rụng đầy,
Nắng chiều phủ đất cách trời mây.
Chim hồng lìa phố vờn cơn gió,
Trăng sáng xuyên cành chiếu ngọn cây.
Ngâm hứng bốn mùa thu dễ cảm,
Ở đời muôn việc lão buồn vây.
Điêu tàn cảnh sắc sau chinh chiến,
Xa ngắm trời quang cảm khái thay.
Gửi: Tue Nov 01, 2016 10:41 am Tiêu đề: Thu Thành Vãn Vọng
Thu Thành Vãn Vọng
秋城晚望-阮飛卿 Thu Thành Vãn Vọng-Nguyễn Phi Khanh
木落都城九月天,Mộc lạc đô thành cửu nguyệt thiên,
斜陽罩地截雲煙。Tà dương tráo địa tiệt vân yên.
離鴻遠遠迎風陣,Ly hồng viễn viễn nghênh phong trận,
隙月涓涓隔樹懸。Khích nguyệt quyên quyên cách thụ huyền.
吟興四時秋易感,Ngâm hứng tứ thời thu dị cảm,
人生萬事老堪憐。Nhân sinh vạn sự lão kham liên.
兵戈況復彫殘後,Binh qua huống phục điêu tàn hậu,
遙望晴旻一慨然。Dao vọng tình mân nhất khái nhiên.
Dịch nghĩa:
Chiều mùa thu ở đô thành ngắm cảnh.
Đô thành lá cây tàn rụng, trời tháng chín, (1)
Nắng chiều trùm mặt đất cắt khói mây.
Xa xa đàn chim hồng ra đi bay đón cơn gió,
Ánh trăng trong sáng xuyên kẽ lá (2) (vầng trăng) treo cách ngọn cây. (3)
Hứng ngâm thơ trong bốn mùa, mùa thu rất dễ cảm,
Muôn việc trong đời người, tuổi già thì buồn bã. (4)
Sau cơn binh đao lại thêm cảnh điêu tàn, (5)
Trông xa trời tạnh ngậm ngùi thay! (6)
(1) Mộc Lạc木落: lá cây tàn rụng.
(2) Khích nguyệt隙月: ánh trăng xuyên qua kẽ hở.
Quyên quyên涓涓: hình dung nước chảy chậm chậm nhè nhẹ; hình dung trong sáng thuần khiết; mới mẻ trong sáng.
(3) Huyền懸: treo.
(4) Kham liên 堪憐: lão cảnh kham liên. 老景堪怜= cảnh già buồn bã, thê lương.
(5) Huống phục況复: thêm vào, lại thêm.
(6) Mân旻: trời, thiên không, đặc biệt chỉ trời mùa thu.
Phỏng Dịch:
Ngắm Cảnh Chiều Thu
Tháng chín thành đô lá rụng đầy,
Nắng chiều phủ đất cách trời mây.
Chim hồng lìa phố vờn cơn gió,
Trăng sáng xuyên cành chiếu ngọn cây.
Ngâm hứng bốn mùa thu dễ cảm,
Ở đời muôn việc lão buồn vây.
Điêu tàn cảnh sắc sau chinh chiến,
Xa ngắm trời quang cảm khái thay.
HHD
Chiều ngắm thành thu
Tháng chín đô thành lá rụng rơi
Nắng chiều trải đất cắt mây trời
Chim hồng xa thẳm vờn theo gió
Trăng sáng len cành vắt ngọn chơi
Ngâm hứng bốn mùa, thu cảm xúc
Sống đời vạn sự, lão than ôi
Binh đao chết chóc thêm tàn phá
Trời tạnh vời trông rõ ngậm ngùi!
Lộc Bắc
26Oct2016
Ngắm cảnh thành thu
Kinh đô tháng chin lá rơi vàng
Mây khói trời chiều bóng cắt ngang
Xoải cánh chim hồng giăng đón gió
Xuyên cành trăng sáng trải thênh thang
Bốn mùa xướng họa thu sinh cảm
Muôn việc đời người lão hận mang
Cảnh sắc điêu tàn sau cuộc chiến
Nhìn trời cảm thấy nỗi buồn sang
Bá Nha 26/10/2016
Chiều thu bến cũ
Tàn thu bến cũ lá rơi đầy
Nắng xuống chiều lên cắt khói mây
Nương gió hồng bay tung sãi cánh
Xuyên cành trăng ẩn khuất cành cây
Hồn thơ hoài cảm mùa thu úa
Tuổi hạc vui buồn theo gió mây
Chinh chiến tàn theo mùa hạ cũ
Lặng nhìn mây trắng vẫn còn bay
Thanh Lam (30-10-16)
NGẮM CẢNH CHIỀU THU
Nhìn cảnh thành đô lá rụng vàng
Cây buồn tháng chín bóng thu sang
Chim hồng sải cánh bay theo gió
Trăng sáng lạnh lùng khiến mộng tan
Xuân hạ thu đông mùa bốn nhịp
Tháng năm trôi nổi chuyện buồn mang
Chiến chinh đã hết đời tan tác
Cảm khái mắt nhìn cảnh phá hoang.
BẠCH NGA
Ngắm thu ngậm ngùi
Tháng chín cây tàn lá rụng rơi ,
Giữa cảnh phồn hoa ngắm đất trời ,
Ánh chiều vàng hực mây lan khói ,
Chim hồng xoãi cánh gió chơi vơi ,
Trăng tỏ xuyên cành in vết lá ,
Vầng trăng hờ hững vắt ngọn khơi ,
Thi hứng bốn mùa thu dễ cảm ,
Tuổi già thế sự dễ buồn mang ,
Chinh chiến qua đi tàn thế cuộc ,
Thu lạnh càng thêm nỗi ngậm ngùi .
Đ.Trần Nov 28/16
Trong thành ngắm cảnh Thu
Lá rụng khắp thành tháng chín ơi
Nắng nghiêng phủ đất vạch mây trời
Cánh chim hồng vút vờn giông lộng
Trăng ánh vàng len lách kẽ soi
Thi hứng bốn mùa, Thu cảm dễ
Đời dây vạn việc, khọm buồn tơi
Còn gì đâu nữa sau binh lửa
Vời vọng trời quang, chỉ ngậm ngùi
NguyễnTâmHàn Oct-2016
Cảnh thu thành đô
Tháng chín thành đô ngập lá vàng
Lá rơi báo hiệu mùa thu sang
Khói vương mây phủ vàng óng ánh
Bầy chim sãi cánh rất rộn ràng
Trăng tỏ soi nghiên trong ánh mắt
Vầng trăng lơ lững giữa trời trong
Gợi hứng thơ tuôn tràn khắp chốn
Thế sự trần gian tuổi xế chiều
Chiến chinh rồi sẻ tan thành khói
Thu rơi lạnh lẻo quá thu ơi !
Gửi: Mon Nov 07, 2016 8:34 pm Tiêu đề: Thu nhật hiểu khởi hữu cảm - Nguyễn Phi Khanh
Thu nhật hiểu khởi hữu cảm - Nguyễn Phi Khanh
秋日曉起有感 - 阮飛卿 Thu nhật hiểu khởi hữu cảm - Nguyễn Phi Khanh
殘夢疏疏醒曉鍾,Tàn mộng sơ sơ tỉnh hiểu chung,
日含秋影射窗櫳。Nhật hàm thu ảnh xạ song lung.
客懷擁枕欹眠後,Khách hoài ủng chẩm y miên hậu,
心事焚香兀坐中。Tâm sự phần hương ngột toạ trung.
庭外掃愁看落葉,Đình ngoại tảo sầu khan lạc diệp,
天邊隔淚數征鴻。Thiên biên cách lệ sổ chinh hồng.
嗚呼世道何如我?Ô hô thế đạo hà như ngã?
三撫遺編賦大東。Tam phủ di biên phú Đại đông.
Dịch nghĩa:
Cảm xúc Ngày Thu Dậy sớm (1)
Mộng tàn vừa tỉnh (nghe) tiếng chuông sáng sớm, (2) (3) (4)
Bóng thu lẫn với ánh sáng ngày, rọi qua khung cửa sổ. (5)
Sau lúc ôm gối nằm ngủ thì tình nhớ của người khách (khôn nguôi), (6)
Trong lúc ngồi ngay thẳng đốt hương thì tâm sự (tràn trề). (7)
Xem lá rụng ngoài sân để tiêu sầu, (8)
qua làn nước mắt, đếm chim nhạn bên trời xa. (9)
Than ôi! Đường đời, ta biết làm sao? (10)
Ba lần vỗ sách cũ xem bài phú Đại Đông! (11)
Chú Thích:
(1) Bản khác chép: Thu Nhật Vãn Khởi Hữu Cảm 秋日晚起有感 = cảm xúc về ngày thu dậy muộn.
(2) 疏疏 Bản khác chép: đông đông 鼕 鼕 = hình dung tiếng chuông, tiếng trống.
(3) Sơ sơ 疏疏: thưa thớt, lờ mờ. Trong bài từ Hoãn Khê Sa 浣溪沙 của bà Lý Thanh Chiếu 李清照 có câu:đạm vân lai vãng nguyệt sơ sơ 淡云来往月疏疏 mây nhạt qua lại trăng lờ mờ.
(4) 曉鍾 Bản khác chép vãn chung 晚鍾 = chuông chiều
(5). hàm含: ngậm;
. song lung 窗櫳= cửa sổ, khung cửa sổ.
(6). Khách hoài客懷: tình hoài của người khách, tình cảm ôm ấp trong lòng của người khách.
. y miên 欹眠: nằm nghiêng ngủ.
(7). phần hương焚香: đốt hương lúc tế lễ hay khi tĩnh tọa;
. ngột tọa兀坐: ngồi ngay ngắn.
(8) Tảo sầu 掃愁: tiêu sầu, làm hết nỗi buồn.
(9) chinh hồng 征鴻: chim hồng nhạn bay ở xa, thường dùng trong văn chương cổ.
(10) hà như 何如: 1. thế nào? thí dụ: vị tri hà như未知何如?= chưa biết thế nào?
2. không như, thí dụ: hà như vật mãi何如勿買= không như đừng mua.
3. tại sao, thí dụ: hà như tai何如哉? = tại sao vậy?
(11). di biên 遺編: sách của người xưa để lại;
. phú đại đông 賦大東: bài phú của 1 tác giả người nước chư hầu kể nỗi khốn khổ và phẫn hận của ngưòi dân chư hầu đối với sự đàn áp của nhà Chu.
Về sau bài này được chép trong Thi Kinh của Khổng Giáo.
Phỏng Dịch:
(1) Ngày Thu Thức Sớm
Chuông ngân tỉnh giấc mộng tàn,
Mầu thu nắng sớm ngỡ ngàng bên song.
Ngủ vùi đất khách não lòng,
Đốt hương tâm sự mông lung ngây người.
Nhìn lá rụng, giải sầu đời,
Lệ nhòa đếm cánh chim trời chân mây.
Thế sự ấy, làm sao đây?
Mở trang sách cũ, đắng cay trùng trùng.
(2) Ngày Thu Thức Sớm
Chợt tỉnh chuông ngân tàn giấc mộng,
Mầu thu nắng sớm chiếu qua song.
Ngủ vùi tựa gối ôm tình nhớ,
Ngồi thẳng phần hương nghĩ việc lòng.
Lá rụng trong sân hồn quặn thắt,
Chim bay ngoài cõi lệ mông lung.
Than ôi thế sự làm sao được?
Sách cũ còn ghi những khốn cùng.
HHD
Mời đọc 2 bài phỏng dịch "nối điêu".
Thân
LB
Sớm thu (1)
Tinh mơ chuông sớm cơn nồng
Ảnh thu trời ngậm qua song trải bày
Gối ôm nghiêng giấc tình say
Đốt hương thiền tọa ý ngay tràn trề
Ngoài sân lá rụng cội về
Qua làn nước mắt thiên di chim hồng
Than ôi đời đạo mông lung
Phủi trang sách cũ trùng trùng nỗi đau!!
Sớm thu (2)
Tỉnh giấc tinh sương vẳng tiếng chuông.
Ảnh thu trời ngậm chiếu qua song
Tiếc thương ôm gối sau cơn mộng
Thiền tọa đốt hương nhẹ nỗi lòng
Sầu quét ngoài sân xem lá rụng
Lệ lau trời thẳm đếm chim hồng
Than ôi thế sự ai như kẻ?
Đọc phú sách xưa – lẽ khốn cùng!
Lộc Bắc
Nov2016
SÁNG MÙA THU
Thu sáng tinh mơ tỉnh giấc nồng
Nắng vàng nhè nhẹ chiếu qua song
Giấc mơ thoang thoảng hương ngày cũ
Mộng hết lan man nhớ chuyện lòng
Thắp nén tâm hương ngồi tĩnh lặng
Buồn trông cánh nhạn nghĩ mông lung
Cuộc đời thế sự là như thế
Sách sử còn ghi khổ khốn trùng .
Bạch Nga
Cảm xúc ngày thu dậy sớm
Chuông ngân tỉnh giấc mộng du ,
Bên song cửa hẹp ánh thu tràn vào ,
Gối hương còn ũ tâm hao ,
Ngồi thiền tâm sự não nề khôn nguôi ,
Ngắm lá rơi , giải u sầu ,
Qua làn nước mắt đếm từng nhạn bay ,
Thế sự ngàn nổi đắng cay ,
Sách xưa lần giở nổi đau còn đầy .
Gửi: Mon Nov 21, 2016 4:37 am Tiêu đề: Tiếng Sáo Đêm Xuân
Tiếng Sáo Đêm Xuân
* Cụ Nguyễn Khuyến đã họa lại bài thơ: Đêm xuân Nghe Tiếng Sáo ở Lạc Thành” của Lý Bạch.
春夜洛城聞笛 - 李白 Xuân Dạ Lạc Thành Văn Địch - Lý Bạch
誰家玉笛暗飛聲,Thùy gia ngọc địch ám phi thanh,
散入春風滿洛城。Tán nhập xuân phong mãn Lạc Thành.
此夜曲中聞折柳,Thử dạ khúc trung văn chiết liễu,
何人不起故園情?Hà nhân bất khởi cố viên tình.
Dịch Nghĩa:
Tiếng sáo nhà ai u ẩn bay lên,
Lẫn vào gió xuân truyền khắp Lạc Thành.
Đêm nay trong khúc nhạc có bài “Chiết Liễu”,
Khiến người nào mà chẳng nổi tình nhớ quê?
Tiếng sáo nhà ai nhè nhẹ bay,
Vi vu trong gió xuân vơi đầy.
Khúc buồn bẻ liễu đêm giăng mắc,
Gợi nhớ quê xưa mờ khuất mây.
HHD
Đêm xuân nghe sáo thổi
Tiếng sáo nhà ai u uẩn thay
Gió xuân reo rắc khắp nơi này
Đêm nay nghe thoáng bài dương liễu
Gợi nhớ quê nhà đến quắt quay!
Lộc Bắc
Oct2016
Cám ơn anh Điệp chúc vui, tôi cũng chúc vui mọi người cuối tuần bằng bản " mưa Saigon, mưa Hà Nội" nhạc Phạm Đình Chương. ca sĩ Khánh Ly, PPS Hùng Hà
Mưa Saigon, mưa Hà Nội
Tôi ngồi đây nghe mưa đổ thầm thì
Châm điếu thuốc tìm về nơi thân ái
Chiều hẹn hò, giấc mơ thời vụng dại
Mưa Saigon, mưa Hà Nội
Thôi! xa rồi những kỷ niệm dấu xưa!
Bá Nha 30/10/2016
秋夜有感 - 阮勸 * Thu dạ hữu cảm - Nguyễn Khuyến
山河寥落四無聲 Sơn hà liêu lạc tứ vô thanh
獨坐書堂看月明 Độc tọa thư đường khán nguyệt minh
何處秋風吹一葉 Hà xứ thu phong xuy nhất diệp
引來無限故園情 Dẫn lai vô hạn cố viên tình
Cảm xúc đêm thu
Non sông bốn mặt yên lặng không thanh âm,
Một mình ngồi trong thư phòng ngắm trăng sáng.
Từ nơi nào gió thu thổi một chiếc lá.
Gợi lên biết bao tình cảm nhớ nhà
Sao dày đặc, trong sáng rõ ràng (1), sương như bạc
Vách phía đông, (tiếng) dế mèn (2) buồn bã (3).
Muôn dặm, tiếng thu giục giã lá rụng.
Một bầu trời đầy vẻ lạnh, quét (sạch) mây trôi.
Tuổi già đến, tóc bạc, đáng thương (cho) anh!
Ở lâu (mà) núi xanh chưa chán người.
Nhất là (4) người du khách mệt mỏi ở nơi chân trời,
Suốt năm (5) nằm bệnh ở bến Quế giang (6).
Chú Thích:
(1) Lịch lịch歷歷 = trong sáng rõ ràng.
(2) Đông bích東壁 = vách tường phía đông;
Hàn trùng 寒蟲= côn trùng trong mùa lạnh, thường chỉ con dế.
Đông bích hàn trùng 東壁寒蟲 = con dế mèn (tiếng chữ là tất suất 蟋蟀 hay xúc chức 促織), 1 giống dế nhỏ thường sống trong khe hở, khe nứt của vách tường. Người xưa cho rằng giống dế này thích chỗ ấm áp nên trú ở vách nhà nơi hướng đông có ánh mặt trời soi ấm. Đông bích và hàn trùng thường đi đôi với nhau trong văn chương cổ. Thí dụ như câu: "Minh nguyệt kiểu dạ quang, Xúc chức minh đông bích 明月皎夜光,促織鳴東壁" = Trăng sáng soi đêm trong, Dế mèn kêu tường đông.
(3) Bi cánh tân 悲更辛 buồn thêm cay, do chữ bi tân 悲辛= bi thương tân toan 悲伤辛酸 = đau buồn chua cay.
(4) Tối thị 最是 = Nhất là, sau cùng là...
(5) Cùng niên 窮年= suốt 1 năm (nhất chỉnh niên 一整年).
(6) Quế giang tân 桂江津 = bến Quế giang tức là bến sông Lam.
Gửi: Fri Dec 30, 2016 8:01 pm Tiêu đề: ĐẠP SA HÀNH
ĐẠP SA HÀNH
踏莎行 - 賀鑄Đạp sa hành 1 - Hạ Chú
楊柳迴塘, Dương liễu hồi đường, 2
鴛鴦別浦, Uyên ương 3 biệt phố, 4
綠萍漲斷蓮舟路。 Lục bình trướng đoạn liên châu 5 lộ.
斷無蜂蝶慕幽香, Đoạn vô phong điệp mộ u hương,
紅衣脫盡芳心苦。 Hồng y 6 thoát tận phương tâm 7 khổ,
返照迎潮, Phản chiếu 8 nghênh triều, 9
行雲帶雨, Hành vân 10 đới vũ,
依依似與騷人語: Y y 11 tự dữ tao nhân 12 ngữ.
當年不肯嫁春風, Đương niên bất khửng giá xuân phong, 13
無端卻被秋風誤! Vô đoan 14 khước bị thu phong ngộ.
Dịch nghĩa:
Bài từ theo điệu Đạp Sa Hành của Hạ Chú.
Dương liễu trồng bên ao quanh co.
Chim uyên ương ở vùng rạch ngòi nhỏ.
Đám bèo xanh dầy đặc ngăn lối thuyền vào hái sen,
Tuyệt nhiên không có ong bướm nào thích mùi thơm nhẹ,
Khi áo đỏ đã cởi bỏ (cánh sen đỏ đã tàn), quả tim đắng (trái sen đắng kết thành).
Ánh trời phản chiếu đón nước triều,
Mây bay đem mưa tới,
Hoa phất phơ (vì gió mưa rơi trên hoa) tựa như lời hoa nói chuyện với nhà thơ.
Năm nao không chịu gả cho gió xuân,
Không dè bị gió thu làm lỡ (thời quang đẹp đẽ).
Chú Thích:
(1) Đạp sa hành 踏莎行: tên của từ điệu.
(2) Hồi đường 迴塘 = 回塘: ao hồ có hình dáng quanh co uốn khúc.
(3) Uyên ương 鴛鴦: tên loài chim thường xuất hiện trong văn chương cổ hay truyện thần thoại, là loại vịt có mầu sắc đẹp đẽ, sống thành đôi, bơi ở ao hồ, con đực là uyên, con mái là ương.
(4) Biệt phố 別浦: nhánh sông ngòi nhỏ chảy vào nguồn nước khác.
(5) Liên châu蓮舟: thuyền con đi hái sen.
(6) Hồng y紅衣: chỉ cánh hoa sen mầu đỏ.
(7) Phương tâm khổ芳心苦: chỉ búp sen có vị đắng.
(8) Phản chiếu 返照: ánh sáng phản chiếu trên mặt nước.
(9) Triều潮: con nước lên, thường lúc chiều hoặc tối.
(10) Hành vân行雲: mây bay.
(11) Y y依依: hình dung hoa sen phất phơ theo gió.
(12) Tao nhân騷人: chỉ thi nhân.
(13) Mượn câu thơ của Hàn Xúc: 韓促trong bài Ký Hận寄恨: Liên hoa bất khửng giá xuân phong蓮花不肯嫁春風 = liên tưởng hoa sen lúc sắp tàn cũng như mỹ nhân lúc lỡ thì, nhan sắc không còn xuân xanh nữa.
(14) Vô đoan無端: vô cớ.
Phỏng Dịch:
Dương liễu quanh hồ.
Uyên ương rạch nọ.
Thuyền sen đến, lục bình ngăn lộ.
Tuyệt không ong bướm thích u hương,
Cánh hồng rơi rụng búp hoa khổ.
Dương liễu, quanh hồ
Uyên ương, ngòi nhỏ
Lục bình ken, thuyền sen kẹt ngõ
Bướm ong nào có thích hương phai
Cánh hồng rụng tất gương sen lộ
Nắng chiếu triều dâng
Mây đem mưa gió
Lắt lay cùng thi nhân than thở
Đương thì chả chịu lấy xuân phong
Đâu ngờ gió thu gây cơ nhỡ!
Lộc Bắc
Dec2016
*Cảm ơn thi nhân Lộc Bắc đã chuyển cho đọc
Cảm ơn thi nhân HHD đã giới thiệu thể từ Đạp Sa Hành.
Cuối năm cũng xin mạo muội góp vài hàng với thể từ Đạp Sa Hành (Hàng bước trên cát?) 4-4-7-7-7_4-4-7-7-7. với vần bằng trắc trắc bằng trắc.
ĐG
ĐẠP SA HÀNH
Liễu uốn quanh ao
Đôi vịt trú lạch
Bèo dầy cản lối thuyền sen viếng
Bướm đâu có có luyến chút hương chìm
Cánh hồng trút phô sen tim đắng
Ánh sóng đón triều
Mây bay mưa rớt
Hướng nhà thơ dường như bày tỏ
Gió xuân tàn sắc cũng tàn rồi
Vô cớ bỡn cợt gió thu ngỏ.
Đàm Giang
December 30, 2016
*Cũng xin kèm theo một bài từ Đạp Sa Hành 2 - Âu Dương Tu
chép lại trên net.
Xin lĩnh ý và nghe giải thích từ nhà thơ HHD.
Đàm Giang
Nguyên tác:
Đạp Sa Hành - Âu Dương Tu
踏莎行
候館梅殘,
溪橋柳細,
草薰風暖搖征轡。
離愁漸遠漸無窮,
迢迢不斷如春水。
寸寸柔腸,
盈盈粉淚,
樓高莫近危闌倚。
平蕪盡處是春山,
行人更在春山外。
Phiên âm:
Hậu quán mai tàn,
Khê kiều liễu tế,
Thảo huân phong noãn dao chinh bí.
Ly sầu tiệm viễn tiệm vô cùng,
Điều điều bất đoạn như xuân thuỷ.
Thốn thốn nhu trường,
Doanh doanh phấn lệ,
Lâu cao mạc cận nguy lan ỷ.
Bình vu tận xứ thị xuân san,
Hành nhân cánh tại xuân san ngoại.
Dịch nghĩa:
Nơi quán nghỉ, hoa mai đã tàn
Cầu bên khe, lá liễu lăn tăn
Cỏ thơm, gió ầm, cương ngựa ruổi dong
Nỗi buồn chia ly càng xa càng không biết là cùng
Chảy dài không đứt như nước dòng xuân
Từng tấc, từng tấc ruột mềm
Rưng rưng tràn đầy đầy nước mắt
Lầu cao chớ ra đứng tựa ngoài lan can
Tầm mắt nhìn xa tít, đó là núi xuân
Người đi lại ở ngoài núi xuân đó
*
Đạp Sa Hành
Phỏng dịch bài từ của Âu dương Tu
Quán xưa, hoa tàn
Kế cầu, liễu uốn
Cỏ hương, ầm gió, dong cương ngựa
Sầu chia ly còn mãi không nguôi
Cứ liên miên xuân giòng nước tựa
Tấc ruột ruột mềm
Rưng rưng nước mắt
Lầu cao dựa lan can gió lạnh
Tuốt xa tầm mắt kìa núi xuân
Người đi lưu tại núi xuân cạnh
Đàm Giang
*Góp vui cuối năm với chị Đàm Giang một bài phỏng dịch.
Thân
LB
Phỏng dịch bài:
ĐẠP SA HÀNH, Âu Dương Tu
Sau quán, mai tàn
Cầu con, liễu nhỏ
Dong cương, gió ấm thơm mùi cỏ
Sầu biệt dần xa mãi vô cùng
Đều đều không dứt dòng xuân thủy
Từng tấc ruột mềm
Phấn son nhòa lệ
Lầu cao tránh lan can chớ dựa
Xa thẳm cuối trời, đó núi xuân
Người đi khuất sau núi xuân nọ!!
Lộc Bắc
Dec2016
Đạp Sa Hành
Mai tàn sau quán
Liẽu rũ bên cầu
Gió thoảng đưa hương cỏ, vó câu
Rong ruổi mãi ... niềm đau canh cánh
Cuộc chia ly ... dòng xuân sóng sánh
Nhàu nhũn tâm can
Đầy vơi lệ thảm
Được chi đâu ... lan can đứng ngắm
Nơi xa xăm ... núi đón xuận rồi
Người đi biền biệt ... chốn ấy xa xôi
NguyễnTâmHàn
Dec. 2016
Phần của anh HHĐ
Chú Thích:
(1)Đạp Sa Hành 踏莎行: tên bài từ, còn đọc là Đạp thoa hành, có 2 đoạn, tổng cộng 10 câu, 58 chữ, 6 câu có trắc vận, suốt bài không đổi vận.
Trong bài từ của Âu Dương Tu, đoạn đầu viết cho người ra đi, đoạn sau viết cho người ở lại.
(2)Hậu quán 候館: lữ quán, quán trọ.
(3)Thảo huân 草薰:mùi thơm của cỏ.
(4)Chinh bí 征辔:dây cương ngựa.
Câu này nguyên phỏng theo 1 câu thơ cổ: Khuê trung phong noãn, mạch thượng thảo huân=phòng khuê gió ấm, Trên đường cỏ thơm.
(5)Điều điều 迢迢:Hình dung xa xa.
(6)Thốn thốn nhu trường寸寸柔肠=柔肠寸断 nhu trường thốn đoạn: hình dung sầu khổ đến cực điểm.
(7)Doanh doanh 盈盈:tràn đầy, ràn rụa.
(8) Phấn lệ 粉泪:nước mắt tràn lên mi, hòa với phấn sáp trang sức.
(9)Nguy lan 危闌:lan can ở trên lầu cao.
(10)Bình vu 平蕪:bãi cỏ phẳng dài.
Phỏng Dịch:
Hoa Mai Lữ Quán
Lữ quán mai tàn,
Ngòi cầu liễu nhứ.
Cỏ thơm gió ấm thúc cương ngựa,
Ly sầu mỗi lúc mỗi trùng trùng,
Như dòng xuân mãi dần xa xứ.
Bối rối lòng này,
Long lanh lệ nhỏ.
Lan can chớ tựa thêm buồn nhớ,
Cỏ xanh bát ngát đến non xa,
Người đi mãi tận ngoài nơi đó.
HHD
Nỗi lòng kẻ ở người đi
*
Lối sau lữ quán mai tàn
Gió lay lệ liễu lan man bên cầu
Hương cỏ thoảng, nhẹ vó câu
Đường đời đôi ngả nỗi sầu khó quên
Dòng xuân chảy, nước triền miên
Niềm riêng từng khúc ruột mềm thắt đau
Nhạt nhòa phấn lệ u sầu
Nhớ thương đứng tựa bên lầu xa trông
Cỏ xanh tận núi chập chùng
Người đi hẳn đón xuân phong cuối trời
*
NguyễnTâmHàn Dec. 31st-2016
4. quảng khoát như hoang nguyên mạc mạc 荒原漠漠 = bình nguyêng hoang dã rộng mênh mông.
(4) Mạc mạc yên như chức漠漠 烟如织 khói chiều dầy đặc trông như dệt.
(5) Thương tâm伤心:đau lòng, đau buồn hay vui sướng đều có thể dùng chữ "thương tâm".
(6) Minh sắc 暝色:bóng tối, bóng đêm.
(7) Ngọc giai玉階:thềm ngọc, chữ ngọc làm cho danh từ "thềm" thêm đẹp đẽ. Bản khác chép Ngọc thê玉梯: thang ngọc.
(8) Trữ lập佇 立:đứng lâu.
(9) Túc điểu 宿鳥: chim đã đến lúc muốn ngủ, chim buồn ngủ.
(10) Quy trình 歸程: đường về.
(11) Trường đình canh đoản đình: cứ mỗi10 dặm có trường đình, 5 dặm có đoản đình; ám chỉ đường xa diệu vợi.
Phỏng Dịch:
(1) Đường Về
Rừng bằng khói dệt chiều tha thiết,
Hàn san một dẫy buồn xanh biếc.
Bóng tối phủ lầu cao,
Có người đang nhuốm sầu.
Trước thềm yên ủ rũ,
Vội vã chim về tổ.
Đường đến chốn quê hương,
Trùng trùng ngàn dặm trường.
(2) Đường Về
Bình lâm mờ mịt khói bay,
Hàn San núi biếc như lây muộn phiền.
Lầu cao bóng tối triền miên,
Người buồn đứng lặng trước thềm ngẩn ngơ.
Chim bay tìm tổ chiều mơ,
Đường về vời vợi chơ vơ bóng hình.
Trường đình lại tới đoản đình.
Cô thôn viễn thủy, nhớ tình cố hương.
HHD
Thưa các Anh Chị,
Đầu năm Hàn nho HHD ra bài cổ thi "khó" quá.
Thôi thì cũng ráng tập tành học theo để làm bài thơ kèm theo đúng thể thơ của
bài nguyên thủy.
Cũng xin hỏi anh HHD là câu 3 và câu 8 trong bài hơi khác với thể thơ mà anh HHD đã giải thích cho chúng ta biết.
B T T B B (câu 3)
B B B T B (câu 8)
Nếu tôi nhầm thì xin miễn thứ.
Đàm Giang
*
Vọng quê hương
Rừng xa phẳng khói mây giăng mắc
Hàng hàng núi lạnh màu xanh ngắt
Lầu thượng ngập màn đêm
Rũ người buồn đứng yên
Cạnh thềm đau xót khổ
Chim vội bay về tổ
Đường chốn cũ quê nhà
Ngàn trùng mờ mịt xa.
Đàm Giang
Ngày 9 tháng 1, 2017
* Xin góp 2 bài. Một phỏng dịch một phóng tác.
LB
LỐI VỀ...
(I)
Rừng trải mênh mông khói thêu dệt
Núi buồn một dãy xanh biêng biếc
Bóng tối tỏa lầu cao
Người trên đó ôm sầu
Thềm ngọc im chờ đợi
Chim chiều bay về vội
Nơi nao chốn quê mình?
Đoản đình lại trường đình!!
(II)
Rừng già dâng khói dệt
Núi lạnh sầu xanh biếc
Bóng tối phủ lầu cao
Người buồn trông ngóng miết
Thềm ngoan đứng lặng yên
Chim mỏi chưa về hết
Tự hỏi đâu quê nhà
Nghìn trùng mây nối tiếp!!
Lộc Bắc
Jan17
ĐƯỜNG XA
Rừng vắng tỏa khói mây
Núi xanh lạnh dâng đầy
Lầu cao chiều xuống thấp
Lặng buồn ngắm hàng cây
Chim mõi cánh bay về
Đường xa dài lê thê
Quê nhà tìm chưa thấy
Thương nhớ tỏa sơn khê.
Bạch Nga
*Cũng xin tiếp một bài phóng tác.
Vọng quê nhà
Rừng xa lặng phủ khói sương
Núi xanh lạnh lẽo như vương nỗi sầu
Bóng đêm xâm nhập lầu cao
Người đứng lòng dạ nôn nao buồn phiền
Chim bay về gấp tổ êm
Hoài về quê cũ chẳng yên nỗi lòng
Đường trường quá thể viễn vông
Ngàn trùng xa cách nhớ mong miệt mài.
January 09, 2017
Đàm Giang
* Chân thành cảm ơn chị Đàm Giang đã nhanh chóng phiên dịch bài từ theo điệu Bồ Tát Man của Lý Bạch, một thể điệu từ có lâu đời nhất.
Xin trả lời chị Đàm Giang về từ điệu như sau:
Câu thứ ba: 暝色入高樓 Minh sắc nhập cao lâu. Chữ minh phát âm theo tiếng quan thoại là "míng", tương đương như "miểng" của VN, thanh trắc, thì sẽ hợp với quy luật là TTTBB (vận).
Câu thứ 8: 長亭更短亭 Trường đình cánh đoản đình. Chữ cánh hay canh phát âm theo tiếng quan thoại là gèng hay geng theo 2 nghĩa khác nhau. Trong bài từ này tôi nghĩ tác giả muốn dùng chữ cánh gèng có nghĩa là "lại", "lại thêm", "lại nữa"...như vậy là không hợp với từ điệu (phải là thanh B). Ngoài ra nữa thì tôi không biết và còn phải nghiên cứu thêm.
Một số nhà thơ khi làm "từ", họ chỉ để ý đến "thơ" mà không cần thật sát với từ điệu. Thí dụ như họ có thể đã áp dụng luật "Nhất tam ngũ bất luận" vào câu thơ của bài từ.
Ví như trong câu hát "Đường về đêm nay vắng tanh" (bài Kiếp Nghèo của Lam Phương), nếu mình sửa thành "Đường về tối nay vắng tanh" thì khi hát lên nghe thấy chỏi ở chữ "tối" nhưng về luật thơ thì không mấy thay đổi. Khổ thứ 2 của câu thơ là "tối nay", chữ thứ 2 "nay" là thanh bằng thì khổ này cũng có thanh bằng tương đương như "đêm nay" vậy.
Còn như mình không biết từ điệu như thế nào thì làm theo thể thơ cũng đủ hay rồi.
Hy vọng đã giải thích được thắc mắc của chị Đàm Giang. Nếu chị có thắc mắc xin cứ nêu lên. Nếu tôi biết sẽ giải đáp cặn kẽ.
Chúc lành,
HHD
N.B. Tôi xin sửa lại chú thích số (4) như sau:
(4) Mạc mạc yên như chức漠漠 烟如织 khói chiều dầy đặc trông như dệt. Xin sửa là: (4) Yên như chức 烟如织 khói trông như dệt.
Chân thành cảm ơn quý anh chị: Đàm Giang, Lộc Bắc, Bạch Nga ...
(10) Nhu 揉: dụi, xoa, dày, vò. Âm quan thoại là róu, trắc thanh.
(11) Phiên拚: nguyên là chữ “biện拚”. Ở trong bài này chữ “拚”đọc là “phiên”= 翻 có nghĩa là lật qua, dở qua, vượt qua. Bản khác chép “Bạn nhất nhật 拌一日” = qua một ngày, bỏ một ngày.Trong bài này chữ 拌 đọc là phan cũng có nghĩa như chữ拚.
Gửi: Sun May 14, 2017 1:16 am Tiêu đề: Ngự Nhai Hành
Ngự Nhai Hành
Ngự Nhai Hành của Phạm Trọng yêm
御街行 - 范仲淹
秋日懷舊
紛紛墜葉飄香砌。
夜寂靜,寒聲碎。
真珠簾卷玉樓空,
天淡銀河垂地。
年年今夜,
月華如練,
長是人千里。
愁腸已斷無由醉。
酒未到,先成淚。
殘燈明滅枕頭欹,
諳盡孤眠滋味。
都來此事,
眉間心上,
無計相迴避。
Phiên Âm:
Ngự Nhai Hành (1) - Phạm Trọng Yêm
Thu Nhật Hoài Cựu
Phân phân trụy (2) diệp phiêu hương thế. (3)
Dạ tịch tĩnh, hàn thanh túy. (4)
Chân châu (5) liêm quyển ngọc lâu không,
Thiên đạm (6) ngân hà thùy địa.
Niên niên kim dạ,
Nguyệt hoa (7) như luyện, (8)
Trường thị nhân thiên lý.
Sầu trường dĩ đoạn vô do (9) tuý,
Tửu vị đáo, tiên thành lệ.
Tàn đăng minh diệt (10) chẩm đầu y, (11)
Ám tận (12) cô miên tư vị. (13)
Đô lai (14) thử sự,
Mi gian tâm thượng, (15)
Vô kế tương hồi tỵ. (16)
Dịch Nghĩa:
Bài từ theo điệu Ngự Nhai Hành của Phạm Trọng Yêm.
Ngày Thu Nhớ chuyện xưa.
Tơi bời lá rụng trên thềm hoa.
Đêm vắng lặng, tiếng lạnh tan vỡ (xào xạc).
Rèm châu cuốn lên, lầu ngọc trống không,
Trời nhạt (trời trong xanh không mây) dải ngân hà dài tới đất (dài lê thê).
Hằng năm đêm nay,
Ánh trăng như lụa,
Mãi mãi người ngàn dặm.
Ruột sầu đã đứt, không cách gì hơn là say.
Rượu chưa đến (uống), trước đã thành lệ.
Đèn tàn mờ tỏ, dựa gối nằm.
Từng nếm mùi vị giấc ngủ cô đơn.
Tóm lại là việc này,
Giữa hàng mi, trong lòng người. (chau mày và dằn vặt trong lòng suy nghĩ)
Không có cách gì né tránh.
Bài từ này của Phạm Trọng Yêm gồm 78 chữ chia thành 2 đoạn. Mỗi đoạn có 4 trắc vận.
平平仄仄平平仄韻 B B T T B B T (vận)
中中仄讀平中仄韻 X X T (tạm dừng) B X T (vận)
平平平仄仄平平句 B B B T T B B
平仄平平平仄韻 B T B B B T (vận)
平平平仄句 B B B T
仄平平仄句 T B B T
平仄平平仄韻 B T B B T (vận)
B bình平 = bình thanh; T trắc仄 = trắc thanh; X trung中 = bất luận, có thể là Bình hay Trắc cũng được; Vận 韻 = vần; Đậu讀 = tạm dừng (nguyên là chữ độc讀 = đọc, dùng trong văn pháp thì phát âm là đậu) ; Cú 句 = hết câu.
Chú Thích:
1、Còn đọc là “Ngự Giai Hành”.
2、Bản khác chép “Đọa 墮“: rơi, thay vì trụy墜 cũng là rơi.
3、Hương thế香砌:thềm nhà có hoa rụng. Hương thế và ngọc thế thường được dùng trong văn chương xưa để chỉ thềm nhà.
4、Hàn thanh túy (chữ碎 còn đọc là toái) 寒聲碎:gió lạnh thổi lay động những lá rụng phát ra thanh âm.
5、Chân châu真珠:Trân châu珍珠 = ngọc trai.
6、Thiên đạm天淡:bầu trời xanh trong không có mây.
7、Nguyệt hoa月華:nguyệt quang月光 = ánh trăng.
8、Luyện練:lụa trắng.
9、Vô do無由:vô pháp無法 = không cách nào khác, không làm gì được; vô do tuý 無由醉 = câu này có nghĩa là không cách nào hơn là say
10、Minh diệt明滅:lúc sáng lúc mờ, khi mờ khi tỏ.
11、Y欹:dựa vào; chẩm đầu y枕頭欹= dựa vào gối.
12、Ám tận諳盡:từng trải qua, từng nếm qua.
13、Tư vị 滋味: mùi vị.
14、Đô lai都來:tóm lại là, tính là.
15、Tâm thượng 心上: trong lòng, trong tim.
16、Hồi tỵ 迴避: cũng đọc là hồi tịch = né tránh, to avoid, to withdraw.
Bạn không có quyền gửi bài viết Bạn không có quyền trả lời bài viết Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn Bạn không có quyền tham gia bầu chọn