Hồ Dzếnh (sinh năm 1916- mất ngày 13 tháng 8 năm 1991), tên thật là Hà Triệu Anh hay Hà Anh (ghi theo giọng Quảng Đông là Hồ Dzếnh) là một nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam. Ông được biết nhiều nhất qua tập thơ Quê ngoại (thơ) với một giọng thơ nhẹ nhàng, siêu thoát phảng phất hương vị thơ cổ Trung Hoa. Ngoài ra Hồ Dzếnh còn là một nhà văn với nhiều tác phẩm, tiêu biểu là tập truyện ngắn Chân trời cũ (1942), Thạch Lam đề tựa......
Ông sinh năm 1916 tại làng Đông Bích huyện Quảng Xương tỉnh Thanh Hóa. Cha ông là Hà Kiến Huân, người gốc Quảng Đông sang sinh sống ở Việt Nam từ khoảng 1890, mẹ Đặng Thị Văn là người Việt, quê ở bến Ghép, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa. Ông học trung học, dạy tư, làm thơ, viết báo từ năm 1931 tại Hà Nội. Năm 1953 ông vào Sài Gòn làm báo, năm 1954 trở về Hà Nội tiếp tục viết báo, làm thơ. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam ngay từ buổi đầu thành lập (1957). Ông mất ngày 13 tháng 8 năm 1991 tại Hà Nội do xuất huyết dạ dày và viêm thận[1].....
(Nguồn Net)
ooOoo
Đọc lại Hồ Dzếnh Mathilde Tuyết Trần
Có được một chỗ đứng trong tim người trải qua nhiều thế hệ không phải là chuyện dễ. Hồ Dzếnh trả giá chỗ đứng ấy bằng cuộc đời thầm lặng, khiêm tốn, chịu đựng những mất mát, những đau thương của chính mình.
…“Cho nên được mang danh là nhà văn, tôi thấy thẹn thùng biết mấy!“
Hồ Dzếnh
Khép cuốn „Chân Trời Cũ“ (xuất bản năm 1942, tái bản năm 1946) lại, tôi đã đọc ngấu nghiến như thưở còn mười ba một cuốn sách cũ, tình cờ moi ra khi tìm sách chất chứa trong các thùng để trên nóc nhà, tôi thấy mình sung sướng như trẻ lại mấy mươi tuổi. Từ giai đoạn Văn thơ tiền chiến trước cái mốc 1945 đến ngày hôm nay tôi ngồi đây mơ về Hồ Dzếnh là đã sáu, bẩy mươi năm rồi còn gì. Các tên tuổi nhà văn, nhà thơ khác nổi hơn tên Hồ Dzếnh, nhưng không làm mất đi một chỗ đứng đặc biệt của ông.
Nếu Khái Hưng chỉ với một câu: „Thằng Bò, cái Nhớn, cái Bé…anh phải sống.“ đã giữ vững địa vị tuyệt đỉnh của mình trong Tự Lực văn đoàn, thì những ai đang yêu đương mơ mộng, ít nhất là cho đến thế hệ tôi, thường hay nhớ đến một câu thơ lãng mạn…“Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé, Để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân… Tình mất vui lúc đã vẹn câu thề, Đời chỉ đẹp khi hãy còn dang dở…“. Thưở ấy, cái thú yêu thương được hiểu theo nghĩa ấy, yêu mà được yêu lại, lấy nhau, sinh con đẻ cái, rồi hết yêu nhau, thế là không phải một tình yêu đẹp, một tình yêu lãng mạn. Yêu nhau, nhưng bị ngăn cách, cản trở, lại còn thấy mình yêu nồng nàn thêm, giấc mơ kéo dài thêm, không dứt. Các „người em gái“ tóc thề ngang vai thời ấy đều mơ mộng ước chi mình có được một mối tình dang dở. Đó là công trạng của những nhà văn nhà thơ thời văn học lãng mạn như Hồ Dzếnh.
Có được một chỗ đứng trong tim người trải qua nhiều thế hệ không phải là chuyện dễ. Hồ Dzếnh trả giá chỗ đứng ấy bằng cuộc đời thầm lặng, khiêm tốn, chịu đựng những mất mát, những đau thương của chính mình.
Hồ Dzếnh viết văn xuôi, làm thơ. Bài thơ „Chiều“ được Dương Thiệu Tước phổ nhạc là bài nổi tiếng nhất „Trên đường về nhớ đầy...Chiều chậm đưa chân ngày, Tiếng buồn vang trong mây... „ . Nhưng cũng còn những câu thơ khác đầy nhạc điệu trữ tình.
Cảm giác của tôi bây giờ khi đọc Hồ Dzếnh có khác cảm giác của một cô nữ sinh áo dài trắng tuổi ô mai ngày xưa, ngồi trong lớp học, vừa lơ đãng ngắm làn nắng sớm đang len lén rọi vào khung cửa sổ, vừa nghe tiếng cô giáo giảng một bài văn, giọng khi trầm khi bổng.
Những cảm giác buồn mang mác, nhẹ nhàng, tha thiết, rất thơ và rất thật tỏa ra trong các mẫu chuyện ngắn chứa đựng chân dung và cuộc đời của những nhân vật chung quanh Hồ Dzếnh, một gia đình chứa đựng hai nền văn hóa, từ nghèo lên giàu rồi lại trở thành nghèo, như cứ „lên voi xuống chó“.
Nhưng nổi bật hơn cả, ngòi bút Hồ Dzếnh viết nên một sự âu yếm, âu yếm vô cùng, cả đối với những gì gọi là không „tốt“, một người anh Cả nghiện thuốc phiện, một người anh Hai ham phiêu du, một cô em gái lỡ đàng, một người chị nuôi, một con ngựa trắng...Người viết, ngay cả những khi mình đã trưởng thành trong chuyện kể, luôn giữ ánh mắt nhìn của một đứa trẻ thơ không có tuổi, thích nũng nịu, thích bám gấu áo mẹ, cho nên tình thương toát ra từ những hàng chữ mang nét chân thật ngây thơ.
„Mẹ tôi nói dối. mẹ tôi đuổi tôi lên nhà, để mẹ tôi khóc. Lúc tôi chạy xuống bếp lục cơm ăn, thì thấy đôi mắt mẹ tôi đỏ ngầu, vạt áo ướt đẫm.
Tôi ngả vào lòng người, rồi mếu máo:
– Con không đi học nữa, mẹ ạ….“ (1)
„Chị dâu tôi phải về ở nhà quê làm việc. Ngày đưa chân, cả nhà tôi ra ga để lìa bỏ cái tỉnh thành bạc bẽo, tôi sụt sùi bảo chị dâu tôi:
– Chị chịu khó hầu mẹ nhé. Đến tết em về, em mua nhiều bánh cho cháu.
Chị tôi gật, ứa nước mắt….“ (2)
„Tôi đáp rất gọn:
– Không con nói dối đấy chứ!
Tức thì dì tôi vênh mặt lên:
– Nghe nữa đi, nghe cái đồ nói dối nữa đi!
Và tức thì hai cái tát của mẹ tôi cháy bỏng trên má tôi:
– Ai dạy mày nói điêu, mày hai lưỡi !
Nhưng tôi chỉ còn có một lưỡi , khi ngồi ăn cơm với mẹ tôi:
– Đúng là con Din đi với trai , mẹ ạ. Ban nẫy nó lạy con đừng nói.
Mẹ tôi lườm tôi và im lặng.“ (3)
„Có điều mà mãi đến nay tôi vẫn lấy làm lạ, là càng ghét anh bao nhiêu, tôi càng thương anh bấy nhiêu. Tôi thấy luôn luôn hình ảnh con người ấy quằn quại trong một mối đau đớn vô hạn, dưới cái ánh sao buồn rầu le lói đã chứng kiến ngày lọt lòng mẹ tăm tối của đời anh…“ (4)
Tuy rằng chỉ được diễn tả qua vài trang giấy nhưng thời gian trong các câu chuyện của „Chân Trời Cũ“ kể trải dài cả một đời người, đem không gian trải rộng từ nhà quê đến thành phố, từ sông ra đồng, từ Việt Nam đến Trung Hoa. Xã hội Việt Nam vào đầu thế kỷ hai mươi đang trong buổi giao thời, các nền văn hóa khác biệt, Việt, Pháp, Hoa va chạm với nhau, nhưng khung cảnh miền Bắc khi ấy vẫn còn là đất lề quê thói, „nề nếp“ Nho giáo vẫn có ảnh hưởng nặng.
Mỗi nhân vật trong gia đình ấy có một số phần khác nhau, người đọc thấy bứt rứt bồi hồi, tại sao lại sống như thế nhỉ. Sống là chấp nhận số phận, hay thách thức số phận, cãi lại số phận ? Sống theo ý mình, „cá nhân chủ nghĩa“, hay yên phận sống theo thời thế bó buộc ? quyết định nào sẽ đem lại kết quả tốt hơn ? ý muốn của con người có thắng được số trời hay không ? Hồ Dzếnh cắn răng chấp nhận số phận „thiên định thắng nhân định“, kể cả khi phải đeo đứa con thứ hai mới được mấy tháng đi nhiều nơi xin sữa nuôi con, khi mà tình trạng chiến tranh làm cho hầu như mọi người đều túng thiếu. Đầu sách, một câu ngắn „Kính nhớ vong hồn song thân, vợ và con trai đầu lòng„ cho người đọc thấy ngay những mất mát của Hồ Dzếnh. Hạnh phúc ? Có khi nào Hồ Dzếnh đã tìm thấy hạnh phúc ?
Trời trở buồn, ai hiểu nghĩa làm sao ?
Mây lạc nẻo, tim nghe chừng thất vọng.
Từng phen gió lạnh bay vào
Ngẩn ngơ ta xuống ga nào hở em?
(Chuyến Tàu Ðời)
Hồ Dzếnh không thuộc vào Tự Lực văn đoàn, cũng chưa bao giờ nhận được một giải thưởng của Tự Lực văn đoàn, nhưng văn và thơ của ông đi cùng một chiều hướng: sử dụng tiếng Việt, bớt các khái niệm chữ Hán, bớt dùng các điển tích trong tứ thư ngũ kinh Nho giáo, cách đặt vấn đề tế nhị, kín đáo, văn phong nhẹ nhàng, trong sáng, câu ngắn, cấu trúc rõ ràng, không dùng cấu trúc các thể thơ Hán.
Chỉ có trong một bài thơ, Hồ Dzếnh sử dụng kinh điển Hán học:
buồn Tư Mã nhớ Chiêu Quân
nét hoa thấp thoáng ý thần đê mê
(Đợi Thơ)
Tôi nghĩ đi nghĩ lại câu giới thiệu của Thạch Lam ở đầu cuốn sách …“Tôi không nói rằng tác phẩm này không có khuyết điểm, nhưng…“, và tôi tò mò đi tìm khuyết điểm trong „Chân Trời Cũ“. Thạch Lam là bạn, có lẽ không muốn khen quá lời, nên giữ vẻ khiêm tốn cho tác phẩm. Nhưng nếu cứ nghĩ rằng, Hồ Dzếnh là người „Minh Hương“, cha là người Trung Hoa, mẹ là người Việt, thì phải thấy ông xử dụng tiếng Việt nhuần nhuyễn, trong sáng còn hơn nhiều người Việt.
Bén nhọn như: …“Khách mặc một bộ quần áo bằng lĩnh Quảng Đông, nguyên mầu đen, nhưng sau khi trải nhiều phong trần, đã đổi sàng mầu xám kệch…Từ đằng xa những gợn lụa phơ phất như những gợn gió trùng dương, và khi lại gần thì gió trùng dương lại chỉ toàn xông lên một mùi cá mặn! „
Gợi cảm như:…“Tôi nhận thấy mấy cây cột nhà đứng bơ vơ hôm trước, bóng tối mau chiếm lấy sân và lòng tôi hay nhớ thương, ngao ngán. Ở trong cái lạnh lẽo bốc lên trước lúc gà vịt nhẩy chuồng, bốn ngọn nến cùng nháy mắt trên chiếc bàn thờ mới dựng, thay chỗ cho nơi kê bàn đèn thuốc phiện ngày xưa…“
Chua xót như: „Ròng rã trong hai ngày sau, tôi đoán biết một sự xung đột nhỏ nổi lên giữa anh chị tôi, và khi ghé mắt qua khe cửa phòng học nhìn sang bên cạnh, tôi thấy chị dâu tôi đương quỳ trước mặt chồng khóc lóc…Tôi nhớ nhất cái dáng điệu vừa quỳ vừa khóc của chị dâu tôi, và tôi thấy buồn một nỗi buồn thê thiết quá.“
Tả chân cái chết một cách rất hiện thực như: „…Anh không đói thuốc phiện, anh không gào nước nữa: đường xuống suối còn xa, đường về quê đã biến. Số mệnh đã muốn cắm ở giây phút đó một cuộc hành trình điên dại của một kiếp người. Anh thở dài một tiếng, lòng trắng giãn ra và chiếm đầy mắt…Anh nấc lên một tiếng nhỏ. Anh gục đầu xuống một bụi rậm, có cái gì thối tha đưa lên sau mông đít. Cành gai yếu ngả xuống làm anh gục theo. Một con chim kêu lên đâu đó. Rừng và Núi. Núi và Rừng.“
Xám kệch, gợn lụa, cá mặn, bơ vơ, nhẩy chuồng, nháy mắt, ròng rã, ghé mắt, khóc lóc, thê thiết, đói, gào, biến, cắm, điên dại, nấc, thối tha, mông đít, ngả, gục…những chữ thuần Việt được sử dụng rất đúng chỗ và gợi hình, gợi cảm.
Hồ Dzếnh không để lại cho đời một khối lượng lớn về tác phẩm, nhưng đời không thể quên ông, một số phận con tằm nhả tơ óng ả, mà không được đền bù xứng đáng. Hồ Dzếnh, theo các tài liệu viết về ông, qua đời lặng lẽ âm thầm, khi nhà thơ, nhà văn chỉ còn là một người thợ đúc thép, thợ cơ khí nhà máy xe lửa Gia Lâm, ngày 13.8.1991 tại nhà riêng, số 80 phố Hòa Mã, Hà Nội, được 75 tuổi (sinh năm 1916), để lại cho đứa cháu một bài thơ:
…Khi sống ông nghèo nhất thế gian
Ra đi của cải bỗng vô vàn
Trời-Mây-Trăng-Nước-Chim-Hoa-Gió
Tất cả dành riêng tặng cháu ngoan.
(Gửi cháu)
Tựa cuốn văn xuôi đầu tay của ông „Chân Trời Cũ“ cũng làm cho tôi suy nghĩ. Có cũ thì tất có mới. Chân Trời Cũ mang nhiều hàm ý, vừa là một quá khứ, vừa là nửa phần gốc tích quê quán, vừa là hình ảnh người cha, vừa là cả em Dìn, anh Cả, anh Hai, chị dâu, chú Nhì, em Thi, thằng Quắn, chị Yên, chị Đỏ Đương, vừa là người mẹ Việt Nam.
„Quê Ngoại“ của Hồ Dzếnh, vừa là nơi chôn nhau cắt rún, vừa là nơi gởi nắm xương tàn của ông, như thế mà cứ gọi ông là người „khách“, người Minh Hương, không phải là người Việt Nam thì thật là bạc bẽo với ông quá.
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé
Để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân
Ngó trên tay thuốc lá cháy lụi dần
Tôi nói khẽ: ôi, làm sao nhớ thế !
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé
Em tôi ơi, tình có nghĩa gì đâu
Nếu là không lưu luyến buổi ban đầu
Thuở ân ái mong manh hơn nắng lụa
Hoa bướm ngập ngừng, cỏ cây lần lữa
Hẹn ngày mai mùa đến sẽ vui tươi
Chỉ ngày mai mới đẹp, ngày mai thôi
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé
Tôi sẽ tránh, cố nhiên, nhưng rất nhẹ
Nếu trót đi em hãy gắng quay về
Tình mất vui lúc đã vẹn câu thề
Đời chỉ đẹp khi hãy còn dang dở
Thơ viết đừng xong, thuyền trôi chớ đổ
Cho ngàn sau lơ lững với ngàn xưa ...
Hồ Dzếnh
* Hồ Dzếnh (1916 – 1991), có khi được viết là Hồ Dzếch, tên thật là Hà Triệu Anh hay Hà Anh (ghi theo giọng Quảng Đông là Hồ Dzếnh), quê ở làng Đông Bích huyện Quảng Xương tỉnh Thanh Hóa. Cha ông là Hà Kiến Huân, người gốc Quảng Đông, mẹ là Đặng Thị Vân là người Việt. Ba tác phẩm tiêu biểu chính của ông là tập truyện ngắn Chân Trời Cũ, tập thơ Quê Ngoại và tập hồi ký Quyển Truyện Không Tên.
1. Lòng mẹ, Chân trời cũ, Hồ Dzếnh, Hoa Tiên
2. Người chị dâu tôi, Chân trời cũ, Hồ Dzếnh, Hoa Tiên
3. Em Dìn, Chân trời cũ, Hồ Dzếnh, Hoa Tiên
4. Người anh xấu số, Hồ Dzếnh, Hoa Tiên sưu tập
Tập Truyện Ngắn Chân trời cũ - Người chị dâu tôi Tác giả Hồ Zếnh
Dòng máu Trung Hoa thấm đến ba anh em chúng tôi thì không còn được nguyên chất nữa.
Người lo đến cái ngày lạc giống nhất, có lẽ là ba tôi. Triết lý qua làn khói thuốc phiện, chén nước chè Tàu, ba tôi thường bảo:
- Thế nào một trong ba đứa cũng phải cho về quê mới được!
Công việc gây lại nòi giống Trung Hoa thiêng liêng được anh tôi đảm nhận bằng cách cưới, sau bốn năm trời nghiên bút, một người vợ đặc Tàu. Cái hỷ tín ấy bắn từ bên kia trùng dương sang khiến ba tôi vuốt râu cười khoái chí, trong khi mẹ tôi có vẻ không bằng lòng. Rồi, mặc dầu sự phản đối nhỏ nhặt của người đàn bà phương Đông yếu đuối, chị dâu tôi đã ở dưới cái nóc nhà thân mật với chúng tôi, cái nóc nhà sau này từng chứng kiến những ngày buồn thảm của đời chị, mà tôi muốn tả ra đây bằng một nét bút chí thành.
Hỡi chị! Nếu số phận đã bắt chị vào làm dâu một gia đình cơ khổ, làm vợ một người chồng không bằng người, làm một người đàn bà lưu lạc, chị hãy nhận ở đây, trong mấy dòng chữ này, một lời an ủi, để may ra lòng đau khổ của chị được san sẻ một vài phần.
*
* *
- Ừ, rồi tha hồ mà vui. Chốc nữa chị dâu mày sắp về đấy!
Mẹ tôi bỏ rá gạo vo xong xuống miệng chum, nhìn tôi và cười một vẻ mai mỉa. Từ hôm nhận được tin anh tôi cưới vợ, mẹ tôi đâm ra buồn rượi suốt ngày. Là vì mẹ tôi đã có định kiến sẵn về cuộc hôn nhân của anh tôi, và người con dâu của mẹ tôi phải là người biết gồng gánh, biết chịu khó xay lúa, giã gạo, cáng đáng mọi việc trong nhà. Tôi còn nhớ hôm cầm đến ảnh anh chị tôi, mẹ tôi thở dài:
- Cái ngữ này rồi lại chỉ xõng xác ra là hết!
Tôi nhỏ nên vẫn dễ tưởng tượng. Tôi tưởng tượng chị dâu tôi là một thiếu phụ sang trọng, đẹp đẽ, bó chân và chuốt bím bằng dầu thơm. Năm sáu lần, cầm bức ảnh chụp từ bên Tàu gửi sang, tôi sung sướng vì sắp được làm em một người đàn bà Tàu quý phái, yêu tôi và cho tôi nhiều tiền. Mà chị dâu tôi đẹp thật, nói là yểu điệu thì đúng hơn.
Đôi má hồng luôn, và cặp mắt ngơ ngác như vừa qua cái thảm cảnh phân ly, chị tôi nhìn chúng tôi, thằng nhớn dắt tay thằng nhỏ, ngó chăm chú cái con người bắt đầu đến làm thân với hơi bàn ghế trong nhà. Mẹ tôi lúc ấy không có ở đấy. Chỉ có mình ba tôi yếu đuối ngồi trên sập gụ mỉm cười. Tôi đánh bạo xán lại gần chị. Chị vui vẻ vuốt tóc tôi, và dúi vào tay tôi hai hào chỉ. Tôi càng mến chị tôi hơn lên, quấn quýt bên chị suốt ngày. Hình như chị dâu tôi sống giữa sự lãnh đạm của mọi người, trừ anh Cả tôi – chồng chị – và tôi, những người đem lại cho chị một phần lớn tình lưu luyến của gia đình.
Thậm chí đến anh Hai tôi cũng thường bảo tôi:
- Mày cứ xán lại gần chị ấy, mẹ ghét lắm đấy!
Mỗi lần anh tôi mắng, tôi thường đem những đồng hào mới tinh ra khoe:
- Này, anh xem, chị ấy tốt lắm kia!
Chị dâu tôi sống trong sự bỡ ngỡ có đến ngót hai tháng. Một hôm đi học về, tôi ngạc nhiên thấy chị đang xay lúa, thở hổn hển và luôn luôn đưa khăn mặt lên lau trán. Tôi chạy ngay xuống nhà bếp, giận dỗi hỏi mẹ tôi:
- Sao mẹ bắt chị cả xay lúa thế? Chị Cả có quen làm những công việc ấy đâu!
Mẹ tôi trừng mắt:
- Không quen thì không làm à? Tao mua con dâu về có phải để mà thờ đâu!
Tôi ức quá, toan cãi, nhưng nghĩ đến ngọn roi mây, lại thôi. Mẹ tôi, nói đúng ra, không phải là người ác. Sự cần cù có từ khi lấy ba tôi, và cái thành kiến xấu xa về mẹ chồng, con dâu nuôi ngấm ngầm trong những đầu óc bảo thủ, là hai cớ chính xui mẹ tôi khinh ghét những kẻ không quen làm.
Thông minh, chị dâu tôi dần dần làm được hết mọi việc. Từ chiếc áo dài hoa, đôi giày nhiễu, chị tôi đã nhũn nhặn đổi sang bộ quần áo màu chàm thẫm, đôi dép da trâu mà chị tôi không bao giờ rời ra nữa. Cực khổ nhất là mấy tháng đầu, khi chị tôi chưa nói thạo tiếng Việt Nam. Nhớ đến sự cực khổ ấy, có lần chị tôi đã nhắc lại:
- Thà cứ câm đi mà hơn, chú ạ.
Nhà tôi là nhà nghèo, cơm thường ghế khoai cho đỡ gạo. Trừ tôi là được ăn cơm trắng. Nấu niêu cơm ngon lành mà tôi thường ăn hết ấy, tai hại, lại là công việc của chị tôi, một người đàn bà Tàu xưa nay chỉ quen sống trong cảnh đài các. Một hôm, ăn quá no, tôi bảo đùa chị:
- Chị ăn hộ cả cơm cho em nhé!
Chị tôi ăn thật, ăn ngon lành, nhưng với một vẻ sợ hãi làm tôi đoán ra là lâu nay chị thường thèm những bữa cơm gạo trắng lắm. Từ đấy, tôi thường kín đáo dành lại trong nồi một hai bát và bao giờ, bao giờ, chị dâu tôi cũng nể lòng ăn hết!
Chị tôi hay khóc lắm, khóc rưng rức suốt ngày. Chị thường bảo tôi bằng một giọng lơ lớ:
- Mẹ hay mắng lắm, em ạ!
Tôi còn nhỏ, không biết can gián, yên ủi thế nào cho khéo, ngoài cách khóc theo với chị tôi. Tôi hiểu biết người đàn bà ấy lắm, người đàn bà buồn khổ sàng từng hạt mẵn xuống nong, trong khi trời chiều sàng từng giọt hoàng hôn xuống tóc. Trông chị ngồi tẩn mẩn làm những công việc hằng ngày mà có lẽ trước kia, chị không bao giờ ngờ sẽ phải nhúng tay tới, tôi thấy tâm hồn xúc động, bâng khuâng... Tôi nghĩ đến cái tổ quốc Trung Hoa với những manh áo chàm giang hồ khắp tứ xứ, cái tổ quốc mà tôi chưa từng biết bao giờ!
- Tối rồi, em ạ, thắp đèn mà học đi!
Ô hay! Sao lúc viết mấy dòng chữ này, tôi còn thấy như một niềm bối rối, gió tối bận bịu trong chùm tre, một đốm lửa lung lay châm loe vào bóng đêm bất tận! Tôi chăm chỉ ngồi học dưới ánh đèn lúc ấy, nhưng lúc này, quay nhìn lại cái dĩ vãng không vui vẻ, tôi rùng mình thấy hiện ra trên cái gì xa xôi, một váng vất buồn rầu, tang chế. Người chị dâu tôi... Người chị dâu tôi...
Tôi là người biết cảm sầu rất sớm, nên người đàn bà lìa quê hương ấy đã là cái đề cho tôi khóc bằng thơ để làm ố hoen cả một buổi bình minh đáng lẽ rất tươi đẹp.
Hai năm sau, chị dâu tôi sinh thằng cháu đầu lòng thì ba tôi mất. Mẹ tôi yếu, gia đình sa sút thêm. Chỉ còn mình tôi là được đi học. Chị dâu tôi phải về ở nhà quê làm việc. Ngày đưa chân cả nhà tôi ra ga để lìa bỏ cái tỉnh thành bạc bẽo, tôi sụt sùi bảo chị dâu tôi:
- Chị về chịu khó hầu mẹ nhé. Đến Tết em về, em mua nhiều bánh cho cháu.
Chị tôi gật, ứa nước mắt.
Từ đấy cứ tuần tuần, tôi gửi về một bức thư, phần nhiều là thư khuyên mẹ tôi ăn ở rộng lượng với mọi người trong nhà. Làm như thế, tôi mong mỏi sẽ vợi được ở lòng người chị dâu đau khổ của tôi những nỗi buồn rầu khi xa đất nước...
Mỗi một dịp được nghỉ về nhà, với tôi hồi ấy, là sự giải thoát cái ngục tù thành phố, nơi tôi chỉ mơ màng thấy hình bóng một người đàn bà Tàu đau khổ. Tội nghiệp, những lúc trông thấy mặt tôi, chị dâu tôi cứ đứng ngây người ra, vì sự cảm động đã làm cạn hết lời nói. Tôi giấu mẹ tôi những thức quà biếu chị, có lúc là chai dầu thơm, có khi là vài thước lụa. Chị tôi thường phàn nàn:
- Chú tử tế với chị quá. Chị chả biết biếu chú gì được bây giờ.
Có, chị ạ, chị đã biếu em một thứ quà quý nhất, một tấm lòng thương người, một chân tình xứng đáng. Và bây giờ đây, trong cái linh hồn thơ pha lệ bị vùi sâu giữa cát bụi cuộc đời, vẫn còn sáng mãi những cảm tình chân thật buổi đầu.
Thường thường, chị kể chuyện cho tôi nghe:
- Chú ạ, ngày xưa chị sung sướng lắm kia. Chị là con một trong gia đình quý phái, cũng được nuông chiều như chú bây giờ, có phần hơn thế nữa.
Nói xong, chị tôi lại khóc. Chị tôi chỉ biết khóc. Những bữa cơm khoai, những ngày lam lũ đã làm chị chạnh nhớ đến cảnh sum họp năm nào.
Thời hạn nghỉ của nhà trường rất ngắn, nên thường thường tôi chỉ ở nhà được ba hôm là cùng. Mỗi lần lên tỉnh, chị tôi hay cho tôi tiền, hoặc bỏ giấu vào túi áo, hoặc nhét dưới đáy valise, và dặn quen miệng:
- Chú chăm mà học, rồi về dạy cháu.
Anh Cả tôi vì công việc làm ăn ở tỉnh, chỉ có thể về quê thăm nhà mỗi năm vào dịp Tết. Vắng hai người thân ái nhất, chị tôi trở lại sống buồn bã như ngày mới về nhà chồng. Tiếng xay lúa ồ ồ nhiều lúc đến tận hai giờ sáng, như những nhịp đời thương nhớ âm vọng trong thời khắc và lòng người.
Hai năm sau, chị dâu tôi hoàn toàn thành một người đàn bà quê Việt Nam đặc. Trên cánh đồng rộng rãi của làng Đông Bích, người ta thường thấy một dải áo chàm in bật trên nền trời mỗi sáng, chăm chỉ và lặng lẽ như dấu hiệu một cuộc sống vâng lời, ngu muội.
Chị dâu tôi đã khác với ngày trước lắm rồi. Ba năm đôi, mấy đứa cháu tôi thi nhau ra đời, thi nhau sống một cách cơ cực và thi nhau kết thêm một ít dây liên lạc trói buộc chặt chẽ người mẹ chúng nó với cái đất nước này.
Người đàn bà ấy đã thôi không bao giờ còn dám hy vọng trở về quê hương nữa.
Tôi ra đời, xếp sách vở lại, mang vào trong bụi bặm cái hình bóng một người chị dâu lam lũ, nghèo hèn, chút chân tình nhận được khi trái tim tôi chưa biết đập một tiếng giả dối nào.
Sáu năm rồi, tôi cố nhắm mắt xoá cái vết đen mò của dĩ vãng, và xoá luôn cả những kỉ niệm buổi đầu.
Vài ba lá thư mỏng mảnh thỉnh thoảng rơi vào trong cái tẻ lạnh của đời tôi, đem lại nỗi nhớ nhung còn vấn vương ở góc trời cũ. Mẹ tôi bây giờ đã già, ngót bảy mươi tuổi. Chị tôi thêm được mấy cháu, đôi mắt lâu ngày tôi chưa gặp, chắc cũng mờ dần dần.
Tôi đi con đường tôi, đem châu báu của lòng ném hết vào những cuộc tình duyên vô vọng. Tôi hao phí thanh xuân đi để chóng thấy cái ngày già sắp tới, để tự phụ là mình biết sống đúng theo linh hồn.
Trên cái bao lơn của năm tháng cũ, hình ảnh chị dâu tôi vẫn đứng, buồn bã với manh áo màu chàm cũ, mắt nhìn từ quãng trời xa về, bóng hoàng hôn mơ hồ ôm trùm lên sự vật.
Chỉ có tôi là sống ích kỷ, còn người mẹ già, người chị dâu đau khổ, mấy đứa cháu rách rưới, vẫn sống theo khuôn phép, lặng lẽ và cần cù.
Sáu năm! Tôi xa quê hương sáu năm rồi mà không một lần nào nghĩ đến chuyện trở lại. Cái sức khỏe yếu ớt của mẹ tôi còn đứng được hay không, tôi không biết, và người chị dâu lưu lạc của tôi, có nói dối mấy đi nữa, chắc cũng đã quá chiều, xế bóng rồi...
4-1938
Được sửa bởi nhungocnguyen ngày Sun Nov 30, 2014 7:36 pm; sửa lần 1.
Gửi: Fri Nov 07, 2014 8:22 pm Tiêu đề: Nhà Thơ Hồ Dzếnh
Truyện Ngắn Lòng Mẹ Tác giả Hồ Dzếnh
Quê mẹ tôi ở Trung Bộ. Nhà người - tôi không làm thơ đâu - ở bên kia một dòng sông nhỏ, êm kín với hai bờ lau xanh. Chính ở nơi này, lúc người mới mười lăm tuổi, thì một tình duyên đẹp đẽ gây nên sự gặp gỡ giữa hai người xa lạ. Mẹ tôi thường thuật lại cho tôi nghe cuộc nhân duyên ngày trước, thuật lại bằng một giọng rất thờ ơ, hình như cho sự kết hôn với ba tôi là một điều không đáng nói. Tôi lọt lòng năm mẹ tôi đã ngót bốn mươi tuổi, thế nghĩa là khi tôi biết tò mò hỏi đến chuyện tâm tình của người, thì người đã già. Câu hỏi luôn luôn của tôi là:
- Hả mẹ, mẹ lấy ba có xe ô tô đi đưa dâu không mẹ?
Mẹ tôi cười, một cái cười chua chát cực điểm:
- Có con ạ. Mẹ lấy ba con có những ba mươi chiếc ô tô kia!
Tuy nhỏ, tôi hiểu ngay đó là một lời than kín. Thực ra, mẹ tôi lấy chồng trong một hoàn cảnh túng thiếu hết sức. Ba tôi hồi ấy còn nghèo, như phần nhiều những người bạn cùng nước mới sang đây.
Ngày nhỏ, tôi yêu mẹ tôi một cách bịn rịn. Người chiều tôi, có lẽ vì người đoán thấy ở tôi một số phận thiếu êm vui. Tôi đòi gì là người cho. Tôi muốn gì là người chiều ý. Sự nâng niu ấy rõ rệt đến nỗi ba tôi thường phải kêu:
- Cứ chiều nó như thế, thì chưa biết nó hư ngày nào.
Câu nói ghẻ lạnh làm tôi tủi nhục, nhiều lần òa lên khóc. Mẹ tôi sợ tôi bị đòn, vẫn giấu tôi ra một nơi, ôm lấy tôi mà vuốt ve. Cứ thế, mỗi lần sự khắc khổ của người cha làm tôi đau đớn, thì một bàn tay âu yếm lại xoa dịu lòng tôi ngay. Tâm tình của trẻ con rất đơn sơ mà cũng rất phức tạp. Tôi làm nũng mẹ tôi luôn để thấy cái thú làm lành của người sau những cơn thịnh nộ. Tôi chạy nhảy cùng nhà, la hét cốt để mọi người biết tôi có quyền la hét, hay muốn làm gì thì làm.
Năm lên tám, tôi cắp sách vào học tại một trường huyện. Nhà trường gần ngay chợ. Mẹ tôi, mỗi lần dọn hàng về, đều dừng lại trước cổng trường, đưa bánh cho tôi vào những giờ nghỉ. Có một lần mẹ tôi vô ý gọi to lên, giữa khi tôi đang ngồi trong lớp học.
- Con ơi, ra lấy bánh, mau!
Tôi giật mình nhìn ra thì thấy cái bánh giò đặt trên tay mẹ tôi, đưa qua hàng rào. Dưới nắng vàng vọt của buổi chiều hè, tôi nhận thấy mẹ tôi vui mừng một cách đáng thương. Một tay người giữ chiếc nón, còn tay kia thì run run. Người lách mình, cho khỏi bị gai ở hàng rào vướng. Quần áo người tiều tụy nhuộm ánh nắng xế chiều:
- Mau ra lấy bánh cho mẹ về, con!
Tôi đưa mắt nhìn thầy giáo rồi lại nhìn mẹ tôi. Sau cùng tôi đánh bạo lên xin phép:
- Thưa thầy, thầy cho con ra để mẹ con hỏi.
Thầy giáo tôi đương mải xem quyển sách, gắt:
- Không đi đâu cả, ngồi đấy!
Nói xong, thầy bình tĩnh lẩm nhẩm: "C'est parfait! parfait!"
Tôi về chỗ, đưa tay ra hiệu cho mẹ tôi ném bánh xuống đất, vì tôi không ra được. Mẹ tôi không hiểu lại gọi to thêm. Lần này, thày giáo ngoảnh mặt lên, nhìn ra ngoài rồi hỏi mẹ tôi:
- Bà kia muốn gì?
Tôi đứng ngay dậy thưa:
- Thưa thầy... mẹ con...
- Xin cho nghỉ à!
Tôi cuống lên, run run đáp:
- Thưa thầy, không ạ, mẹ con... mẹ con đưa bánh!
Thầy giáo tôi buông dài một tiếng "ôi chao" như hơi gió và bảo tôi:
- Cút ra ăn đi, rồi vào ngay, nghe không?
Tôi sung sướng suýt nhảy qua cửa sổ. Ra đến nơi, mẹ tôi hỏi:
- Sao lâu thế?
Tôi phụng phịu:
- Mẹ gọi to làm thầy giáo gắt. Từ rày có thấy con ra chơi mẹ hẵng đưa, còn không thì mẹ đem về cất vào ngăn kéo khóa lại kỹ cho con.
Mẹ tôi mỉm cười nhìn tôi - ôi! cái mỉm cười của một người mẹ! – Người dặn mấy câu rồi quay đi. Chiếc bánh hôm ấy, tôi ăn một cách không ngon lành và hơi vội. Lúc tôi vừa ném mớ lá xuống đất, thì tiếng trống bắt đầu báo giờ ra chơi.
- Mày ăn cái gì đấy? A, thằng này xỏ, nó ăn mau lắm anh em ạ.
Câu nói sau cùng làm tôi vụt cười, sặc ra ngoài miếng bánh ngậm trong miệng.
Thuở thơ ấu của tôi phần lớn là những ngày buồn bã, cái buồn bã không đâu, đến bây giờ còn theo dõi tôi mãi. Thỉnh thoảng tôi mới vui, nhưng cái vui, ác hại, lại dồn dập như giông tố, bỏ rớt lại một nỗi trống rỗng thiểu não trong lòng tôi sau khi tan đi. Tôi vui đấy mà buồn ngay đấy. Tôi lưu luyến một cái gì xa quá, hư huyền quá, nhưng không phải là thú vui tìm kiếm trong gia đình hay trong đời sống. Bạn bè tôi lại rất hiếm. Vài ba gương mặt phảng phất lắng trong quá khứ thiếu tươi vui, vài tình cảm xưa cũ lẽo đẽo theo tôi trên đường đời. Có thế thôi, và thường thường tôi chỉ sống bằng mộng. Tôi không bằng lòng ai cả, hình như tôi cũng không bằng lòng cả tôi. Tôi phải kiếm cớ luôn luôn cho lòng mình thắc mắc, trong thứ tin tưởng quái gở là mọi người không ai yêu tôi. Đó thực là một cực hình cho kẻ nào, như tôi, chịu ảnh hưởng sự khủng hoảng tinh thần do chính mình gây ra, do chính mình ham thích.
Cách đây mấy năm, có lần tôi đã chép đoạn thơ của Baudelaire dán ở bàn viết, ngay trước mặt:
Il me semble parfois que mon sang coule à flots
Ainsi qu’une fontaine aux rythmiques sanglots,
Je l'entends bien qui coule avec un long murmure,
Mais je me tâte en vain pour trouver la blessure.
(Đôi lúc hình như máu xối nguồn
Tựa như lòng nước tiếng vang thương.
Ta nghe máu chảy sầu rười rượi
Khốn nỗi không tìm thấy vết thương).
Đậu bằng tiểu học xong, tôi lên tỉnh học. Trước khi thi vào ban thành chung và còn những ba tháng nghỉ hè thênh thang trước mặt, tôi theo chúng bạn đến học tư với một thầy giáo tú tài. Tôi trọ ở nhà người chú, mỗi tháng chỉ phải đem gạo ở nhà quê ra thay tiền. Tôi không hỏi ý kiến mẹ tôi, vì tôi cho việc học lúc ấy rất cần. Học được ba ngày thì thầy giáo tôi lễ phép nhắc với học trò bằng tiếng Pháp:
- Tôi mong rằng các anh trả tiền học trong vài hôm sắp tới đây, và tôi xin cảm ơn trước.
Học trò ai nấy nhốn nháo lên. Có vài người trong bọn móc ngay tiền túi mang lên trả. Các anh khác xin khất đến mai. Riêng tôi, tôi buồn lắm. Chỉ mãi đến lúc ấy, tội nghiệp, tôi mới nhớ đến mẹ tôi, tôi mới nhớ đến cái vốn liếng ít ỏi của người. Bốn đồng! Tính theo giá tiền ở Trung Bộ vào thời bình là hai mươi quan! Tôi làm một cái tính nhẩm và rùng mình biết rằng đó là một số tiền cắt cổ. Điều cần thiết là tôi phải mượn ở đâu lấy mấy hào về nhà quê trình bày mọi sự với mẹ tôi. Cái tráp tiền của chú tôi đóng lại với con cháu rất chắc. Hầu bao của các bạn cũng không thể mở được vì một cử động nhân từ nào. Tôi đành xin nghỉ một hôm, cuốc bộ về nhà lấy tiền trả cái "nợ học". Thấy tôi về bất thần, mẹ tôi ngừng tay xay lúa, hỏi tôi:
- Sao con lại về? Con không ở ngoài tỉnh mà học à?
Tôi bậm môi lại để nén tiếng khóc. Tôi không đủ can đảm nói cái số tiền học quá lớn kia nữa. Mẹ tôi thì lại ngờ rằng tôi bị hắt hủi nên hỏi nựng:
- Hay là bọn nó làm gì con?
Tôi lắc đầu, khóc:
- Thầy giáo... thầy giáo đòi tiền học!
Mẹ tôi cười điềm nhiên:
- Tưởng gì chứ đòi tiền học thì để mẹ đưa. Mấy hào?
Tôi giật mình nhìn mẹ:
- Hàng đồng kia!
- ừ thì bao nhiêu?
- Bốn đồng!
Tôi thấy mẹ tôi lặng người đi, không nói được nữa. Nhưng có lẽ cảm động vì tấm lòng thương mẹ của tôi, người gượng gạo:
- Con cứ lên nhà nằm nghỉ, rồi để mẹ đưa cho.
Mẹ tôi nói dối. Mẹ tôi đuổi tôi lên nhà, để mẹ tôi khóc. Lúc tôi chạy xuống bếp lục cơm ăn, thì thấy đôi mắt mẹ tôi đỏ ngầu, vạt áo ướt đẫm.
Tôi ngả vào lòng người, rồi mếu máo:
- Con không đi học nữa mẹ ạ.
Mẹ tôi xoa đầu tôi, cười như thở dài:
- Dại nào! Con học đang giỏi thế kia mà. Để mẹ đưa tiền cho, đừng sợ.
Sáng mai thấy tôi sửa soạn ra tỉnh, người băn khoăn:
- Con cứ ra khất với thầy giáo vài hôm nữa, rồi mẹ mang tiền ra trả sau.
Tôi hiểu ngay là mẹ tôi còn phải chạy tiền nên ngoan ngoãn ra học lại.
Cả lớp đã trả tiền hết, trừ tôi. Tuy ngồi ở cuối lớp áp lưng vào tường, tôi vẫn tưởng nghe sau mình những tiếng cười chế giễu. Tôi đâm ngượng, cái ngượng của một người học trò không thuộc bài, nghênh ngang đứng trước mọi con mắt, tay xếp vòng tròn, vê mãi cúc áo của mình.
- Thế nào...? Thầy giáo hỏi tôi.
- Thưa thầy, thầy cho con khất đến hai hôm nữa.
- Nếu hai hôm nữa chưa có tiền học thì anh nghĩ sao?
Tôi đáp rất chắc chắn:
- Thưa thầy có ạ. Thế nào cũng có. Mẹ con đã bảo đúng ngày kia đưa tiền ra.
Tôi vừa học, vừa sợ. Ngày tháng chạy mau thêm. Hai tờ lịch rơi chóng quá.
Nhưng may, mẹ tôi đã ra đứng đợi tôi ngoài cửa nhà học, vì nơi học chính là một cái nhà thật. Mẹ tôi cắp cái thúng trong đựng mười quan tiền. Tôi ái ngại bảo mẹ:
- Trả tiền học bằng tiền, thầy giáo không nhận đâu mẹ ạ.
Tôi chưa kịp cản, thì mẹ tôi đã cắp thúng đến trước mặt thầy giáo, và đặt lên bàn mười quan tiền và hai tờ giấy bạc lấy ở nút buộc ruột tượng ra, làm tôi đỏ cả mặt. Mẹ tôi kể lể như khi kể lể với một người bạn thân:
- Cháu nó bảo thầy không tiêu tiền kẽm nên ngăn tôi không cho đem vào. Thầy tính, cháu nó còn nhỏ, tâm tình như con gái, hay sợ vơ sợ vẩn...
Thầy giáo sai người cất tiền đi, và chừng như động lòng trước cảnh nghèo túng của chúng tôi, thầy cầm lấy tay tôi, thành thực:
- Em chịu khó mà học đi. Em học khá đấy. Tháng sau thầy bớt tiền học cho.
Ra ngoài, tôi vui vẻ hỏi mẹ tôi:
- Sao mẹ có nhiều tiền thế, mẹ?
Mẹ tôi cười, nửa buồn nửa vui:
- Mẹ chỉ có mười quan thôi. Hai đồng bạc ấy là của thím con, mẹ thấy rơi ở đầu giường thím nằm nên mượn tạm!
Tôi rụng rời cả mình mẩy. Tôi thấy tất cả cái thành phố quê hương của tôi quay đảo trước mặt, nhà chất lên cây, cây chất lên nhà. Tôi hỏi mẹ:
- Sao mẹ lại lấy như thế, thím ấy nói cho.
Mẹ tôi cười gần như khóc:
- Người ta giàu, mình mượn tạm rồi trả sau cũng không sao. Mà thím ấy có nói thì nói mẹ, việc gì đến con mà con khóc.
Vừa đặt chân vào nhà, tôi nghe tiếng thím tôi réo:
- Tôi có ba đồng ba, để ở đầu giường, đứa nào lấy mất hai rồi?
Tôi toan cất tiếng, thì mẹ tôi vội bấu tay tôi, nói khẽ:
- Mặc nó!
Nhưng tôi không nghe. Tôi bảo thím:
- Cháu lấy đấy, thím ạ. Cháu trót đánh mất rồi.
Thím tôi lườm tôi, nghiến răng lại:
- Cháu giỏi nhỉ? Đồ ăn cắp!
Tôi chưa kịp nói thêm được gì, thì mẹ tôi đã đứng lên:
- Tôi mượn của thím đấy, để vài hôm nữa tôi mang ra trả lại.
Thím tôi bĩu môi, thõng thẹo:
- ừ, bà mượn thế thì ai chả mượn được!
Câu chuyện trên đây theo dõi tôi như một ám ảnh cực nhục. Mỗi lần nhớ đến mẹ tôi, hay xét mình phạm tội, tôi thường đem nó ra để tự hình phạt. Nhiều năm đã rơi theo nhiều năm, và bây giờ, trong những đêm Hà Nội, cái thành phố hoa lệ chỉ quen tiêu bạc với hào, tôi vẫn rờn rợn nghe thấy âm thanh của mười quan tiền kêu lanh lảnh...
10 - 1937
NGÀY LÊN ĐƯỜNG Tác giả Hồ Dzếnh
Thế rồi tôi nhất định bỏ cái tỉnh nhỏ của tôi từ đấy.
Tôi nhất định đi lính, nhất định bắt chước những bạn đồng học của tôi. Họ, một phần lớn, đã khoác lên mình bộ quần áo mầu vàng nhợt, vượt đến một nơi cách đây hàng nghìn dậm. Tiếng hát của buổi từ biệt còn văng vẳng trong tai tôi, thứ tiếng hát mỗi lần cất lên, người nghe có cái cảm tưởng được ngửi thấy mùi thuốc súng, được sống một ít cái không khí ở chiến trường.
Họ đã đi rồi. Chân trời bình yên khép lên họ.
Bây giờ đến lượt tôi.
Ròng rã trong bao nhiêu ngày trời, trong óc tôi hằn một cái dấu hỏi: đi hay ở?
Sau cùng tôi bằng lòng đi.
Tôi tâm niệm, giữ gìn cái ý định ấy cho nó khỏi phai, cho nó khỏi lạt.
Tôi không dám nhìn mẹ tôi, vì sợ những nếp nhăn trên má người.
Tôi sợ không dám chơi với ai nữa.
Tôi cầu cho cuộc đời vẫn cũ như cuộc đời, để đừng có cái gì mới hết.
Tôi sẽ hăng hái đi như các bạn, bởi quanh tôi, ở đây, gió đã vàng lắm rồi, và mùa thu của cuộc đời đã lại.
Tầu chỉ còn một chuyến nữa. Số lính kén có chừng.
Tôi hỏi tôi:
- Về nước ta sẽ làm gì? Ta yếu lắm!
Rồi tôi tự trả lời lấy:
- Quét chuồng ngựa. Lau giầy cho ba quân. Làm được tất, làm là tốt rồi.
Tôi chưa đi đâu bao giờ, nên nói đến đi đâu, tôi vẫn cảm động.
Một giang hồ ám ảnh tôi từ hồi nhỏ, ngày tôi bắt đầu cầm cái thước dò đường trên tấm bản đồ năm châu. Tôi ao ước sang Marseille, sang Manille, Hương Cảng, sang Lào, sang Cao Miên. ở đấy, tôi cũng tin chắc rằng cảnh tượng đẹp đẽ, sung sướng hơn ở tỉnh nhà.
Tôi mơ ước được làm bồi tầu thủy, được theo về xứ sở của họ, những người Pháp giầu lòng nhân từ. Tôi biết cả giá tầu sang Pháp, từ trên "pont", đến hạng nhất, bằng cách mầy mò, thóc mách riêng.
Nơi xa, nơi xa với tất cả những tuổi trẻ như tôi, nơi xa vẫn có một sức quyến rũ say đắm. Tôi nhớ mãi cái mầu trời xanh biếc, sắc nước lam tươi, chen vào giữa là những cánh buồm trắng chấm lửng một cách nên thơ trong mấy bức ảnh bầy rải rác ở các cửa hiệu.
Tôi phải đi.
Tôi phải sống.
Đời tôi phải khác thế này.
Và cơ hội tốt nhất đã đến.
Nhưng tôi mới có mười lăm tuổi.
Tôi băn khoăn không hiểu vì sao được đi là thú, tôi lại ngại ngần giữa lúc nên đi. Vì mẹ tôi chăng? Vì nước Nam yêu quý chăng? Có lẽ. Những ruộng đất, đồi núi của xứ Trung kỳ bình yên như thế này, ai xa mà không nhớ được!
Tôi thấy là một sức mạnh quá đầu óc tôi, sự rời bỏ một người mẹ hằng nựng nịu tôi, hôn hít tôi, hằng chia bùi, xẻ ngọt với tôi.
Thêm nữa, trời ban cho cái óc mộng, tôi đã trót làm thơ cái tình sâu rộng ấy lên, và biến nó thành tình yêu đất nước.
"Mẹ."
Thực không còn gì có nghĩa bằng người ấy nữa. Người ấy to quá, rộng quá, tuy tất cả sự có nghĩa chỉ là cái thân hình tiều tụy, bọc bằng chiếc áo vá vai. Ngày mai đã là ngày lên đường, mà hôm nay, tôi chưa sửa soạn gì hết. Tôi đờ đẫn cả người. Tôi bâng khuâng như vừa để mất đi một cái gì thân thiết lắm. Và lúc tôi khép mắt lại để không trông thấy, không tưởng tượng gì nữa, thì hồn tôi chợt nhận biết một cảnh sắc lưu luyến hằng ngày: cảnh quê mùa, đồng áng.
Ô hay! Nước Nam đẹp đến như thế này ư? Ngày thường tôi có thấy nước Nam "mẹ" như lúc này đâu!
Một Tổ quốc.
Hai Tổ quốc.
Cái trên là cha tôi.
Cái dưới, mẹ.
Tôi nắm tay lại, nói như người quyết định:
- Đi là đi!
Đi là đi? Dễ như thế à? Không, đi là... nhớ!
Tôi để rơi một giọt nước mắt cho bạn tôi trông thấy. Hắn cười:
- à, thằng này nó khóc, anh em ạ. Hay nhớ mẹ thì ở nhà!
Tôi vội gạt nước mắt, cãi:
- Ơ! Người ta ngáp mà lại!
Sự chế giễu của bạn làm tôi hăng lên, không bịn rịn nữa. Nhưng không bịn rịn nữa thì tôi lại xấu hổ. Tôi nhận rõ rằng trong đám người quả quyết kia, tôi là người thiếu quả quyết nhất. Tôi sắp được giang hồ rất phải lúc, cái giang hồ nhiễm đầy vẻ hào hùng, phóng thái. Quê hương của tôi gọi tôi, cái đất nước mà tất cả mọi tấm lòng tôi còn đều phải thương nhớ đến.
Xưa kia, lòng tôi đôi phen náo nức, muốn cao lên, cao lên theo lá cờ vui mừng trước gió, nó là cái dấu hiệu một tình yêu khác dào dạt trong tôi.
Xưa kia, tôi từng mơ ước một cuộc đi đến mục đích, tốt đẹp như bây giờ.
Đi là sống
Tôi cần phải đi, và đây rồi, ngày lên đường đã lại.
° ° °
Tôi vừa xếp hành lý, vừa gạt nước mắt.
Tôi làm cái công việc ghê gớm ấy vào một đêm khuya khoắt, lúc cả nhà tôi ngủ rồi, sau khi nói dối mẹ tôi là ra Nam thăm người bạn. Tôi nghĩ chỉ còn cách nói dối ấy là tiện, vì mẹ tôi chắc cũng không nỡ giận tôi nữa, một khi tôi ở xa.
Mẹ tôi bằng lòng cho tôi đi, nhưng ái ngại dặn:
- Con mau mà về nhà, đây mẹ cho thêm một đồng nữa mà tiêu vặt.
Trước sự tử tế trắng trơn của mẹ tôi, tôi suýt òa lên khóc, và chực nắm lấy áo người mà nói: "Không, con nói dối, con đi lính đấy, mẹ ạ".
Cũng may lúc ấy, mẹ tôi bận hàng, để tôi có đủ thì giờ trở vào nhà, vừa đi vừa sùi sụt.
Tôi chọn những cái quần áo còn lành lặn bỏ vào trong valise, và chất thêm vào đấy ít cuốn tiểu thuyết chữ Pháp. Tôi đau đớn như người vừa phạm lỗi nặng, khi tôi nghe, từ gian phòng bên đưa lại, tiếng thở dài não nuột trong giấc ngủ của mẹ tôi.
Xếp hành lý xong, tôi bí mật trao valise cho thằng nhỏ, dặn nó mang lại nhà bạn trước vì tôi cần phải đi với vài cái quần áo cho người nhà đỡ nghi.
Sáng mai...
ánh bình minh chưa bao giờ nhợt nhạt, sầu muộn đến thế. Tôi chống mắt thức, chờ giờ tầu, nên tiếng gà gáy thứ nhất vọng vào lòng tôi một nỗi buồn thăm thẳm. Rồi tiếp đến rạng đông diễu cái cảnh huyền ảo bên ngoài.
Sáng ấy, không hiểu sao mẹ tôi lại dậy sớm hơn mọi ngày. Từ dưới bếp, người lệ khệ mang lên một thau nước nóng, thả bơi ở giữa chiếc khăn mặt bông trắng tinh. Người còn tự rót nước cho tôi uống nữa. Lúc ấy, đã sáu giờ sáng. Chỉ còn một tiếng đồng hồ nữa là tầu chạy, là tôi đi.
- Kìa con không ra ga đi thì vừa?
Tôi không đáp, lẳng lặng cắp gói quần áo ra đi. Mẹ tôi ngờ là tôi dỗi vì có ít tiền nên gọi lại cho thêm mấy hào. Đã trót bước đi, tôi không thể nào quay lại được nữa, nên chối:
- Đã, con có đủ rồi ạ.
Giọng tôi nói run run qua bóng tối mờ mờ. Mẹ tôi đứng lặng nhìn tôi, nhưng chiếc xe tay đã chạy.
Chúng tôi có tất cả năm người đồng lòng đi.
Theo chương trình đã định, chúng tôi lấy vé tầu ra Hà Nội, rồi từ ở đấy, lên thẳng V. N. Chúng tôi sẽ sống chết với nhau, chúng tôi sẽ làm đủ mọi cách để đến khi về, mặt mày được vinh dự.
Đưa chân chúng tôi hôm ấy, độ mươi người, hầu hết là bạn bè cùng lớp, những tâm hồn sôi nổi nhất, mà cũng chóng nguội lạnh nhất. Chúng tôi mặc quần áo vàng học sinh, mạnh dạn và cố lấy vẻ tươi trẻ.
Còn mười lăm phút nữa thì tầu chạy. Trong chúng tôi, lác đác có vài ba cái mặt trở nên nằng nặng, vài cặp mắt hơi chớp.
- Huýt! Huýt! Sình... Sình!
Tiếng còi và máy của tầu chở than làm chúng tôi, không hẹn nhau, cùng giật mình. Lấy vé xong, tôi vừa xách valise ra sân ga, thì có người bạn bảo tôi;
- Mẹ anh kia kìa!
Mẹ tôi thật!
Tôi vội vàng giấu chiếc valise đi, rồi chạy ra đón người. Tôi chắc mẹ tôi đã được mách về cuộc hành trình của tôi, nên tôi lo lắm. Nhưng sự thực thì mẹ tôi chưa biết gì hết. Tôi muốn khóc lên mà thú tội với người, vì tôi không còn một phần nhỏ can đảm nào bỏ đi trước những vết nhăn chằng chịt trên mặt người nữa.
Mẹ tôi đưa ra một cái gói gì to bọc bằng nhật trình, rồi bảo tôi:
- Con bỏ quên đôi giầy "săng đan" này, nên mẹ phải chạy lên đưa cho con.
Mẹ tôi đã "chạy" lên thực, cố nhiên là chạy trên đôi chân gầy yếu, vì sợ tốn tiền xe, đưa cho tôi đôi giầy mà người biết là tôi thích đi nhất. Tôi cầm đôi giầy mà ứa nước mắt.
Tôi đã quyết định về sự đi của tôi rồi. Tôi đã quyết định bằng cách... ở lại!
Không một lời nói, tôi đến giằng chiếc valise ở tay bạn lại, và trong khi các bạn nhốn nháo ra sân ga, tôi cũng nhốn nháo... trở về.
Mẹ tôi ngạc nhiên bảo tôi:
- Sao con không đi với các anh cho vui?
Tôi lắc đầu:
- Để hôm khác con đi cũng được.
Câu chuyện trên, mãi đến hai năm sau, mẹ tôi mới biết. Mẹ tôi biết, rồi mẹ tôi cười, rồi mẹ tôi đánh yêu tôi mà bảo:
- Mày chả về mà làm quan cho mẹ nhờ!
Các bạn tôi cũng không đạt được đến mục đích. Họ nản chí ở dọc đường. Có kẻ xuống Nam, có người gan liền theo tầu đến Hà Nội rồi đáp ô tô trở về.
Gặp lại nhau, chúng tôi chỉ cười, cười với nước mắt, và không ai bảo ai, cùng lẳng lặng đẩy câu chuyện trên kia vào dĩ vãng.
Hôm nay, một buổi chiều không nắng, không mưa, một buổi chiều nhàn tĩnh.
Tôi đứng trên một dốc phố vắng, đưa mắt nhìn toán người từ xa lại với mầu áo tôi thường khoác ngày xưa, ngày mà tôi đã suýt một lần về nước.
Gió chiều lên lành lạnh. Qua mầu áo cũng bạc, cũng cũ ấy, cái mầu áo xông lên mùi á Đông, tự nhiên, tôi cảm thấy ai hoài, chua xót.
Hình như từ phương xa đương trôi về lòng tôi một buổi chiều tận thế...
Gửi: Sun Nov 30, 2014 8:32 pm Tiêu đề: Truyện Ngắn Hồ Dzếnh
Thi Sĩ Hồ Dzếnh Với: Thái Tú Hạp- Thanh Nam- Du Tử Lê
LGT- "Cô gái Việt Nam ơi ! / Nếu chữ "hy sinh" có ở đời/ Tôi muốn nạm vàng muôn cực khổ/ Cho lòng cô gái Việt Nam tươi ." Đó là bốn câu thơ của thi sĩ Hồ Dzếnh mà chúng tôi được biết trong một bài học thuộc lòng thời tiểu học trường Hàng Vôi, trước 1954 . ..và chúng tôi đã nhớ mãi cho đến ngày nay. Bốn câu thơ đã gây một ấn tượng mạnh mẽ trong tâm hồn trẻ thơ, đã khiến cho tôi tôn kính, yêu thương mẹ mình nhiều hơn, và cũng muốn được "nạm vàng" hai chữ "hy sinh" để dâng mẹ tôi, người mẹ góa bụa rất sớm, bương chải nuôi một đàn con ...Đến những năm trung học TV - một thời thanh xuân - chúng tôi được nghe ca sĩ Quách Đàm hát bài "Chiều" do nhạc sĩ Dương Thiệu Tước phổ nhạc từ bài thơ "Mầu cây trong khói" của Hồ Dzếnh, qua vẻ bâng khuâng "nhớ nhà châm điếu thuốc/ Khói huyền bay lên cây" ...của thi sĩ, chúng tôi cảm nhận một sự sâu lắng , nhớ nhung tha thiết một cái gì nhiều hơn là "nhớ nhà" ! Hình như thi sĩ đã bâng khuâng nhớ về quê nội rất xa xôi của ông ...mà mãi...
... sau này, lớn hơn, tìm hiểu nhiều hơn, chúng tôi mới thấy được những mối u hoài của thi sĩ qua tiểu sử của ông . Bài thơ "Ngập ngừng" của ông được ít nhất ba nhạc sĩ phổ nhạc thành "Anh cứ hen" do nhạc sĩ Anh Bằng ; "Em cứ hẹn" do Hoàng Thanh Tâm ; và "Ngập ngừng" do Minh Duy . Dù ông làm thơ hay viết văn, tài năng của ông đã đưa ông lên địa vị quan trọng, hay hàng đầu trong nền Văn Học Việt Nam . Hôm nay, chúng tôi xin gửi đến quý bạn đọc những bài phân tích, ghi nhận hay tạp ghi ...viết về cuộc đời và sự nghiệp văn chương của nhà thơ Hồ Dzếnh . - NN
(Hình trên: Nhà văn Hồ Dzếnh - Blog Đào Duy Thanh)
Nguồn: Saigon Times Online
HỒ DZẾNH VỚI HỒN THƠ QUÊ NGOẠI
THÁI TÚ HẠP
Có những buổi chiều cuối thu, sương mù phủ xuống âm u khắp núi rừng Kỳ Sơn, Quảng Nam, một mình đi giữa hàng lau bạc trắng. Cái tĩnh mịch hoang vắng của đất trời, cơ hồ chỉ cần một tiếng chim kêu cũng đủ làm giao động cảnh trí mênh mông của buổi chiều thêm hiu quạnh. Những giây phút lắng đọng tâm tư như thế, tôi thường hay nhớ đến bài thơ Mầu Cây Trong Khói của Hồ Dzếnh, đã được Dương Thiệu Tước phổ thành ca khúc Chiều:
Trên đường về nhớ đầy
Chiều chậm đưa chân ngày
Tiếng buồn vang trong mây...
Chim rừng quên cất cánh
Gió say tình ngây ngây
Có phải sầu vạn cổ
Chất trong hồn chiều nay?
Tôi là người lữ khách
Màu chiều khó làm khuây
Ngỡ lòng mình là rừng
Ngỡ hồn mình là mây
Nhớ nhà châm điếu thuốc
Khói huyền bay lên cây...
Lời thơ của Hồ Dzếnh như một định mệnh theo tôi đến suốt đời. Tôi đã thuộc duy nhất bài hát này, khi còn lẻ loi một mình ở rừng núi Thượng Đức. Đại Lộc. Ái Tử. Trên Phá Tam Giang. Hay buổi chiều lang thang ven những ngọn đồi Đà Lạt. Và cuối cùng ở những con đường dưới chân núi Kỳ Sơn ở quê nhà.
Nhà thơ Hồ Dzếnh, thân sinh ông là ông Hà Kiến Huân, người Quảng Đông, có thể vì sinh kế nên lưu lạc đến Việt Nam, và đã sang một chuyến đò duyên nợ với cô lái tỉnh Thanh Hóa. Sau những ngày hạnh phúc bên nhau, Hồ Dzếnh đã ra đời, và không ngờ lớn lên đã trở nên một nhà văn, thơ xuất sắc trong văn học nghệ thuật Việt Nam. Mặc dù Hồ Dzếnh sinh trưởng trên xứ sở Việt Nam, nhưng trong tâm tưởng lúc nào ông cũng mơ về một quê hương đầy bản sắc thơ mộng. Những hình ảnh mây trắng ngàn năm trên Lầu Hoàng Hạc vẫn còn bay lãng đãng. Những thảm cỏ non nơi cánh đồng Anh Vũ vẫn ngút ngàn kiêu sa. Vẫn những hàng liễu buông đầy lãng mạn trên Tây Hồ soi bóng:
Ta nhớ màu quê, khát gió quê
Mây ơi ngưng cánh đợi ta về
Cho ta trông lại tầng xanh thẳm
Ngâm lại bài thơ "Phương Thảo Thê"
Đất Thánh Trời Đông, Mẹ Á Châu
Anh hoa ngàn thuở rạng phong hầu
Chín cung thăm thẳm hồn hương khói
Danh vọng vang lừng mây gió Âu
Liễu Động Đình thơm chuyện hảo cầu
Tóc thề che mướt gái Tô Châu
Bâng khuâng trăng sáng trời Viên Hán
Một dải Giang Nam nước rợn màu
Ai hát mà nay, gió vẫn thơm
Ai đau non nước não căm hờn?
Chiêu Quân nếu mãi người Cung Hán
Thi tứ tìm đâu nét tủi hờn?
Mây ơi có tạt về phương Bắc
Chầm chậm cho ta gửi mấy lời
Từ thuở ly hương ta vẫn nhớ
Nhưng tình xa lắm gió mây ơi!
(Tư Hương)
Cõi thơ của Hồ Dzếnh thể hiện cái thế giới đầy tình yêu thương chân thật, như hạt ngọc lấp lánh kết tinh từ đời sống ấu thơ, đầy những bất hạnh nghèo khó, nhưng không thiếu những cảnh tượng hồn nhiên, thơ mộng, bao dung, như biển trời. Hồ Dzếnh đã tâm sự: "Hỡi nước Việt Nam, tôi nghiêng lòng xuống Người, trên những luống cày mà hương thơm còn phảng phất, vì tôi đã từng uống nước và nói tiếng nói của Người, vì tôi đã thề yêu Người trên bậc tuyệt vời của tôn giáo...". Những lời trân quý ông dành dâng tặng đến Người là Mẹ ông. Có lẽ suốt chuỗi đời ấu thơ, ông sống trong vòng tay trìu mến của Mẹ, nên ông yêu kính Mẹ vô cùng. Chính vì ông yêu Mẹ nên ông ca tụng hình ảnh những người con gái Việt Nam, suốt một đời thủy chung tận tụy vì chồng con:
Cô gái Việt Nam ơi!
Từ thuở sơ sinh lận đận rồi,
Tôi biết tình cô u uất lắm,
Xa nhau đành chỉ nhớ nhau thôi
Cô chẳng bao giờ biết bướm hoa,
Má hồng mỗi tiết mỗi phôi pha
Khi cô vui thú, là khi đã
Bồng bế con thơ, đón tuổi già!
Cô gái Việt Nam ơi!
Ngọn gió thời gian đổi hướng rồi,
Thế hệ huy hoàng không đủ xóa
nghìn năm vằng vặc ánh trăng soi.
Tôi đến đây tìm lại bóng cô,
Trở về đường cũ, hái mơ xưa
Rau sam vẫn mọc chân rào trước,
Son sắt, lòng cô vẫn đợi chờ.
Dãi lúa cô trồng nay đã tươi,
Gió xuân ý nhị vít bông cười...
Ai hay lòng kẻ từng chăm lúa,
Trong một làng con, đã héo rồi!
Cô gái Việt Nam ơi!
Nếu chữ hy sinh có ở đời,
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi.
(Cảm Xúc - Quê Ngoại)
Hồ Dzếnh bước vào làng văn, thơ từ năm 1937, với một số bài gởi đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Trung Bắc Chủ Nhật, Tạp San Mùa Gặt Mới. Những tác phẩm đã xuất bản như Quê Ngoại (Thơ 1943), Hoa Xuân Đất Việt (Thơ 1946), Một Truyện Tình 15 Năm Về Trước (Truyện 1942), Cô Gái Bình Xuyên (1946), Chân Trời Cũ (Truyện 1942). Văn của Hồ Dzếnh trong sáng nhẹ nhàng, tình cảm chân thật gần gũi, ấm cúng như một hạnh phúc bình dị quen thuộc quanh đời sống thôn dã, nồng thắm quê hương. Về thơ Hồ Dzếnh cấu trúc những sáng tạo sâu sắc, mới lạ, chan chứa trữ tình, thể hiện một hồn thơ chân thành, tuyệt đẹp và độc đáo. Trong hai tập thơ Quê Ngoại và Hoa Xuân Đất Việt, được nhà văn Mai Thảo nhận định: "Trong cái thế giới ngột ngạt bít bưng tức thở của những tháp ngà tiền chiến như những phần mộ lạnh buốt, thơ Hồ Dzếnh hơn cả Xuân Diệu và theo tôi, hơn cả Nguyễn Bính đầu mùa, là những xâu chuỗi lanh lảnh nhạc vàng gõ vui từng nhịp nắng trên mênh mông đài trán thiên nhiên. Tôi nhớ mãi cái cảm giác của tôi, 20 tuổi, tiếp nhận một tập thơ còn trẻ hơn hồn mình phơi phới, một tập thơ cỏ non lả lả, một tập thơ cốm mới đậm đà, một tập thơ mười tám cái xuân đầy, đọc mỗi câu tưởng như có mật, có đường ngọt trong cổ. Thơ Hồ Dzếnh là cái trạng thái ngu ngơ mà chủ đề là tình yêu và ánh sáng. Ngó thật kỹ, Quê Ngoại không hằn một nếp nhăn. Với tôi, một tập thơ đầu tay phải như thế. Phải có cái khí thế vạm vỡ của sức sống như một vươn tới, cái vóc dáng của tình yêu như một kín trùm dào dạt. Dẫu cho lỡ cả thiên đường, thì xin một nửa tấc vườn vắng hoa. Hồ Dzếnh không làm thơ đâu. Thơ đã có, đâu đó, trên mây, trên cành, trong nước chảy dưới chân cầu, trong không khí, thơ một thuyền đầy, thơ một chuyến lớn chở Hồ Dzếnh đi vào thênh thang tiếng nói..."
Hồ Dzếnh, ông là một nhà thơ khí khái không quỵ ngã trước mọi áp lực của thời thế, ông cố vượt qua mọi giông bão cuộc đời, tạo thế đứng lẫm liệt của một cây thông giữa bạt ngàn lau lách, nên ông đã giữ được niềm quý trọng của quần chúng nuôi hoài những cảm tình qua cõi thơ trong sáng, tình người, đầy hồn nhiên, thơ mộng của ông.
Khi thi sĩ Bùi Giáng còn lang thang nơi trần thế, mỗi lần đọc đến những bài thơ lục bát của Hồ Dzếnh, Bùi Giáng biểu tỏ niềm mến phục chân tình qua nhận xét "chẳng khác giải Ngân Hà lấp lánh nhớ nhung trên bầu trời Văn Học Việt Nam":
Phút linh cầu mãi không về
Phân vân giấy trắng chưa nề mực đen
Khói trầm bên giấc mơ tiên
Bâng khuâng... trăng rải qua miền quạnh hiu
Tô Châu lớp lớp phù kiều
Trăng đêm Dương Tử, mây chiều Giang Nam
Rạc rời, vó ngựa quá quan
Cờ treo ý cũ, mây dàn mộng xưa
Biển chiều vang tiếng nhân ngư
Non xanh thao thiết trời thu rượu sầu
Nhớ thương bạc nửa mái đầu
Lòng nương quán khách nghe màu tà huân
Buồn Tư Mã, nhớ Chiêu Quân
Nét hoa thấp thoáng, ý thần đê mê
Phút linh cầu mãi không về
Phân vân giấy trắng chưa nề mực đen...
(Phút Linh Cầu - Quê Ngoại)
Bùi Giáng đã không ngượng ngùng mà thẳng thắn phát biểu: "Ta phải cố quên mấy bài lục bát của Hồ Dzếnh thì mới đủ can đảm làm thơ. Nhưng mỗi phen đang giữa cơn chịu khó liên trì mà chợt sực nhớ tới cái bài Phút Linh Cầu của Hồ Dzếnh thì ối thôi! Ối thôi! Chẳng còn thể nào tiếp tục công việc gì nữa cả... Linh hồn bỗng nhiên xô ùa máu me chạy tuột đi hướng khác vô phương nắm cầm lại... Không còn một loại thơ kim cổ nào đứng nổi trước cái trận chiêm bao kỳ ảo kia. Tôi thách các bạn tìm bất cứ trong thi ca cổ kim một bài thơ nào đứng vững nổi trước mấy vần lục bát của ông bạn Minh Hương..."
Thái độ khiêm cung của Thi sĩ Bùi Giáng đã làm cho chúng ta liên tưởng đến Thi hào Lý Bạch, khi qua chơi lầu Hoàng Hạc, đọc bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, giật mình chỉ viết nên hai câu:
Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu
Trước mắt có cảnh, nói không được
Vì thơ Thôi Hiệu ở trên đầu.
Ngoài những bài thơ trứ danh đã đan cử ở trên, riêng tôi vẫn còn yêu thích những giòng thơ tích lũy tình yêu thánh hóa, ươm đầy ảo vọng tương lai, mâu thuẫn nội tâm của Hồ Dzếnh, chất ngất những hoài nghi:
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé
Để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân
Ngó trên tay, thuốc lá cháy lụi dần
Tôi nói khẽ: gớm làm sao nhớ thế
Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé!
Em tôi ơi tình có nghĩa gì đâu
Nếu là không lưu luyến buổi sơ đầu?
Thuở ân ái mong manh hơn nắng lụa
Hoa bướm ngập ngừng cỏ cây lần lữa
Hẹn ngày mai mà đến sẽ vui hơn
Chỉ ngày mai mới đẹp ngày mai thôi
Em cứ hẹn, nhưng em đừng đến nhé
Tôi sẽ trách - cố nhiên - nhưng rất nhẹ
Nếu trót đi, em hãy gắng quay về
Tình mất vui khi đã vẹn câu thề
Đời chỉ đẹp những khi còn dang dở
Thơ viết đừng xong, thuyền trôi chớ đỗ
Cho nghìn sau... lơ lửng... với nghìn xưa
(Ngập Ngừng - Quê Ngoại)
Nếu thời gian không làm phai nhạt kỷ niệm êm đềm thơ mộng của thi nhân thì không gian đâu có tạo cho nhân thế phải hận sầu vì chia ly xa cách! Chủ đích mọi chuyện xảy ra đều do cái tâm tạo thành. Tình yêu chân chính thừa khả năng vượt qua không - thời gian và lúc nào cũng thể hiện bản chất trong sáng mới mẻ đầy cảm xúc sáng tạo:
Ngày xưa xa rồi, lông ngỗng hết
Người xưa xa rồi, tình xưa không chết,
Ngàn năm trăng sáng đất Phong Châu,
Duyên cổ còn mơ vạn cổ sầu,
- Nàng là Hoa tươi đất Việt,
Chàng là Tinh túy Trời Ngô,
Tình trâm anh, dòng thế phiệt,
Chỉ hồng duyên thắm se tơ.
- Ngờ đâu, trước cảnh biển bao la
Gươm sắc chia lìa con với cha,
Trung nghĩa ai hay trung nghĩa...tận
Một thiên bạc mệnh úa trời hoa
Giếng vàng, ánh ngọc nghìn xưa,
Giở trang sách cũ, hương thừa còn bay,
Mà sao người đó ta đây,
Tình duyên phảng phất như ngày đã xa.
Người về, ta mới nhớ ra
Yêu là thế ấy, mơ là thế thôi
(Phong Châu - Quê Ngoại)
Ý tưởng nối kết của giòng luân lưu tâm thức từ nghìn xưa cho đến ngàn sau như một hóa thân tiền kiếp, hiện tượng chỉ có được nơi các bậc Chân Tu Đạt Lai Lạt Ma, chúng ta chỉ là những hạt bụi biến hóa vô thường, mắc xích nghiệp chướng luân hồi qua từng kiếp sống. Thời gian qua từng sát na đã là sự đổi thay trùng trùng duyên khởi. Cuối cùng rồi mọi người cũng phải chọn cho mình chuyến đi vào cõi hư vô tuyệt mù.
Nhà thơ tài danh Hồ Dzếnh đã nằm xuống vĩnh viễn ngày 13-8-1991, khi tuổi thọ vừa 75. Sau khi được tin ông ra đi, Hà Nội đã rầm rộ mang đầy hoa đến phúng điếu, đăng tin trên khắp nhật báo, tạp san văn học, cùng với những bài viết ca ngợi Hồ Dzếnh như một thiên tài của Đất Nước. Trong lúc ông còn sống, chỉ là một công nhân thợ đúc thép Gia Lâm tầm thường, nghèo khổ, ngày ngày đi về căn gác nhỏ, thầm lặng như một tội đồ, không một ai thương tiếc.
(Trích Tuyển Tập Giữa Trời Hoa Bay)
o-0-o
Nguồn: Tạp chí Da Màu - Số 27
Hồi ức về thi sĩ Hồ Dzếnh – Kỷ Niệm Còn Tươi
Thanh Nam - 31.05.2007
Một trong những tin nhận được từ Sài Gòn khiến tôi bâng khuâng cả tuần lễ, là tin những quán cóc bên đường của cái thành phố thân yêu đó đã bị chánh quyền mới dẹp bỏ. Nói ra điều đó chắc ít người tin, nhưng chính là sự thật. Hình ảnh sâu đậm nhất để trong tôi sau ngày 30 tháng 4 năm 1975 không phải là hình ảnh những tòa buynh đinh sang trọng, không phải là những con đường Lê Lợi, Nguyễn Huệ nườm nượp áo đỏ, áo xanh, mà chính là những cái quán bình dân mọc rải rác trên khắp đường phố Sài Gòn. Tôi cũng không hiểu tại sao người ta lại gọi đó là quán cóc. Có lẽ tại tính cách lưu động của nó chăng? Bởi đa số những quán cóc lề đường đều là những chiếc xe bán nước giải khát và bia phía trên che tạm một miếng tôn, một mảnh gỗ, hoặc khá hơn là một miếng vải bố mang hình thể một chiếc lều. Người dẫn tôi đến làm quen với quán cóc đầu tiên là anh Hồ Dzếnh, nhà thơ nổi tiếng tiền chiến với hai tác phẩm Chân trời cũ và Quê ngoại. Đó là vào đầu năm 1953, tôi mới từ Hà Nội vào Sài Gòn. Anh Hồ Dzếnh lúc đó đang viết cho báo Thần Chung của ông Nam Đình, vừa dịch tin vừa viết feuilleton cho báo đó dưới bút hiệu Lưu Thị Hạnh. Chân ướt chân ráo tới Sài Gòn, tôi tìm đến Hồ Dzếnh ngay, bởi tất cả nhà văn sống ở Sài Gòn hồi đó, tôi chỉ quen có mỗi mình Hồ Dzếnh, tôi đến tìm Hồ Dzếnh vào lúc trưa. Anh Dzếnh giới thiệu tôi với ông Nam Đình lúc đó đang bận rộn với mấy hàng tít lớn trên báo chí khẽ gật cái đầu chào lại tôi rồi lại cắm cúi xuống trang bài vở còn ướt mực trên bàn. Hồ Dzếnh kéo tôi ra khỏi tòa soạn:
- Cậu đã ăn gì chưa?
Tôi cười, thú thật là từ sáng đi lạc đường nên chưa có gì vào bụng hết. Tác giả Chân trời cũ gật đầu:
- Nếu vậy mình đi ăn luôn.
Và anh dẫn tôi vào một quán cóc bên lề đường lúc đó còn ở đường Nguyễn Văn Thịnh, góc đường nhỏ ăn thông sang đường Tự Do rồi về đường Nguyễn Huệ. Con đường Nguyễn Văn Thịnh này hồi đó đầy những quán cóc và tiệm cơm bình dân trên hè. Chai bia đầu tiên tôi uống ở Sài Gòn do Hồ Dzếnh mời ở trong một quán cóc vô danh nơi đó. Và cũng là lần đầu tiên gã Bắc Kỳ mới lạ, tôi ngơ ngác trước cụ Hồ Dzếnh, về cách kêu món ăn ở trong Nam. Hồ Dzếnh đã làm tôi ngạc nhiên với những danh từ “la ve” và “mì khô”. Ở Hà Nội chỉ có mì nước với mì xào chứ không có mì khô. Hồ Dzếnh bảo tôi:
- Cậu định sống ở cái đất Nam Kỳ này thì phải tập ăn những món miền Nam. Mì khô, hủ tíu, giá sống và hột vịt lộn.
Thú thật lúc Hồ Dzếnh đưa tôi vào quán cóc, tôi đã thất vọng và hơi buồn vì cách xử của nhà thơ này. Tôi yêu Hồ Dzếnh, yêu thơ Hồ Dzếnh, yêu những truyện ngắn của Hồ Dzếnh trong Chân trời cũ, nhưng quả tình lúc đó không còn thấy yêu Hồ Dzếnh chút nào khi anh đưa tôi vào một quán cóc bên lề đường, mời mình ăn một bữa trưa với một chai lave với một tô mì khô hai vắt. Vừa từ Bắc vào, “máu Hà Nội” hãy còn đầy người, tôi chưa thể chấp nhận cái lối tiếp bạn tại một nơi… tạp nhạp như vậy. Nhưng tôi cũng cạn hết chai lave và ăn hết tô mì khô do Hồ Dzếnh mời. Đợi tôi ăn hết tô mì, Hồ Dzếnh hỏi tôi:
- Cậu thấy thế nào?
- Anh nói cái món mì này hả?
Tôi hỏi lại Hồ Dzếnh. Anh gật đầu:
- Phải. Bắc Kỳ mình làm gì có thứ này? Cậu ăn có thấy lạ miệng không?
Tôi thành thật cho Hồ Dzếnh biết là cái thứ mì này thua xa mì Hà Nội. Đói thì ăn hết vậy thôi chứ không thấy ngon gì hết.
Hồ Dzếnh vẫn cười:
- Nếu vậy thì cậu nên ở chơi Sài Gòn vài bữa rồi về Hà Nội chứ đừng nên ở đây lâu.
Nghiêm mặt lại, anh tiếp:
- Sống ở trong Nam này cần phải dễ dãi một chút. Từ ăn đến mặc, cần ngon, cần tốt.
Sang vấn đề viết văn làm báo, anh khuyên tôi nếu muốn sống được với cái nghề viết ở trong Nam thì cần phải viết những tiểu thuyết có tình tiết hấp dẫn, văn phải cho sáng sủa, giản dị chứ không cầu kỳ, bóng bẩy, xa xôi v.v… Cả một bữa trưa hôm đó, Hồ Dzếnh giảng cho tôi những bí quyết viết cho ăn khách ở miền Nam qua kinh nghiệm của anh trên báo Thần Chung. Tôi nhìn bậc đàn anh của mình lúc đó nói về nghệ thuật viết feuilleton cho báo hàng ngày mà không thể nào nghĩ được rằng đó là một Hồ Dzếnh thi sĩ của những bài thơ: “Trên đường về nhớ đầy, chiều chậm đưa chân ngày” và “Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé, nếu trót đi em hãy gắng quay về, đời hết vui khi đã vẹn câu thề, tình chỉ đẹp khi còn dang dở…”
Tôi thất vọng, thất vọng hết sức và từ biệt Hồ Dzếnh ra về. Có lẽ mình phải trở về Bắc mất thôi. Trên đường về tôi đã tự nhủ như vậy khi nhớ lại buổi nói chuyện với Hồ Dzếnh trong quán cóc cạnh tòa soạn báo Thần Chung.
Nhưng rồi, tôi đã trở lại Sài Gòn, làm báo viết văn hăng hơn ai hết, trở thành một thứ ký giả miền Nam ngay cả trong lời hành văn và trong đời sống nghề nghiệp, khiến nhiều độc giả cũ đinh ninh tôi là người miền Nam viết văn. Trong khi đó, hiệp định Genève, Hồ Dzếnh lại trở về Bắc… lấy vợ. Nghe nói vợ anh là chủ một tiệm sách. Từ đó có nhiều dịp đọc báo chí miền Bắc nhưng tuyệt nhiên tôi không thấy một bài nào ký tên Hồ Dzếnh nữa. Hơn 20 năm, bao nhiêu biến đổi, giờ này nếu Hồ Dzếnh còn sống chắc cũng đã già yếu lắm, gần 60 tuổi rồi… không rõ anh có còn nhớ câu chuyện viết feuilleton làm sao cho ăn khách trong một quán cóc vô danh đường Nguyễn Văn Thịnh Sài Gòn?
Riêng tôi thì sau hơn hai chục năm lăn lóc trong làng báo miền Nam, những quán cóc lề đường của Sài Gòn đã trở thành một kỷ niệm không bao giờ có thể quên. Từ hồi còn làm thư ký tòa soạn cho tờ Thẩm Mỹ ở đường Phạm Ngũ Lão, bấy giờ còn gọi là đường Colonel Grimaud, cho đến những năm gần đây viết cho tờ Tia Sáng ở đường Phát Diệm, số thời gian la cà trong quán cóc của tôi có thể nói là ngang với thời gian ngồi trong các tòa soạn viết bài.
Sài Gòn đổi mới, Sài Gòn muốn làm đẹp nên Sài Gòn dẹp bỏ những quán cóc đó. Chuyện này đối với những người khác thì chẳng có ý nghĩa gì –nhiều người còn cho đó là điều hợp lý nữa– nhưng với tôi đó là một trong số những tin buồn từ quê nhà đưa sang. Bởi từ hình ảnh những quán cóc đó, tôi nhớ lại những con đường quen thuộc Sài Gòn mà tôi đã qua lại nhiều lần trong một ngày, những con đường mang tên Phạm Ngũ Lão, Võ Tánh, Lê Thánh Tôn, Phát Diệm. Nhớ đến những bảng hiệu Tiếng Vang, Nghệ Thuật, Tia Sáng, Trắng Đen, Kịch Ảnh, những buổi trưa cùng một số anh em từ các tuần báo đổ về họp mặt. Mỗi buổi trưa trở thành một buổi hội khó quên. Biết bao nhiêu bộ biên tập đã được khai sinh từ những buổi trưa họp mặt đó, bên cạnh những đĩa tôm khô, củ kiệu, những đĩa xì oát, những tô mì khô, những trái soài tượng chấm mắm ruốc, những trái ổi xanh bên những chén muối ớt đỏ tươi, những con khô mực nằm kề bên chén tương pha trộn hai màu đen đỏ, những dãy vỏ chai 33 sắp hàng theo chiều dọc chiều ngang của từng chiếc bàn gỗ ọp ẹp…
Bây giờ, sống trên đất Mỹ, xa lộ thênh thang, đường phố sạch bóng, nhiều lúc thấy thương, thấy nhớ vô cùng những con hẻm tối tăm và nhất là những buổi chiều từ sở ra về, thấy thèm hết sức cái không khí quán cóc những buổi trưa nào ở Sài Gòn thuở xưa. Tôi nghĩ đến số bạn bè cũ hiện ở Sài Gòn, những gương mặt thân thuộc suốt 20 năm nghề nghiệp không hiểu bây giờ ra sao? Cơn bão lớn của thời thế vừa qua đã thổi những số phận đó đi đâu, về đâu? Và có lúc nào tình cờ đặt chân lên một thành phố cũ, nhìn lại dấu tích của một quán cóc ngày xưa, họ có còn đủ bâng khuâng nhớ lại một đôi chút kỷ niệm còn tươi như một vết thương chưa lành?
Ramsey, 18 tháng 3 năm 1979
o-0-o
Hồ Dzếnh, Người Bạn Thiết Của Những Kẻ Lang Thang
(03/13/2010 - 7:49 AM)
dutule
Hình như tôi đã yêu Hồ Dzếnh ở những năm đầu tuổi thơ. Một tuổi thơ trong loạn lạc, hoang tàn của quê hương tôi. Những cây gạo đỏ gẫy gục bên một bờ sông Đáy. Từ những bước chân lên mười tản cư qua Đồng Lạc, Rừng Mơ, Thanh Hóa... Cuối cùng, quay lại, ngập ngừng nơi những bậc tam cấp của Chùa Bà Đanh, trước khi quyết định về làng - Chiều, của Hồ Dzếnh đã là những tiếng rã rời, hay những bàn tay ve vuốt đầu tiên trong tâm hồn tôi, hoảng hốt. Chiều, đã được cất lên giữa cái hoang tàn, đổ nát đó, bởi nhiều giọng khác nhau. Bởi nhiều tâm sự, với những tình ý gửi theo, cũng khác nhau. Nhưng trong tâm hồn non nớt của tôi, qua cái lọc là tấm màn vải thưa, hay dải cát non của một bãi bờ tinh khôi, mặt trời mới lú, tiếng thơ Hồ Dzếnh đã luồn lọt qua đó, đã nhỏ từng giọt mơ hồ xuống đó. Và đã ở lại. Ở lại mãi. Cho tới những ngày Hà Nội không còn.
Cho tới những ngày tôi bắt đầu đời mình trên căn gác của khu úng thủy Nguyễn văn Thoại, Saigòn...
Phải nói rằng chính ở những ngày tháng giang hồ niên thiếu kia, tôi mới cảm thấy một cách rõ ràng rằng, Hồ Dzếnh là người bạn thiết của những kẻ lang thang. Chiều, đã như một thứ “Trở về mái nhà xưa” của H. Curtisse.
Rõ ràng, Hồ Dzếnh đã đi vào đời tôi bằng khung cửa buổi chiều. Một khung cửa u ám của những chiều mây xuống thấp, mà đâu đó, không có lấy một sợi khói.
Hồ Dzếnh đã ở lại với tôi trong những buổi chiều lóc cóc trên chiếc xe đạp, đi kiếm ăn và trở về muộn. Trở về lúc những ngôi nhà đã lên đèn. Lúc những hàng cây đã thu mình, đợi chờ, bóng tối.
Bóng tối như những ngày mai sẽ trở lại.
Thế đó. Hồ Dzếnh ở trong tôi không như một Huy Cận cao ngất khinh mạn. Không như một Nguyễn Bính ngọt ngào mật đồng nội.
Hồ Dzếnh đến và ở lại trong tôi, như một chiếc bóng. Âm thầm. Mụôn phiền và, tơi tả. Ông đã như một người bạn. Một người bạn ít nói. Một người bạn trầm ngâm (luôn luôn trầm ngâm,) như muốn dành hết thời gian có đựơc, để nghiền ngẫm, để quay về, (trong hư tưởng,) một nơi chốn không thực.
Ôi, mới quyến rũ sao, những nơi chốn không thực.
Tôi biết và yêu Hồ Dzếnh, chỉ với chừng đó! Mây câu thơ năm chữ. Một hiểu biết quá sức ít ỏi. Nhưng lại là một bắt đầu, cho một thứ tình yêu, chẳng thể thuỷ chung hơn.
Phải nói, mãi tới những năm sắp ba mươi, tôi mới chính thức bước vào thế giới Hồ Dzếnh qua “Quê Ngoại.” Qua “Hoa Xuân Đất Việt.” Và nhớ được, nhặt được đâu đó, trong hai tập thơ này, những câu:
“Xứ run rét lạnh, cõi đầy hồng hoang.”
Hoặc:
“Có tơ giăng mối hai hàng
“Có muôn quán gió luồn trong một người.”
Cũng từ đấy, tôi mới rõ thêm chân dung người bạn thiết của những kẻ lang thang. Hồ Dzếnh. Rằng, thơ ông chính là những dòng thao thiết về nơi chốn. Thơ Hồ Dzếnh là thơ về nơi chốn. Điều này, tôi nghĩ, cũng dễ hiểu. Bởi nếu truy nguyên nguồn gốc Hồ Dzếnh, người bạn thiết của những kẻ lang thang, thì ông chính là kẻ không có quê hương.
Sách vở đã ghi chép, Hồ Dzếnh là người Minh Hương. Một người mang trong mình hai dòng máu Tàu và Việt. Cái quê ngoại tuy có nồng nàn trong tâm hồn Hồ Dzếnh, cái quê ngoại kia vẫn chẳng thể bù đắp được phần mờ mịt của quê nội. Một gốc rễ. Một cội nguồn. Ngay chúng ta, với quê hương đó, nguồn gốc đó, cội rễ đó, nhưng đã mấy ai, không từng đôi lần nghĩ rằng, đời ta không phải thế. Đời tôi không phải thế!
“Ngựa gầy bóng gió mênh mang
“Cờ đen lối cũ, cây vàng nẻo xa...”
......
“Mộng tàn, nước chảy, hoa trôi
“Tôi lui hồn lại nhưng đời đã xa.”
Từ cảm thức không cội nguồn, hay từ mặc cảm bị bỏ rơi, bị lãng quên kia, đã đẩy đưa Hồ Dzếnh tới một mặc cảm khác. Đó là mặc cảm phạm tội hay xấu hổ, mỗi khi ông muốn bày tỏ về nơi chốn mơ ước. Có lẽ vì thế mà, những bày tỏ tình cảm trong thơ của ông, về một nơi chốn, đã là những bày tỏ thoáng nhẹ. Những bày tỏ nửa chừng.
“Khi vàng đứng bóng im trưa
“Tiếng khô lá rụng làm thưa phố phường.
......
“Chiều buồn như mối sầu chung
“Lòng im nghe thoảng tơ trùng chốn xa
“Đâu hình tàu chậm quên ga
“Bâng khuâng, gió nhớ về qua lá dày.
......
“Rạc rời vó ngựa quá quan
“Cờ treo ý cũ, mây giàn mộng xưa.
......
“Tôi vui lòng sống trong im...”
Cũng từ những năm chớm ba mươi, những năm bước vào thế giới Hồ Dzếnh, người bạn thiết của những kẻ lang thang, tôi thấy thêm một điều, mà tôi nghĩ, những người hằng quan tâm tới biến chuyển của thi ca Việt Nam hiện đại, nên chú ý: Đó là sự đổi mới trong thể thơ lục bát của ta. Tôi cho, nó bắt nguồn từ Hồ Dzếnh qua những câu thơ lục bát ở trên. Ông chính là người khai mở dòng lục bát mới của chúng ta, những năm trước 1954...
Nhận xét tôi vừa nêu, có thể khởi đi từ lòng quá yêu người bạn ít nói, một người bạn luôn (khao khát,) quay về một nơi chốn chỉ có trong hư tưởng. Nhưng sẽ là một nhầm lẫn và bất công, nếu khi xét tới sự biến chuyển của thể lục bát hôm nay, mà, quên Hồ Dzếnh. Chúng ta không thể quên ông với những câu thơ mà những người làm thơ lục bát hôm nay, chưa chắc có được.
Cụ thể, chi tiết hơn, thì sự làm mới thể lục bát của chúng ta hôm nay, trên căn bản sử dụng táo bạo những hình dung từ, trạng tự, và, những bổ túc từ...Tất cả những nỗ lực này, đã đựơc Hồ Dzếnh sử dụng (cách đây mấy chục năm,) với ý thức, và đã đạt mức tuyệt hảo.
Khi ngồi vào bàn viết, tôi mới thấy mình có quá nhiều điều để viết về người bạn thiết của những kẻ lang thang. Nhưng số trang đã hẹn trước với anh Thư ký Toà soạn, không cho phép tôi viết hơn.
Để chấm dứt bài viết ngắn này, tôi xin được cảm ơn “Quê Ngoại,” cảm ơn “Hoa Xuân Đất Việt,” đã cho tôi thấy phần nào chân dung người bạn những ngày thơ ấu cũ, và, những ngày giữa bè bạn tôi, những năm ba mươi, bắt đầu. (Net)
Du Tử Lê
o-o - 0 - o
Hồ Dzếnh Văn Xuôi Và Chân Trời Buốt Nhớ
(Thethaovanhoa.vn) - Công chúng vẫn nhớ ông qua hai bài thơ đã đi vào ca khúc là Chiều và Ngập ngừng, nhưng Hồ Dzếnh không chỉ có thế. Giở lại Tuyển tập thơ văn Hồ Dzếnh tuyển chọn được NXB Hội Nhà văn in từ cuối năm 2012, tôi lại thấy cần phải viết về ông.
Cơ duyên với Thạch Lam
Các thế hệ công chúng vẫn nhớ ông qua hai bài thơ thành ca từ ca khúc: Chiều (viết năm 1940, được Dương Thiệu Tước phổ nhạc tại Sài Gòn sau hơn 30 năm), Ngập ngừng với câu đầu Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé! Tôi thích tên ban đầu của Chiều là Màu cây trong khói, in báo Người Mới.
Trước đó, Hồ Dzếnh đã in tập truyện hồi ký Người chị dâu tôi (tập san Mùa gặt mới, NXB Tân Việt) được Thạch Lam để ý và nhắn Như Phong bảo Hồ Dzếnh đến báo Thời Nay nhận thư khen - cơ duyên cho Hồ Dzếnh thăm bậc đàn anh, tại ngôi nhà đơn sơ ven đê Yên Phụ. Số lần gặp ít ỏi, tổng thời gian chỉ vài tiếng, Thạch Lam - bậc thầy tùy bút đã truyền cho Hồ Dzếnh tinh thần của người sáng tạo chân chính.
Chính Thạch Lam, vào tháng ngày cuối đời, bệnh phổi không thuốc chữa trị, gầy rộc và ốm yếu, đã đọc, góp ý cho tập truyện Chân trời cũ. Bài tựa cho tập truyện này là nét bút cuối cùng của Thạch Lam - nghệ sĩ say mê ngôn ngữ (chữ của Hồ Dzếnh) với cõi đời. Khi người em đến nhà đàn anh lần thứ 6, mang theo tập truyện vừa in, thì “tôi chỉ còn thấy quang cảnh đắng ngắt, một chiếc giường nhỏ trống trơn, chị Thạch Lam lặng lẽ bước ra, đầu vấn khăn tang, nghẹn ngào cho tôi hay, anh đã mất được hơn một tháng”.
Thạch Lam, Hồ Dzếnh - hai con người, sinh trưởng, vùng kí ức và miền sáng tạo khác nhau, đều hết lòng vì văn chương, tác phẩm của họ sau bao năm vẫn lay động người đọc. Tình cảm, nỗi xa xót luyến thương, sự mẫn cảm và nhân ái trước bao số phận lam lũ, nhỏ nhoi thể hiện bằng rung động chữ mãnh liệt và tinh tế.
Hồ Dzếnh cùng con trai, con dâu và cháu nội
Thơ không ấn tượng bằng văn xuôi
Không phải với cây bút nào, văn cũng là người, còn Hồ Dzếnh văn - đời - nghiệp - mệnh. Thơ Hồ Dzếnh trong tập Quê ngoại, Hoa xuân đất Việt (1946) không ấn tượng mạnh bằng văn xuôi.
Trong các tác phẩm của ông, giọng tự sự trong sáng là chủ đạo, dù “đổi vai”, dù giấu mình qua việc tả người khác. Văn liệu của ông lấy từ cuộc đời mình, được thể hiện đầy tài hoa, kỹ lưỡng. Ông viết về đớn đau, mất mát như cách chăm chút lại mình khi đã qua bão tố. Trận này rồi trận khác, rút của ông sinh lực, nước mắt, mà Hồ Dzếnh không một lần than trách, bẳn gắt, cay nghiệt.
Người đàn ông Trung Hoa Hà Kiến Huân từ Quảng Đông sang đất Việt làm ăn, lúc đầu bán thuốc dạo, gặp và lấy cô lái đò Đặng Thị Văn, ở bến Ghép, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa chăm chỉ làm ăn, mở được xưởng gỗ ở đường Hạc Thành, châu Như Xuân.
Hai người có 3 con trai, Hà Triệu Anh sinh năm 1916, là con út. Năm 15 tuổi, Hà Triệu Anh rời làng Đông Bích, xã Hòa Trường (nay là Quảng Trường) lên Hà Nội học tiếp bậc Thành chung, dạy tư, làm công cho các hiệu buôn Hoa kiều. Từ 1937, thơ, truyện ngắn của ông in trên các báo: Tiểu thuyết thứ Bảy, Trung Bắc Chủ nhật. Những sáng tác trước 1945 là mảng chính lưu tên Hồ Dzếnh trong lòng bạn đọc. Hồ Dzếnh là phát âm tiếng Quảng Đông từ “Hà Anh”.
Mỗi dòng về mẹ cha, anh trai, chị dâu, chú Nhì, đứa cháu, e Dìn đều đập mạch thiên lương hiền hậu, đặc biệt quan tâm đến thân phận phụ nữ nông thôn. Trái tim đa cảm, nhân hậu của ông dành cho chị Yên: “ Thân hình gầy nhẳng trái hẳn lại với sức khỏe dai dẳng của chị, bổ hết 5 tạ củi một ngày”. Chị được mẹ tác giả mua giá 2 quan vào năm lụt lội đói ăn, nhận làm con nuôi. Phận áo ngắn yêu nhau, người xin lấy chị Yên là anh đỏ Phụ. Truyện ngắn Anh đỏ Phụ (10/1941) là mối đồng cảm với tha nhân. Không ít người viết truyện thật lại thấy giả, truyện ngắn của Hồ Dzếnh luôn cho tôi cảm giác là truyện thật mà ông tham dự, chứng kiến trong đời. Nó được viết kỹ, dồn cảm xúc, với phong cách với văn phong tài hoa Anh đỏ Phụ là phận dân đen con của ông Biếm, thầy giáo làng, đã cùng cha sang ăn hỏi chị Yên, ba năm mãn tang cha nuôi sẽ cưới, ngờ đâu, hơn hai năm thì chị bị hại, do chính “cậu tôi cướp đoạt đời con gái”, chị Yên phải bỏ làng ra đi. Anh đỏ Phụ đi làm thuê rồi xung làm phu đất đỏ cao su ở Tân Thế Giới, chia tay “tôi” ở ga xe lửa thị xã, vì đau khổ mà đưa đời dân đen vào kiếp phu phen bỏ xác xứ người. “Đêm đó, tôi mong cho con tàu đừng đến, mong anh Phụ đổi ý trở về, nhưng chỉ là mơ ước hờ hão. Anh đỏ Phụ đã lăn tay điểm chỉ rồi. Anh đã giúi vào tay chị gái tờ giấy bạc con còng 5 đồng, nửa số tiền bán đời mình để gửi về phụng dưỡng bố. Tôi ôm ghì lấy anh, khóc nức nở. Một bàn tay chắc nịch kéo ra, ấn anh Phụ và toán phu vào trong toa sắt đen ngòm, cái toa thường ngày vẫn dùng chở súc vật, khóa lại”.
Truyện Hồ Dzếnh làm người đọc cay mắt, thậm chí khóc ròng, bởi ông viết bằng ngòi bút hòa máu và nước mắt, bởi không phải hư cấu mà chính từ bi kịch đời ông, mất nửa đời lo miếng ăn, long đong khốn đốn.
Tận cùng cay đắng
Ngoài tập truyện ngắn Chân trời cũ, Hồ Dzếnh còn có tiểu thuyết: Cô gái Bình Xuyên; Một chuyện tình 15 năm trước, kịch thơ Đêm lịch sử (một hồi một cảnh), truyện dài Cuốn sách không tên (bắt đầu viết 1978, NXB Văn học 1993), thơ - dịch Nazim Hikmet, các bài ký chân dung...
Kháng chiến, ông về lại xứ Thanh, năm 1947 lấy bà Nguyễn Thị Huyền Nhân. Năm 1950, khi con trai mới bốn tháng tuổi, buổi sáng Tết Đoan Ngọ (5/5 AL), bà Huyền Nhân khi đó 20 tuổi, chỉ vì ăn bát chè đỗ đen phơi sương qua đêm và miếng dưa hấu buổi sáng, chiều phát bệnh tả không có thuốc, qua đời.
Vợ chết, con khát sữa khóc ngằn ngặt, Hồ Dzếnh gầy lả nuốt nước mắt đi tìm mua quan tài, về chỉ kịp vùi vợ xuống nghĩa trang cùng hai phu khiêng, không bia mộ. Ông đưa con đi “bú thép” (bú nhờ) khắp khu Tư, cảnh mà Vũ Bằng đã thấy và ghi lại. Ông chạy xuống cầu Bố về Hà Nội thì không còn thân thích, lại cõng con vào Sài Gòn, ở đó có anh ruột Hồ Triệu Bích, mở tiệm xe đạp ở đường Hiền Vương (nay là Võ Thị Sáu).
Năm 1954, ông về Hà Nội lấy bà Nguyễn Thị Hồng Nhật (cùng tuổi, góa chồng, có một con trai riêng) và sống ở tầng trệt nhà 26B phố Huế, sau bị đẩy lên gác. Năm 1978, gia đình ông chuyển sang nhà 80 Hòa Mã - nơi ông mất năm 1991, do xuất huyết dạ dày, viêm thận. Bà từng có thai nhưng bị chết lưu, phải cắt dạ con, nên họ không có con chung. Người con duy nhất của ông là Hà Chính và ông Hà Chính cũng chỉ có một con duy nhất Hà Quang (SN 1984), học đại học xong, đã đi làm định cư Hanover, Đức. Cháu đích tôn của thi sĩ vẫn tiếp phận tha hương, dù sướng hơn ông nội nhiều lần.
Hà thành, chốn làm sáng tên ông, những sáng tác thời sung sức. Hà thành không quên ông, 1 trong 165 người sáng lập Hội Nhà văn VN tháng 4/1957, nơi bàn tay cầm bút từng phải làm thợ đúc thép, thợ cơ khí nhà máy xe lửa Gia Lâm, ăn lương công nhật hơn 10 năm rồi nghỉ, không có bảo hiểm, lương hưu. Nổi nênh, thua thiệt và cay cực chỉ vì định kiến vô lý về chuyện ông vào Nam tìm anh trai nương tựa, khiến Hồ Dzếnh chịu trớ trêu oan uổng, bị “bỏ quên” suốt thời gian dài, ông vẫn nén chịu như đã quen thế, để yêu thương, để khiêm nhường và hy vọng. Nhiều tác phẩm của ông in trong tuyển tập không ghi rõ năm sáng tác, hơi khó khi định giá từng chặng viết. Song hình như điều ấy không quan trọng nữa, tác phẩm của ông đạt độ “phi thời gian” rồi.
Tôi đã khóc rất lâu khi trong đêm đọc Cuốn sách không tên. Ông hóa thân vào con trai, viết lại sự tủi nhục khi con mất mẹ; người chồng kiệt sức, kiệt tiền, gặp mụ bán quan tài nanh ác, chỉ chờ thời cơ “chặt chém” không thương tiếc. Ông đành dùng mẹo lừa lấy được cái quan tài về chôn vợ ban đêm, vợ đã chết từ chiều, nằm giúi vào bụi cây vì nhà thương thiếu phòng để xác:
“Mẹ tôi nằm ở đó, lãnh đạm trước cuộc oanh tạc, giống một cây củi khô. Chiếc quần đen m
Gửi: Sun Nov 30, 2014 8:39 pm Tiêu đề: Truyện Ngắn Hồ Dzếnh
SÁNG TRĂNG SUÔNG Tác Giả : Hồ Dzếnh
Tặng 12 tháng chạp, năm 1943
Chị đỏ Đương có một cuộc đời không đỏ chút nào. Tóc chị rối ren như tâm hồn chị bận rộn, bập bùng và sầu thảm như ánh đèn dầu lạc soi không đủ sáng một góc nhỏ trong căn nhà tranh.
Chị đỏ Đương lạc chồng từ năm mười tám tuổi. Chồng chị, một buổi sáng kia, ngừng lưỡi cày đang thao thao rẽ những luống cổ điển trên mảnh đất nghìn đời, để nghe ngóng một tiếng gọi từ nơi nào vẳng lại:
- Sà goòng! Sà goòng!
Ấy thế là người dân đinh của xã Hòa Trường kia, giữa lúc máu trai chạy cuồng loạn trong người, đã ném cày, bỏ vợ, vất bà con, bước lên tàu sang... sang Tân thế giới.
Và chị đỏ Đương đỏ mắt đợi chồng.
Nhưng anh đỏ Đương không bao giờ còn trở lại. Chị đỏ Đương khóc đến đau mắt, và ba mùa thu qua, ba mùa thu của một tấm lòng nghi ngờ, thắc mắc, ba mùa thu đã trải lên đời chị đỏ Đương, như đã trải lên xã Hòa Trường, sự nguôi quên, lặng lẽ.
Chân trời xanh.
Mặt hồ lặng.
Người thiếu phụ Việt Nam đã thấy chết trong lòng niềm đợi chờ đau xót, bây giờ trở lại với cuộc sống bình thường, nhỏ mọn, nối sáng theo chiều, qua mùa hạ sang mùa thu.
Chung quanh chị đỏ Đương không ai nhắc đến anh đỏ Đương nữa. Mà có nhắc đến thì nghĩa gì mấy cái tiếng khô khan này:
- À, ở mãi bên kia Tân... khí giới!
Xa. Xa. Và xa. Lòng chị đỏ Đương tưởng tượng làm sao ra cái mầu xanh mênh mông của biển cả, để với qua đó bóng một người đã mang đi nửa cuộc đời của chị.
Chị đỏ Đương cần phải lấy chồng. Người làng ai cũng thấy vậy. Và chị đỏ Đương rất thẹn mỗi lần người ta khuyên chị bước đi bước nữa trong đời. Là vì chị đỏ Đương còn đẹp, có phần đẹp hơn trước đây, tuy không bao giờ chị dám chắc rằng mình đẹp hết. Đôi lúc, chị đỏ Đương soi trộm bóng mình lên mặt giếng, ngắm vội vàng, rồi thẹn thùng đưa mắt nhìn xung quanh, như sợ có ai vừa chợt thấy.
Mùa xuân năm đó...
° ° °
Cuộc đời thơ ấu của tôi đang diễn ra trong tiếng chim ca, trên bờ sông làng Chung Thượng giáp ngay nách làng chị đỏ Đương. Con đường đưa tôi đến nhà trường, hơn nữa, lại chạy qua trước nhà chị, một căn nhà nhỏ núp trong bóng dừa xanh, khiến tiếng nói của chúng tôi thêm thân nhau, cuộc đời chúng tôi thêm gần gũi. Đôi mắt người thiếu phụ ấy đã nhiều lần nhìn tôi qua hàng rào, và cái nụ cười chị từng nở trong bóng mát của một tấm lòng giàu thương yêu cũng như nhiều cực nhục, khiến tôi sung sướng nghĩ đến một ngày rất gần đây, tôi sẽ có chị đỏ Đương trong số những người thân thích.
Tôi chỉ biết rằng chị đỏ Đương đẹp, đẹp kín đáo, và tôi lựa ngay được một người để gán cho chị. Người đó là anh Hai tôi.
Rồi tôi mang theo trong lòng từ đấy, trên dải đường đã bình yên thu ngắn cuộc đời học sinh của tôi lại, cả một giấc mộng to tát, giấc mộng phác vẽ, xây đắp hạnh phúc không cho mình, mà là cho một người, cho hai người thân thích.
Tôi nhìn nhận chị đỏ Đương bằng một vẻ niềm nở riêng, và chị đỏ Đương đãi lại tôi theo hàng thân thích.
Hàng rào râm bụt che khuất căn nhà chị đỏ Đương vẫn mùa mùa nở hoa, ngày ngày tươi thắm. Bên kia hàng rào, qua những kẽ lá loáng thoáng, về những buổi sáng mùa đông, tôi vẫn thấy hơi nóng bốc lên từ cái miệng thắm nước trầu không, theo câu hỏi:
- Em đi học sớm thế? Có rét lắm không?
- Chả rét chị ạ. Em có áo bông rồi.
Một lần, mừng được tin anh tôi sắp về ăn Tết, tôi chạy đến bảo chị đỏ Đương:
- Chị đỏ ạ, anh em sắp về Tết đấy. Mời chị xuống nhà em mà xem.
- Thế à?
Tôi tiếp theo, quên rằng những câu nói tự nhiên của mình đang làm cho một cô gái quê e thẹn:
- Thật đấy, ai nói dối chị. Anh em ở Hà Nội về ấy mà. Tết chị đến chơi với anh em nhé.
Nói xong, tôi sung sướng cười, trong khi chị đỏ Đương đưa tay vin cành cây, ngó xuống đất, ngón chân cái di đi di lại hòn đất trong vườn...
- Hà Nội chắc là vui lắm đấy, em nhỉ?
Tôi đáp như khi đứng trước các bạn cùng tuổi:
- Mà nào em có biết Hà Nội là cái... cóc gì. Nhưng chắc là vui vì nghe anh em bảo thế.
Không đợi cho tôi sắp nói nữa, chị đỏ Đương bước vào nhà, sau khi bảo tôi:
- Thôi, em đi học không lại muộn.
Trời thôn quê xanh ra, cao lên, soạn sửa đón ba ngày của một mùa thái bình, thịnh vượng. Gió trong ruộng đã thoáng lẫn hương xuân, và trong khi tắm biếc thêm lũy tre mườn mượt nhung, đã làm rớm chảy sự tươi thơm trong những tấm lòng trai trẻ. Trăm nghìn lần dò hỏi nỗi thanh tịnh của dòng sông, điệu hiền hòa của chim gió, tôi cảm nghĩ đến những tiếng pháo sắp sửa cười vang để rồi, bất thần, ngừng bước chân, tôi đưa tay viết lên không gian cái chữ con con, xinh xinh, mà tâm hồn tôi đã nhiều lần nhắc đến: Tết!
Chỉ còn ba ngày nữa là hết năm.
Tôi mong đợi kỳ hạn về của anh tôi bằng cách ngẩn người đếm từng tiếng trống trễ nải, những tiếng trống chậm chạp lắm mới đập được vào tai tôi, trong khi, từ đằng xa, tôi ngạc nhiên thấy người khán già đã nhấc hẳn lên cái dùi gỗ...
Chị đỏ Đương không có vẻ đợi Tết. Chị không biết trông chờ, mong ước, thì nghe làm sao được sự vần vụ mầu sắc của không gian, thấy làm sao được nỗi rộn ràng của thời tiết. Chị đỏ Đương gói bánh, giã giò, và nhờ những công việc này, chị biết rằng sắp Tết.
Hôm chạy một mạch từ nhà lên báo với chị tin anh tôi về, tôi vẫn thấy chị đỏ Đương ngồi yên lặng nấu bánh.
- Chị đỏ ạ, anh em đã về đấy. Chị xuống nhà em ngay đi!
Nói xong, tôi đặt vào bàn tay chị hai chiếc bánh trứng gà, nói là quà của... anh tôi biếu chị. Lần đầu tiên, tôi thấy người thiếu phụ ấy buồn bã rõ rệt, lần đầu tiên đang vui, tôi bỗng thấy lòng mình rạo rực, thắc mắc vì tôi trót lỡ lời.
Chị đỏ Đương không nói, không nhìn tôi, đôi mắt hướng cả về phía lửa cháy như người tính toán một điều gì. Sợ chị không bằng lòng, tôi hỏi gặng:
- Không, chị không giận, nhưng chị không muốn lên.
- Chị chê nhà em chật à?
- Không phải, nhưng chị không muốn lên.
- Thế thì em bảo anh em... đến với chị vậy!
Chị đỏ Đương sặc lên cười. Tiếng cười dữ dội quá, lạnh lẽo quá, vì nó đột nhiên, vì chưa bao giờ chị đỏ Đương cười như thế hết.
Ra đến ngõ, tôi còn quay với lại:
- Chị Đương đừng giận em nhé!
Có tiếng đáp lửng lơ:
- Không!
° ° °
Tôi ngồi lọt vào giữa đám đông người nhà quây quần trên chiếc phản ngựa đặt hỏa lò, vì hôm đó là sáng mùng một Tết. Anh tôi hỏi tôi:
- Lâu nay bé học có khá không?
Tôi đáp:
- Em học cũng được anh ạ. Nhưng em có chuyện này muốn nói với anh...
Mẹ tôi mỉm cười, nói xen vào:
- Nó muốn nói đến con đỏ Đương ở làng bên đấy. Con ấy nó đã có chồng rồi, nhưng thằng va đi Tân... khí giới đã mấy năm nay không thấy về.
Sợ có sự dèm pha không tốt cho người tôi yêu mến, tôi nói trước:
- Chị ấy tốt đáo để. Anh cứ lấy đi, đến lúc chồng chị ấy về thì đã... xong rồi!
Anh Hai tôi ngồi yên lặng. Mãi sau anh mới chậm rãi:
- Cứ kể ra lấy vợ nhà quê cũng tốt. Đỡ được mẹ. Nhẹ cả cho mình.
Ngay chiều hôm ấy, lấy chỗ tình quen biết, tôi đến mừng tuổi chị đỏ Đương và nhân tiện để anh tôi xem mặt chị. Thấy chúng tôi đến, chị đỏ Đương luống cuống cầm gậy ra đánh chó, rồi quên cả chào hỏi khách, chị cứ nắm lấy tay tôi mà yên lặng.
Cảnh nhà chị đỏ Đương thanh bạch quá, Tết đến càng làm thanh bạch thêm. Mấy que hương đen ngậm ngùi cháy trên bàn thờ vắng vẻ, vài bông hoa giấy trơ trẽn thò ra ngoài chiếc bình sứ, không đủ điểm sáng sự u tịch đã có từ nhiều đời.
Chị đỏ Đương sống bên một người chị gái lỡ thời, tàn tật, thiếu hạnh phúc sum vầy, nhưng lại giàu lòng nhân đức. Hai tâm hồn ấy, một đã bị sa thải khỏi cảnh hoa nắng của đời, và một còn mang nặng cái dĩ vãng tình duyên không đẹp, đã ghé lại bên nhau, như bóng chiều nghiêng xuống túp lều rách, và cùng cảm hiểu nhau trong thứ tiếng nói thầm kín của đau thương.
Chị đỏ Đương có thật để lòng rung động trong buổi sơ ngộ với anh tôi hay không, tôi không dám chắc. Nhưng bảo rằng người con gái ấy đã để thoáng lẫn ý nghĩ muốn lập một gia đình thứ hai, tôi đã có một nhận xét không quá sai lệch. Điều khiến chị đỏ Đương dùng dằng trước ngưỡng cửa cuộc sống mới, do chính là cái hình bóng chỉ còn là hình bóng thường run run ở một nơi mà chị mơ hồ đoán là xa lắm, có thế thôi.
Anh Hai tôi thì đã nếm mùi ăn chơi ở Hà Nội. Anh đã biết qua thế nào là chán nản, cái cảm giác tẻ ngắt, vô vị, rớt lại sau những buổi tiệc đời, sau những cái xoay lưng hung tàn của mấy người con gái. Rồi giữa lúc lòng anh rộn cảm sự hoang vắng, u tịch, anh tự nhiên nghĩ đến gia đình, cứu cánh của những tâm hồn bị ruồng bỏ.
Lần ấy, anh tôi nói trước:
- Năm mới, nhân dịp được về chơi, tôi đến mừng tuổi cô.
Chi đỏ Đương cúi mặt xuống, giọng nói run run:
- Cảm ơn anh...
Chị đỏ Đương chỉ nói được có thế, rồi bỏ tôi đi têm trầu, pha nước. Tôi đứng lấp ló sau thân cây cột, mỉm cười với anh tôi, đôi mắt nhìn anh dò hỏi...
Ra về, thấy tôi xoắn xuýt đến chuyện cưới chị đỏ Đương, anh tôi gắt nhưng với vẻ hiền hậu:
- Trẻ con... thì biết gì!
Cách đấy ít lâu, theo lời yêu cầu của anh tôi, mẹ tôi sang bên nhà chị đỏ Đương dạm ngõ. Lễ ăn hỏi thật là đơn giản với những người thoạt sinh ra đã sống một cách đơn giản. Chị đỏ Đương trốn biệt vào trong buồng, nghe qua kẽ vách, và nhìn trộm cũng qua đó.
Tiếng người anh chị đỏ Đương hỏi:
- Bây giờ thì cô định thế nào? Có bà bên làng sang bỏ trầu đấy.
Mấy phút yên lặng trong buồng, rồi có tiếng đáp vọng ra, tiếng đáp của người chị ruột chị đỏ Đương:
- Cô ấy... bằng lòng rồi!
Tiếng "rồi" bị ngạt trong cái bàn tay chụm lại.
Trên đường về nhà, anh tôi giơ cho xem một cái bã trầu không và nói:
- Đương nó ở trong buồng, nó ném ra cho anh.
- Thế là anh chị xong xuôi với nhau rồi đấy!
Thực ra thì công việc chưa xong xuôi được. Anh tôi phải trở ra Hà Nội làm, và việc cưới xin phải gác lại đến sang năm.
Hôm anh Hai tôi lên tỉnh, nơi sẽ đáp tàu ra kinh đô xứ Bắc, chị đỏ Đương cũng trẩy chợ, sắm hàng. Cùng đi một đường, trong cùng một ngày, hai người bạn ấy đã trao đổi rất nhiều tâm sự với nhau, giữa những bông cỏ may phân phất theo một chiều gió đìu hiu... Tôi dừng lại ở đầu làng, trông theo họ, hai cái bóng mà tôi ước ao gần nhau mãi, mất dần đi trong lớp nắng mờ...
Rồi tôi mang theo trong lòng, từ đấy, trên dải đường đã bình yên thu ngắn cuộc đời học sinh của tôi lại, cả một giấc mộng to tát, giấc mộng cao quý, phác vẽ, xây đắp hạnh phúc không cho mình, mà cho một người, cho hai người yêu dấu.
Trong cảnh yên lặng của những ngày thôn dã, mất đi đều đều, không tăm không tiếng, đôi lúc người phu trạm gầy khổ đến gõ cái gậy tre trên cổng nứa, trao cho tôi những phong thư từ Hà Nội chuyển về. Những bức thư ấy, tôi đều đem đọc cho chị đỏ Đương nghe, và chị đỏ Đương đều xin tôi đem về giữ lấy.
Tôi còn nhớ mãi một đoạn này:
Hôm anh ra Hà Nội, không nỡ xa Đương, vì tàu chạy rồi, anh còn thấy Đương lau nước mắt. Em nên vì anh đối với Đương tử tế, vì dầu sao, Đương cũng đã là con mẹ, là chị em.
Phải, chị đỏ Đương đã là chị tôi. Và tất cả những người như chị đỏ Đương đều là chị tôi hết.
Cứ gì phải chung sống dưới một mái nhà, chia uống một ngụm nước, cùng ngắm một dòng sông, người ta mới yêu được nhau? Tình yêu, nếu thực là tình yêu, thì không có quê hương, cố quận, bởi nó tỏa ra từ một tấm lòng nghệ sĩ mênh mông, tự nó đã sẵn có sức hun nấu, và thâu suốt qua, và bao trùm lấy tất cả những gì đáng được sự thờ kính thiêng liêng.
Tôi yêu chị đỏ Đương của tôi và nhiều chị đỏ Đương khác, vì tôi yêu vô cùng cái dải đất cần lao này, cái dải đất thoát được ra ngoài sự lọc lừa, phản trắc, cái dải đất chỉ bị bạc đãi mà không bạc đãi ai bao giờ.
Anh tôi đã không bao giờ còn trở lại làng Chung Thượng nữa. Những năm trụy lạc, tù tội đã làm cách biệt con người ấy với cuộc tình duyên ngày xưa, và làm phai dần những lời thề thốt cũ.
Rồi tôi cũng ra Hà Nội để chứng kiến cuộc đời lệch lạc, thiếu tin tưởng của anh tôi. Xa lắm rồi, lũy tre xanh vây kín xã Hòa Trường êm ái, và xa lắm, hình bóng người thiếu phụ thuở trước, tay vin cành găng, cố hỏi tôi bằng một giọng kín đáo:
- Anh em sao lâu về thế nhỉ?
Cách đây vài năm, tôi được tin chị đỏ Đương đã lấy chồng và đã có con ẵm. Tôi đem chuyện ấy nói với anh Hai tôi thì anh cười chua chát:
- Người định nhưng trời đặt, ai biết đâu!
° ° °
Một hôm, nhân có việc trở lại chốn cũ, tôi tạt đến thăm chị đỏ Đương. Tôi tìm lại nhà chồng chị, bày đặt ra chuyện mua thóc và hỏi thăm về mùa màng. Tôi cốt nói to để chị đỏ Đương hay rằng tôi đã về. Nhưng đáp lại cách ân cần kín đào ấy, một điệu hát ru con từ gian buồng bên đưa lại, một điệu hát não ruột, đều đều:
Hầu hơi...
Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ, con đò khác đưa...
Tôi nhận ra tiếng chị đỏ Đương. Một cảm giác gì chán nản chạy lướt qua đầu óc tôi, chạy khắp người, khiến tôi rùng mình khó chịu.
Tự nhiên, tôi không muốn gặp chị đỏ Đương nữa, bước ra ngoài, trong lúc bóng đêm hắt hiu về đầy cả bốn phía.
Gửi: Sun Nov 30, 2014 8:50 pm Tiêu đề: Truyện Ngắn Hồ Dzếnh
NGÀY GẶP GỠ Tác Giả : Hồ Dzếnh
Vắng nghe tiếng ếch bên tai.
Giật mình còn ngỡ tiếng ai gọi đò.
Ngày nhỏ, mỗi lần chán chúng bạn, tôi vẫn hay lại bên mẹ tôi cầu khẩn người kể lại sự cưới xin giữa người và ba tôi, rồi để tôi đem thuật lại với hàng xóm. Tôi còn nhớ nơi mẹ tôi ngồi kể chuyện là một cái hè bằng đất nện trước nhà. Từ đó, tôi vừa nghe chuyện, vừa nhìn ánh nắng chiều nghiêng xế, và những bóng lá lung linh. Có khi đương giữa câu chuyện, tôi véo má mẹ tôi mà hỏi:
- Đố mẹ biết bao giờ đến Tết? Đố mẹ biết con được bao nhiêu tiền phong bao?
Mẹ tôi khẽ gỡ tay tôi ra, lặng lẽ nói tiếp và lặng lẽ ru tôi ngủ mất lúc nào! Tuy nhiên, trong giấc mơ kỳ dị, tôi vẫn hình dung được cả đám cưới, chú rể là là ba tôi, cô dâu là mẹ tôi và, ... tôi là người dự lễ! Dần dần tôi lớn lên. Qua mẩu đời sum họp của hai người sinh ra tôi, tôi nhận thấy một định mệnh khe khắt, một duyên phận tăm tối và buồn rầu. Vì thế, tôi được biết rằng phần nhiều, hay tất cả cũng được, những bà mẹ Việt Nam đều phải đau khổ ngay từ lúc lọt lòng. Mọi sự do "Trời" định, các tâm hồn đó chỉ biết vâng theo một cách nhẫn nhục, một cách lặng lẽ, một cách chua xót vô cùng! Bao nhiêu thế kỷ rồi, những tiếng thở dài mất tăm trong đêm tối, những mái đầu bù rối nghiêng xuống bổn phận hàng ngày, tầm thường và nhỏ mọn. Cuộc hôn nhân của mẹ tôi, đến nay, tôi mới thấm thía được hết cái đơn giản, cái nghi lễ của nó.
Và đến ngày nay, tôi mới hiểu mẹ tôi hơn lúc nào hết, người con gái lái đò trên sông Ghép ngày xưa, người mẹ Việt Nam một cách dịu dàng và cao trọng...
° ° °
Cách đây hơn năm mươi năm.
Một buổi chiều mùa hè vàng rực.
Trên bờ sông Ghép lặng lẽ của tỉnh Thanh Hóa, dân làng Ngọc Giáp bỗng thấy bóng một người ngoại quốc, tay xách một gói vải xanh và đầu chụp chiếc mũ rơm đã vàng ỏng.
Người khách lạ có chiếc trán rất lạ: nó nhỏ nhưng nhô ra một cách bướng bỉnh. Nhất là đôi mắt, sắc như dao, bén như nước, nhìn vật gì thì như hút lấy vật ấy. Hai đặc điểm đó nhất định không được tạo bằng thủy thổ Việt Nam, mà là bằng tinh hoa của một dân tộc khác. Một vẻ gì xương xương, rắn rắn độn khắp mình người khách, biến cái thân thể thoạt trông thì gầy kia ra sự chịu đựng khó nhọc, ở đấy, một nghị lực bền vững tiềm tàng.
Khách mặc một bộ quần áo bằng lĩnh Quảng Đông, nguyên mầu đen, nhưng sau khi trải nhiều phong trần, đã đổi sang mầu xám kệch. Y phục ấy gợi được trong lòng người gặp, bao nhiêu là cảm giác thanh thú, hương vị xa xôi. Từ đằng xa, những gợn lụa phơ phất như những gợn gió trùng dương, và khi lại gần thì gió trùng dương lại chỉ toàn xông lên một mùi cá mặn!
Linh hồn Trung Quốc phát lộ ra trong từng bước đi, điệu đứng, trong sự trầm mặc, trông tìm, trong cả cách đưa năm đầu ngón tay có móng dài vẩn ghét lên gãi sồn sột chiếc đầu gần như húi trọc tếch.
Đêm về trong những bước nhẹ, hắt hiu bốc hơi lên mặt sông. Nắng tắt dần dần chỉ còn ánh vàng pha sắc tím. Hoàng hôn ở đây không như hoàng hôn của Giang Tây, Hồ Bắc, hoàng hôn ở đây ưu hoài như một chinh phụ nhớ chồng.
Và như một gã giang hồ chạnh lòng khóc nước.
Tuy nhiên, đôi mắt trong và sáng kia không hề vẩn bởi mầu sắc thê lương, vẫn quắc lên nhìn những đợt sóng nhuyễn nhàng bò quanh mấy con thuyền ngái ngủ. Cử chỉ lạnh lẽo đó thật là trái hẳn với cảnh sông nước buồn rầu, cái cảnh tầm thường nhưng đã làm chuyển dời bao nhiêu cuộc đời ngang dọc.
Khách ngồi xuống vệ cỏ, không để ngắm cảnh chiều, mà để tháo cái gói vải từ bao lâu vẫn đeo ở tay, lấy ra một gói cơm nắm. Rồi không dao, không đũa, khách bẻ ngoắt nửa nắm cơm, đưa lên miệng, trong khi mấy ngón tay lần gỡ từng miếng cá khô. Đôi lúc khách ngừng nhai, chép miệng cho thấm xuống đáy lòng cái hương vị đậm đà của bữa cơm lưu lạc.
Chỉ sau mươi phút, không còn một miếng cơm, một khúc cá nào sót lại trên mảnh lá chuối héo. Tất cả lương thực ngọt ngào trôi qua cổ họng, đảo lộn trong cái dạ dày vô bệnh, để biến thành những dòng máu hùng cường luân lưu nuôi mạch sống, và nuôi lớn mãi cái chí nguyện giang hồ.
Ăn xong, khách xoa tay đứng dậy, bước xuống bến sông rửa mặt và vốc nước uống, rồi lại trở lên nằm, đầu gối trên bọc hành lý. Tất cả những công việc ấy như đã được ấn định theo một phương pháp, nên có mạch lạc và quy củ hẳn hoi. Khách nằm rất bình tĩnh, tay chân duỗi thẳng, mặt hướng lên không gian, tâm thần nhập định. Nhưng nếu để ý, ta sẽ thấy loáng trên bụng khách một lưỡi dao nhọn như lá bùa hộ mệnh đặt ở đấy từ bao giờ.
Trời quang lấp lánh sao, hứa một đêm phẳng lặng. Gió sông lên đầy. Làng mạc, xa xa, chìm mờ trong bóng tối, đôi lúc để lọt ra vài tiếng chó sủa ma. Mấy điểm đèn hạt đậu run trên sông như những con mắt buồn từ kiếp trước. Bỗng, giữa khoảng triền miên rộng rãi, ngân đưa một điệu hát lơ lửng bay trên dòng nước, một điệu hát đò đưa, trầm trầm, lặng lẽ:
Muốn sang nhưng ngại vắng thuyền,
Muốn về bên ấy nhưng duyên lỡ rồi!
Nhịp hát gần lại và xa đi theo chiếc thuyền nhỏ, cô độc, ảo não, trong sự tỏ bày kín đáo của một tấm lòng thương nhớ mênh mông.
ở trên bờ sông bên này, người khách đã đứng dậy, tay nắm chuôi dao, mắt nhìn cái vệt lửa của chiếc thuyền đặt mờ trên mặt nước.
Thuyền hình như lại gần, vì sóng vỗ vào mạn đò mỗi lúc một mạnh. Và sau khi nhận đúng là một chiếc đò chở khách, người lữ hành của đất nước Trung Quốc hò lên:
- Tồ ui! (Đò ơi!)
Sóng nước trả lời lại cái giọng kêu quái gở bằng một bóng vang lạnh lẽo. Tiếp đến tiếng từ dưới sông vọng lên, cái tiếng nhỏ nhẹ của người con gái xứ Trung Bộ:
- Ai gọi đò?
Một phút yên lặng. Người khách lạ khó nhọc lắm mới kiếm được câu trả lời:
- Ng... ộ... ộ! à"tui tây" (à tôi đây!)
Nói xong khách xăm xăm bước xuống đò, trước vẻ ngạc nhiên vô cùng của thiếu nữ.
Đò quay mũi, thiếu nữ yên lặng chèo. Tiếng sóng khua, làm rộn vào lòng nàng một nỗi lo sợ kín đáo. Vừa chèo, nàng vừa liếc nhìn người khách lạ mà thoạt trông, nàng có cái cảm tưởng hãi hùng như gặp một tên giặc cướp tàu ô ghê gớm.
Đò đã ra giữa sông. Một làn gió thổi mạnh. Người khách lạ lúc này đã như rời bỏ những tư tưởng riêng, bắt đầu ngoảnh lên nhìn thiếu nữ. Đó là một cái nhìn rất lẹ, nhưng rất chắc, cái nhìn vẽ rõ ra một sự quyết định, khiến thiếu nữ bậm môi lại, và tuy trong bong bóng sao mờ mờ, e thẹn nhìn lảng ra ngoài xa... Một thoáng cười chạy qua môi khách, làm dịu hẳn vẻ hung tợn vừa rồi khiến thiếu nữ sợ hãi.
Là vì lần đầu tiên trong đời, nàng chịu cái nhìn sắc mắt đó. Nó không tìm ở người nàng những điểm đẹp đẽ, mà chỉ cốt khám phá những điều kiện cần thiết cho sự gây dựng hạnh phúc gia đình, sự vững bền của nòi giống. Và biết đâu, trong khi nghĩ đến những gương cần mẫn đã từng lấp lánh phản chiếu cái đẹp huyền bí, thần thánh của góc trời phương Đông, người lữ hành kia đã không quan niệm người đàn bà Việt Nam như đã quan niệm người đàn bà Trung Quốc?
Cho nên, dưới bóng sao đêm ấy, trên dòng sông khuya, người con gái Việt Nam đã che đôi má ửng hồng trước một người khách lạ và cùng lúc không hiểu sao, nàng thấy ngậm ngùi chua xót...
- Nhà "nị" ở đâu?
Người con gái ngơ ngác một lúc lâu, rồi mới hỏi:
- Nị? Nị là gì? Tôi không hiểu.
Khách cũng ngẩn người trong vài phút mới tìm được cách cắt nghĩa:
- Nị là... nị! Là...
Một ngón tay theo câu nói bỏ dở, chỉ thẳng vào thiếu nữ khiến nàng không nhịn được cười:
- A! Nị là cô?
Khách lộ vẻ sung sướng đột ngột như người học trò không thuộc bài vừa được bạn nhắc:
- Cô ở đâu?
Thiếu nữ mỉm cười, đưa tay chỉ một cái xóm nhỏ gần đấy, nơi hắt hiu sáng vài chấm đèn dầu lạc loáng thoáng qua hàng rào tre thưa mỏng. Trong đêm, vẳng đưa tiếng chầy giã gạo, đều đều rơi vào giữa cảnh tĩnh mịch, như kéo giãn thời khắc buồn bã không bao giờ tàn.
Đò ghé bến.
Người khách toan đưa đồng xu cầm sẵn trong tay cho thiếu nữ, bỗng lại ngần ngại:
- Cho "tui" ngủ một đêm ở nhà cô nhé?
Thiếu nữ đặt con sào lên thành đò, ấp úng:
- Ông hỏi mẹ tôi ấy. Tôi không biết!
Nói đoạn nàng bước vội đi trước, nhưng đôi lúc chậm chân lại, vì biết người khách đương rảo bước theo.
Đến một cái ngõ tre, thiếu nữ cất tiếng gọi:
- Mẹ này, có ông khách "Tàu" xin ngủ trọ.
Một bà cụ trạc năm mươi tuổi, tay cầm chiếc đèn con, từ trong nhà đi ra:
- Ai? Ai mà trọ với ngủ?
Người khách lạ cúi đầu chào bà cụ một cách kính cẩn. Bà cụ đáp lễ xong, quay lại bảo người con gái:
- Con xem dọn nhà trên, rồi nhường cái giường cho ông ấy nằm.
Bà cụ nói vừa dứt, cô gái đã vùng chạy vào bóng tối, đem theo cái mặt chắc là phải đỏ hơn ban nãy nhiều.
Trong khi ngồi tiếp chuyện khách, bà cụ thành thực hỏi:
- "Chú" đã xơi cơm chưa, để tôi bảo cháu nó nấu?
"Chú" Khách cũng thành thực trả lời:
- "Tui" ăn cơm rồi. Tui ăn ở ngoài bờ sông!
Câu trả lời tự nhiên và ngờ nghệch đó khiến bà cụ mỉm cười và khiến cô gái đương ngồi đun nước gần đấy, cũng sặc cười theo.
Nhìn cả hai miệng cười cùng một lúc, người khách ngơ ngác đưa mắt liếc hai bà con chủ nhà:
- Cười? Cười "tui"?
Bà cụ đỡ lời:
- à, cháu nó thấy ông lạ.
Đêm ấy là đêm đầu tiên trong cuộc đời giang hồ, người lữ khách đặt lưng trên chiếc giường tre ẽo ợt, giữa những tiếng và hình ảnh khác hẳn với những cái quen biết ở quê hương.
Mái nhà tranh lợp sơ sài, để chảy xuống mặt khách một dòng ánh trăng hạ tuần, và ngừng lại ở đấy thành những đồng hào mới long lanh.
Gió thổi trong vườn cau, xào xạc.
Tịch mịch dễ làm đuối lòng người. Lữ khách lúc này, đã thấy chết chí phiêu lưu, bôn tẩu, để cảm khái trong niềm thương nhớ, trong giây phút chạnh lòng tưởng đến một mảnh đất xa xôi.
Lữ khách ngạc nhiên ghé tai vào cõi yên lặng, cái yên lặng mênh mông và u uất, không bị phá bởi một tiếng súng bắn cướp nào như ở quê hương.
Mấy tiếng tù và khuya rúc lên, bay vào gian nhà vắng. Lắng biết mọi người đã ngủ yên cả, vị thần tử của giang sơn Trung Quốc vắt chân chữ ngũ, khe khẽ ngâm một bài thơ cổ, qua nỗi xúc động đột nhiên tụ lại trong người:
Bạn không có quyền gửi bài viết Bạn không có quyền trả lời bài viết Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn Bạn không có quyền tham gia bầu chọn