Gửi: Fri Sep 30, 2011 4:32 am Tiêu đề: BÀ HUYỆN THANH QUAN
Bà Huyện Thanh Quan
Tiểu sử
Bà Huyện Thanh Quan tên thật là Nguyễn Thị Hinh, người làng Nghi Tàm, huyện Hoàn long, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội).
Bà là vợ ông Lưu Nghi, người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông. Lưu Nghi đỗ cử nhân năm 1821 (Minh Mệnh thứ 2), làm tri huyện Thanh Quan (nay là huyện Thái Ninh, tỉnh Thái Bình), vì vậy người ta thường gọi bà là "bà huyện Thanh Quan".
Dưới triều Tự đức, bà được mời về kinh nhậm chức Cung trung giáo tập để dạy các công chúa, cung phi. Như vậy, bà sống vào khoảng giữa hai triều Minh Mệnh-Tự Ðức.
Bà còn để lại 6 bài thơ Nôm Ðường luật, mô tả phong cảnh đất nước như Ðèo Ngang, thành Thăng Long, chùa Trấn Bắc... biểu thị lòng yêu mến phong cảnh thiên nhiên và tâm trạng ai hoài trước sự đổi thay của thế sự.
Gửi: Fri Sep 30, 2011 4:38 am Tiêu đề: QUA ĐÈO NGANG - BÀ HUYỆN THANH QUAN
Qua đèo Ngang
Bà Huyện Thanh Quan
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen lá đá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ[1] mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái da da.
Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Gửi: Fri Sep 30, 2011 4:47 am Tiêu đề: THĂNG LONG THÀNH HOÀI CỔ - BÀ HUYỆN THANH QUAN
Thăng Long thành hoài cổ
Bà Huyện Thanh Quan
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương.
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Nghìn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường
Gửi: Fri Sep 30, 2011 4:55 am Tiêu đề: Cảnh chiều hôm - Bà Huyện Thanh Quan
Cảnh chiều hôm
Bà Huyện Thanh Quan
Chiều trời bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống đồn.
Gác mái, ngư ông về viễn phố,
Gõ sừng, mục tử lại cô thôn.
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi,
Dặm liễu sương sa khách bước dồn.
Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?
Gửi: Fri Sep 30, 2011 5:02 am Tiêu đề: Chiều hôm nhớ nhà - Bà Huyện Thanh Quan
Chiều hôm nhớ nhà
Bà Huyện Thanh Quan
Vàng tỏa non Tây bóng ác tà
Đầm đầm ngọn cỏ tuyết phun hoa
Ngàn mai lác đác, chim về tổ
Dặm liễu bâng khuâng, khách nhớ nhà
Còi mục gác trăng miền khoáng dã
Chài ngư tung gió bãi bình sa
Lòng quê một bước dường ngao ngán
Mấy kẻ chung tình có thấy là?
Gửi: Fri Sep 30, 2011 5:15 am Tiêu đề: Chùa Trấn Bắc - Bà Huyện Thanh Quan
Chùa Trấn Bắc
Bà Huyện Thanh Quan
Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu
Ai đi qua đó chạnh niềm đau
Mấy tòa sen rớt mùi hương ngự
Năm thức mây phong nếp áo chầu
Sóng lớp phế hưng coi đã rộn
Chuông hồi kim cổ lắng càng mau
Người xưa cảnh cũ nào đâu tá
Khéo ngẩn ngơ thay lũ trọc đầu.
Cảnh Hương Sơn
Bà Huyện Thanh Quan
(Bài này không rõ có phải của Bà Huyện Thanh Quan hay không).
Đệ nhất nam thiên ấy cảnh này,
Thuyền nan đón khách máy chèo lay.
Hai bên quả núi lồng hương suối,
Bốn mặt hoa ngàn rủ bóng cây.
Cửa Phật lơ thơ tầng đá dãy,
Chùa tiên bát ngát khói hương bay.
"Nam vô" tiếng dậy thưa trần tục,
Non nước Bồng Lai mới thấy đây!
Gửi: Fri Sep 30, 2011 5:38 am Tiêu đề: Bài văn của hai chàng rể tế mẹ vợ - Bà Huyện Thanh Quan
Song nữ tế tế thái thủy văn (Bài văn của hai chàng rể tế mẹ vợ)
của Bà Huyện Thanh Quan
Bài văn tế của Bà Huyện Thanh Quan viết bằng chữ nôm, chép trong Quốc phong ngẫu vịnh, kí hiệu VHv.2248, lưu trữ tại Thư viện Hán Nôm. Bản phiên âm đăng trên Tạp chí Hán Nôm, số 1, 1990.
Trước sàng linh[1] khóc mà than rằng:
Kỳ trăm năm chưa mãn[2], mẹ vội lên cõi Phật chẳng nhìn con,
Ơn chín chữ khôn đền, con tìm khắp dưới trời không thấy mẹ.
Năm mươi năm chưa trọn kiếp phù sinh, chồi liễu bỗng sương giăng nắng xế
Ôi !
Lá rụng ngàn xuân,
Mây lồng đỉnh dãy,
Trên tiên cảnh chợt mách tin, thanh điểu[13] rước cùng đi cho vẹn nghĩa tao khang[14].
Dưới trần hoàn[15] dầu cưu dạ[16] từ ô[17] tìm đâu thấy để đền ơn non bể[18]
Núm đồng nghiêng, dễ cấm tiếng chuông rè,
Chùm quả nặng, khôn nâng cành lá ủ.
Song cũng biết một trai là có, nhưng đà mây bay hạc lánh, thừa điêu[19] phải cậy tôn hàng[20]
Đã hay mười gái cũng là không, khôn biết quả mãn thuyền đầy, tương sự[21] chỉ nhờ tay nữ tế[22].
Rày:
Nhân tiết hạ thiên[23]
Lâm tuần đoan ngọ[24],
Gọi là bát nước điển hương, lòng thành kính dãi bày trong ngu tế[25].
Chú thích cuối trang
1.▲ Sàng linh (linh sàng): giường thờ người chết
2.▲ Câu này ý nói sống chưa đầy trăm tuổi.
3.▲ Chỗ này nguyên văn hình như sót hai chữ.
4.▲ Duyên tác hợp : chỉ việc lấy chồng
5.▲ Rổ tần phồn : rổ bèo, rau. Cả câu ý nói mẹ tần tảo, chăm lo việc nhà, noi gương mẹ dì mình
6.▲ Chi diệp : Cành và lá, đây chỉ con cháu.
7.▲ Tạ thị : Họ Tạ, một dòng họ lớn ở Trung Quốc thời xưa, có con cháu đông đúc.
8.▲ Nghi gia : ăn ở hòa hợp, có công với nhà chồng.
9.▲ Thù thế : cư xử với đời.
10.▲ Ba kỷ : 1 kỷ là 12 năm, 3 kỷ tức là 36 năm.
11.▲ Giai lão : Vợ chồng sống hòa hợp nhau cho đến già. Cả câu nói khi bà mẹ mới ngoài 36 tuổi thì chồng mất.
12.▲ Buồng hung : phòng ở của người cha.
13.▲ Thanh điểu : con chim xanh, đây chỉ sứ giả của cõi tiên
14.▲ Nghĩa tao khang : nghĩa vợ chồng gắn bó từ thuở còn nghèo khó.
15.▲ Trần hoàn : Cõi trần.
16.▲ Cưu dạ : mang trong lòng
17.▲ Từ ô : Con quạ, một loài chim có hiếu. Đây chỉ người con có hiếu.
18.▲ Ơn non bể : ơn cha mẹ sâu nặng như non như bể.
19.▲ Thừa điêu : Thừa kế việc thờ cúng tổ tiên.
20.▲ Tôn hàng : hàng cháu.
21.▲ Tương sự : đỡ đần công việc
22.▲ Nữ tế : con rể
23.▲ Hạ thiên : trời mùa hạ
24.▲ Đoan Ngọ : ngày mồng 5 tháng 5 âl
25.▲ Ngu tế : một lễ tế trong tang lễ thời xưa.
Bạn không có quyền gửi bài viết Bạn không có quyền trả lời bài viết Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn Bạn không có quyền tham gia bầu chọn