TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG :: Xem chủ đề - HƯƠNG NGÁT TÌNH THƠ - Đỗ Bình
TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG
Nơi gặp gỡ của các Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Phan Rang - Ninh Thuận
 
 Trang BìaTrang Bìa   Photo Albums   Trợ giúpTrợ giúp   Tìm kiếmTìm kiếm   Thành viênThành viên   NhómNhóm   Ghi danhGhi danh 
Kỷ Yếu  Mục Lục  Lý lịchLý lịch   Login để check tin nhắnLogin để check tin nhắn   Đăng NhậpĐăng Nhập 

HƯƠNG NGÁT TÌNH THƠ - Đỗ Bình

 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Tản Mạn Cuộc Sống
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Người Post Đầu Thông điệp
DIEU HUYEN
Niên Khóa 1962-1969


Ngày tham gia: 25 Sep 2008
Số bài: 4763
Đến từ: Vườn Hoa Hạnh Phúc

Bài gửiGửi: Wed May 04, 2011 5:39 pm    Tiêu đề: HƯƠNG NGÁT TÌNH THƠ - Đỗ Bình



HƯƠNG NGÁT TÌNH THƠ


      Từ ngàn xưa những lời tỏ tình của trai gái gặp nhau rất lãng mạn, đã để lại trong Thi ca Việt Nam nhiều giai thoại hay. Sau được các thi nhân ẩn danh minh họa ra câu thơ và đã tặng cho đời một bài thơ tình tuyệt vời còn lưu truyền mãi trong văn học đến nay:
      “ Hôm qua tát nước đầu đình,
      Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen.
      Em được thì cho anh xin,
      Hay là em để làm tin trong nhà. ”
      (Ca Dao)
      Thơ là thông điệp của tình yêu, là kho tàng cất giũ lời hẹn ước trăm năm của hai kẻ yêu nhau chứa đày hương thơm mật ngọt lẫn trái đắng của những cuộc tình. Thi sĩ Xuân Diệu một trong những người mở đầu cho trường phái lãng mạn trong thi ca Việt nam đầu thế kỷ trước. Có thể nói Xuân Diệu là thi sĩ tiêu biểu cho Thơ Tình lãng mạn thời kỳ ấy. Nhà thơ đã cảm nhận tình yêu qua câu thơ tuyệt vời:
      « Yêu là chết ở trong lòng một ít
      Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu.
      Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu ;
      Người ta phụ, hoặc thờ ơ, chẳng biết...
      Phút gần gũi cũng như giờ chia biệt.
      Tưởng trăng tàn, hoa tạ với hồn tiêu,
      Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu!
      -- Yêu, là chết ở trong lòng một ít... »
      (Yêu) (1935)
      Vào cõi thơ là lạc cõi bồng bềnh vô tận, nơi ẩn chứa của những tâm hồn đa sầu đa cảm thi nhân về những mối tình thiêng liêng sâu kín nhất. Nhà thơ đi giữa cõi mộng và thực, hòa lẫn mộng thực cho đời thêm sắc màu. Thơ là bạn đồng hành của những tâm hồn đau khổ, thơ sẽ làm vơi đi nỗi buồn, vỗ về những niềm đau, thi vị hóa những cuộc tình dang dở biến thành một “thú đau thương” tặng cho đời. Nói đến thơ tình thời kỳ lãng mạn ở thế kỷ trước không thể quên người thi sĩ tài hoa tự nhận mình là “ chân quê ” đó là thi sĩ Nguễn Bính. Có lẽ ngôn ngữ thơ ông bị ảnh hưởng nhiều từ ca dao nên mới tự nhận mình là chân quê. Nhưng “ chân quê ” ở đây là “ chất Việt Nam”, cái hiền hòa “trong sáng” chứa trong tâm hồn người dân quê bình dị. Bút pháp tài tình, sử dụng điêu luyện ngôn ngữ chân phương, có thể xem thi sĩ Nguyễn Bính là một trong những những nhà thơ có nhiều bài thơ tình hay và độc đáo ở thời kỳ đó. Thơ tình lục bát một thể thơ độc đáo của Việt Nam, dễ bắt chước hình thức nhưng khi thực hành lại khó hay!. Thông thường những vần thơ lục bát dễ trùng nhau về thanh, cách gieo vần điệu, nhưng lại khó cách ngắt câu kép tạo nhịp. Rất khó dùng đảo ngữ, ngắt nhịp để hình ảnh câu thơ không rơi vào lối sáo mòn, ý thơ xếp nếp cũ rích, ngôn ngữ trở nên nhạt nhẽo.
      Dòng thơ tình lục bát của thi sĩ Nguyễn Bính đã thuộc về dân gian:
      « Hôm nay dưới bến xuôi đò
      Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau.
      Anh đi đấy, anh về đâu?
      Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm... ”
      (Không Đề)
      Thi nhân nặng nợ với tình thơ nào khác chi kiếp tằm nhả tơ. Hồn thơ tựa làn khói, mùi hương ; mà hương thì vô ảnh người đời chỉ cảm nhận chứ không thấy được hình tướng. Nhưng ngay cả lúc hữu hình, hồn thơ hóa thể thành sợi khói, vầng mây chúng ta đều nhìn thấy nhưng nào ai nắm bắt được? Chỉ có con tim thi nhân mới biết hóa thể theo sự rung cảm, nhập vào ngoại cảnh thành những bông hoa đời.
      Trong tiến trình của dòng lịch sữ thi ca kể từ thời thơ cổ đại đến dòng thơ tạo sinh hôm nay về hình thức, cấu trúc của thơ có nhiều thay đổi, Nhưng hồn thi nhân vẫn thế, vẫn là một cõi riêng như giọt sương mai mong manh dưới nắng hồng, vẫn long lanh tỏa ra muôn sắc, dù chỉ một thoáng sẽ tan vỡ mang theo màu diễm ảo về một cõi vô cùng. Nhập vào cõi thơ là sống trong cõi phiêu bồng. Có những hình ảnh chỉ thoáng trong giấc mộng, hay trong tâm tưởng rất đẹp và mộng như những bài thơ không lời nên không chép được nhưng vẫn làm say đắm lòng người đa cảm.
      Từ ngàn xưa gió trăng vẫn thế, không mang cảm tính, nhưng kể từ khi có nhà thơ xuất hiện đã mang tâm cảnh hòa với ngoại cảnh để gió trăng kề cận, giao duyên với nhau. Gió tuy gần nhưng lại vô hình bóng, thế mà gió cũng biết lả lơi đùa trên làn tóc rối.. Trăng tuy xa vời vợi nhưng trăng bỗng hóa gần để ngậm ngùi, chia sẻ những đau thương của những mảnh đời vỡ vụn. Thi sĩ Hàn Mạc Tử, người nghệ sĩ tài hoa nhưng lại mắc một chứng bệnh nan y, nhà thơ thích ngắm trăng, đùa với gió, nhưng mỗi độ trăng tròn là cảm thấy đau đớn. Cái đau ở đây không phải là đau thể xác vì chứng nan y đã làm tê liệt các tế bào làm ông không còn cảm giác. Nhưng niềm đau trong tâm hồn là một khối sầu vẫn chất ngất. Thi sĩ hòa với gió trăng để vợi niềm đau. Những cảm xúc ấy đã họa lên một bức tranh qua câu thơ tuyệt vời:
      “Trăng nằm sóng soải trên cành liễu
      Đợi gío đông về để lả lơi.
      Hoa lá ngây rình không muốn đọng,
      Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi. ”
      (Bẽn Lẽn)
      Hoặc:
      « Trăng, trăng, trăng, là trăng, trăng, trăng!
      Ai mua trăng tôi bán trăng cho
      Không bán đoàn viên ước hẹn hò... »
      (Trăng Vàng Trăng Ngọc)
      Thơ tình “lứa đôi” là những trái mộng đầu đời ai cũng có thể hái, chắt chiu kỷ niệm, gom nhặt cảm xúc trang trải lên trang giấy học trò thành nhiều bài thơ tình có bài hay, có bài dở, nhưng với thời gian những bài thơ ấy bay theo gió về một cõi mơ! Để thành một bài thơ tình xuất sắc, độc đáo rất khó! Cái khó ở đây cả nội dung lẫn hình thức. Ở tuổi mới lớn những tâm hồn mơ mộng có thể làm được nhiều thơ tình đầy cảm xúc, nhưng nặng chất học trò. Người làm thơ chưa đủ ngôn ngữ chắt lọc, hiểu biết sâu rộng về cấu trúc thơ để có thể diễn đạt được những cái hay cái đẹp của thi ca vào trong cõi tình. Có người cắt xén những ca từ của những nhạc phẩm hoặc cóp nhặt những mẫu chuyện tình trong các tiểu thuyết Âu Á rồi cắt dán, vá víu gọi là sáng tạo?! Trong muôn vàn bài thơ tình thuở học trò cũng chỉ có một số ít bài hay đến với giới thưởng ngoạn, và số ít người làm thơ đó chính là thi sĩ với những bài thơ tình mang tính độc đáo. Thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên là một trong số người làm thơ nổi tiếng khi còn rất trẻ năm xưa. Thơ ông không cầu kỳ nhưng có tính độc đáo, và cái hay là ở điểm này. Nhà thơ không e ngại cấm kỵ, vượt thoát khỏi khuôn khổ nhà trường, mang tình yêu lứa đôi vào giáo đường, những nơi thờ tự nhưngvẫn giữ tính tôn nghiêm. Nhà thơ giàu tưởng tượng, hư cấu cái thực làm phong phú hình ảnh, ý thơ:
      ... “vì tôi là linh mục
      không mặc áo nhà giòng
      nên suốt đời hiu quạnh
      nên suốt đời lang thang!..
      tín đồ là người tình
      người tình là ác quỉ... »
      (Linh Mục) (1970)
      Nhà thơ còn ví người tình của mình như vị nữ tu:
      «.. Em hiền như ma soeur
      Vết thương ta bốn mùa
      Trái tim ta làm mủ
      Ma soeur này ma soeur.. »
      Ma Sœur (1971)
      Nguyễn Tất Nhiên đã cảm nhận sự bẽ bàng tột cùng của tình yêu nen hướng tâm hồn về đức tin Tôn giáo:
      « Hai năm tình lận đận
      Hai đứa cùng xanh xao.....
      Em không còn thắt bính
      Nuôi dưỡng thời ngây thơ
      Anh không còn lýnh quýnh
      Giữa sân trường trao thư.....
      Em bây giờ có lẽ
      Toan tính chuyện lọc lừa
      Anh bây giờ có lẽ
      Xin làm người tình thua...
      Chuông nhà thờ đổ mệt
      Tượng Chúa gầy hơn xưa..
      Anh bây giờ có lẽ
      Thiết tha hơn tín đồ... »
      (Hai năm tình lận đận) (1972)
      Ở thời đại khoa học tiến bộ vượt bực, đời sống vật chất cao đã ảnh hưởng đến đời sống con người. Chất lãng mạn bị dần khô héo, mặc dù ngoại cảnh nơi xứ người vẫn bốn mùa thay đổi. Phải nặng tình thơ lắm thi nhân mới dám ôm cái nghiệp dĩ vào than, lắng hồn mình hòa với ngoại cảnh để thấy hoa cười trong nắng mai, sợi buồn giăng cỏ úa, và gom ngoại cảnh nhập thành tâm cảnh nghe nỗi buồn rả rích bò trong xương tủy, len qua tiếng trhở dài. Trên bước đường tha hương thơ là bạn đồng hành của người xa xứ. Thơ đã chia sẻ niềm đau, nỗi nhớ và sự cô đơn. Ở tuổi quá đôi mươi, người làm thơ bị đời cuốn hút, cuộc sống bị thực tế cọ sát, chất thơ học trò mơ mộng bị hòa với cuộc sống nhập theo từng hoàn cảnh, đời và thơ quyện nhau tạo thành những dòng chảy muôn hướng. Có những nhà thơ thích làm mới thi ca, muốn tìm tòi đổi mới ngôn ngữ, thể nghiệm một bút pháp lạ, một hình thức diễn đạt mới, làng thơ trong nước cũng hải ngoại bị dao động, xôn xao!. Thơ tình tạm lắng xuống nhường cho những nguồn thơ khác như: Quê Hương, Thân phận, Chiến Tranh, Ngục Tù, Tâm Linh... Thi sĩ cũng từ đó mà bước ra dệt gấm hoa cho đời. Ở tuổi trung niên và cao hơn... Thơ "lứa đôi" lại càng xa vời, khó diễn đạt hơn những thể loại khác.... khó về cảm hứng, sự rung động, lòng đắm say... để dệt bài thơ hay? Chỉ có thi sĩ mới rung cảm được với cái buồn tha nhân mà hóa thân nhập vai để diễn tả nỗi đau, sự bẽ bàng, giọt nước mắt của tha nhân, đồng điệu buông tiếng thở dài, hay vút cao lời hân hoan ca ngợi.
      Thơ tình chứa đầy chất lãng mạn, là lời ru tiếng nấc của con tim như dòng suối mát hương thơm, nâng niu tình yêu, nên đôi khi ý thơ vượt trước thời đại, chối bỏ những rang buộc luân lý xã hội đương thời còn khép kín. Con người từ khi xuất hiện thi tính lãng mạn cũng phát sinh. Nhà thơ đã thả hồn mình theo trăng sao để gởi về nơi xa xăm ấy một chút tình. Chỉ có nhà thơ mới dám bộc lộ lòng mình. Thi sĩ TTKH để lại bài thơ tình còn lưu trong văn học mà một thời đã gây xôn xao đầy bao giấy mực:
      “ Từ đấy thu rồi thu lại thu
      Lòng tôi còn giá đến bao giờ.
      Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
      “Người ấy cho nên vẫn hững hờ”.
      Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời,
      Ái ân lạt lẽo của chồng tôi.
      Mà từng thu chết, từng thu chết
      Vẫn dấu trong tâmbóng một người... ”
      (Hai Sắc Hoa Tigôn)
      Dòng lãng mạn hòa với tâm linh khiến hồn thơ chắp cánh bay vào cõi bồng phiêu, nơi chỉ còn lại chấm sang của tình yêu. Nương theo Mê Hồn Ca của thi sĩ Đinh Hùng để vào cõi huyền hoặc bằng con tim nồng cháy, như ánh lửa hơ ấm những tâm hồn ở bên kia bờ xa thẳm qua lối thơ Tượng Trưng được trau chuốt, gọt dũa, có nhiều ý hay lạ, nhiều hình ảnh và ngôn từ quái dị, yêu ma:
      “Cười lên em, khóc lên em
      Đâu trăng tình sử nét trần duyên
      Gót sen tố nữ xôn xao đêm huyền.
      Ta đi lạc xứ thần tiên
      Hồn trùng dương hiển bong thuyền u minh
      Ta gởi bài thơ anh linh
      Hỡi người trong mộ có rung mình
      Nắm xương khô lạnh còn ân ái
      Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình.
      hỡi người tuyết trinh, hỡi người tuyết trinh
      Mê em ta thoát than hình
      Nhập hồn cây cỏ đa tình mỗi đêm.... ”
      (Gởi Người Dưới Mộ)
      Ở thuở ban đầu đường tình mới chớm nở nhà thơ xem thơ và người tình đều tri kỷ. Thơ đã giúp cho tình yêu thăng hoa. Nếu hội họa khởi đi từ óc tưởng tượng và do bàn tay khéo léo biết kết hợp đường nét, màu sắc, ánh sáng và bóng tối để tạo nên bức tranh ấn tượng thì thơ cũng cần có sự tưởng tượng để tạo nên hình ảnh linh động. trong bài thơ Tương Tư của thi sĩ Nguyên Sa là một bức tranh ấn tượng mà họa sĩ muốn họa lại nét thơ chắc phải ngừng cọ rất lâu để tìm chất liệu tạo hình:
      “ Tôi đã gặp em tự bao giờ
      Kể từ nguyệt bạch xuống đêm khuya.
      Kể từ gió thổi trong vừng tóc,
      Hay lúc thu về cánh nhạn kia.
      Có phải em mang trên áo bay,
      Một phần gió thổi một phần mây.
      Hay là em gói mây trong áo?
      Rồi thở cho làn áo trắng bay... ”
      (Tương Tư)
      Thi sĩ Thái can qua bài Em Biết Anh Đi:
      “ Em biết anh đi chẳng trở về
      Dặm ngàn liễu khuất với sương che.
      Em đừng quay lại nhìn anh nữa:
      Anh biết em đi chẳng trở về. ”
      (Anh Biết Em Đi)
      Thi sĩ Vũ Hoàng Chương:
      Bài thơ hạnh ngộ đã trao tay,
      Ôi mộng nào hơn giấc mộng này?
      Mùi phấn em thơm mùi hạ cũ,
      Nửa như hoài vọng, nửa như say.
      Em đến như mây, chẳng đợi kỳ,
      Hương ngàn gió núi động hàng mi.
      Tâm tư khép mở đôi tà áo,
      Hò hẹn lâu rồi - Em nói đi... ”
      (Bài ca hạnh ngộ)
      Thi sĩ Huy Cận:
      “.. Sợi buồn con nhện giăng mau;
      Em ơi! Hãy ngủ... anh hầu quạt đây.
      Lòng anh mở với quạt này;
      Trăm con chim mộng về bay đầu giường.
      Ngủ đi em, mộng bình thường!
      Ru em sẵn tiếng thùy dương mấy bờ... ”
      (Ngậm ngùi)
      Ở trên đời, nếu chỉ có một loài hoa thì nghệ sĩ sẽ không còn cảm hứng sáng tác về sự nhiệm màu của thiên nhiên? Thơ cũng như hoa muôn màu muôn sắc, tùy theo nhịp đập rung cảm của thi nhân. Nhà thơ không làm công việc của nhà lý luận, nhà khoa học, nhà thần học hay triết gia... để tìm cái mới lạ trong thế giới hiện hữu, cái huyền bí của vũ trụ.. vv.. nhưng thi nhân có thể sống với với tôn giáo, luân lý qua tâm linh để phát hiện thêm lẽ đạo của cuộc đời, và sống triết qua thơ. Hồn thơ tựa ánh sao băng, thoáng trên bầu trời từ một hành tinh xa xăm nào đó trong vũ trụ, lạc xuống trần, đọng trên kẽ lá thành những hạt sương mai. Bỗng ngọn gió vô tình lướt qua lay động cành cây, làm vỡ những viên ngọc trời thành muôn mảnh. Trước khi tan biến nó vẫn dựng được màu sắc rực rỡ của bình minh.

Đỗ Bình



Về Đầu Trang
Đinh Văn Quý
Cựu Giáo Sư Duy Tân


Ngày tham gia: 01 Mar 2011
Số bài: 304

Bài gửiGửi: Thu May 05, 2011 3:25 am    Tiêu đề:

Một đề tài gần như vô tận .
Chỉ thay đổi hình thức
Theo không gian và thời gian
Phải không DH ?
Về Đầu Trang
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Tản Mạn Cuộc Sống Thời gian được tính theo giờ GMT - 4 giờ
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn

    
Powered by phpBB © 2001, 2005 phpBB Group
Diễn Đàn Trung Học Duy Tân