TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG :: Xem chủ đề - Trang Văn, Thơ, Nhạc "SAO KHUÊ"
TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG
Nơi gặp gỡ của các Cựu Giáo Sư và Cựu Học Sinh Phan Rang - Ninh Thuận
 
 Trang BìaTrang Bìa   Photo Albums   Trợ giúpTrợ giúp   Tìm kiếmTìm kiếm   Thành viênThành viên   NhómNhóm   Ghi danhGhi danh 
Kỷ Yếu  Mục Lục  Lý lịchLý lịch   Login để check tin nhắnLogin để check tin nhắn   Đăng NhậpĐăng Nhập 

Trang Văn, Thơ, Nhạc "SAO KHUÊ"
Chuyển đến trang 1, 2  Trang kế
 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Tuyển chọn THƠ của MAI THỌ
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Người Post Đầu Thông điệp
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Sat Nov 28, 2015 8:41 pm    Tiêu đề: Trang Văn, Thơ, Nhạc "SAO KHUÊ"


Đợi chờ

Tác giả "Sao Khuê"


Đợi chờ

Bao nhiêu năm vẫn đợi một lời

Vẫn đợi một lời người nói yêu tôi

Bao nhiêu năm vẫn đợi một lần

Đợi một lần chung bước sóng đôi

Bao nhiêu năm vẫn đợi một lần

Đợi một lần tay ấp ủ tay

Bao nhiêu năm vẫn đơị một lần

Đợi một lần vai tựa bờ vai

Bao nhiêu năm vẫn đợi một lần

Đơị một lần tóc dính bờ môi

Bao nhiêu năm vẫn đợi một người

Đợi mãi một người thuơng nhớ không nguôi

Bao nhiêu năm

Đợi mãi một lời

Đợi mãi một lần

Đợi mãi một người

Thương nhớ người ơi!...

Người ơi.. người ơi..người ơi..

Sao Khuê




CƠN GIÓ THOẢNG - Sao Khuê - Ái Hoa - Minh Thảo - HảiLong



Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Sun Nov 29, 2015 10:58 pm    Tiêu đề: Nỗi lòng - Sao Khuê


Nỗi Lòng


Nỗi lòng

Sao Khuê

Chiều ngày 28 tháng 2 năm 1985 gia đình năm người nhà Sao Khuê đặt chân xuống phi trường Mirabel của tỉnh bang Quebec thuộc Canada, cách xa thành phố Montréal khoảng 1 giờ lái xe.

Hú hồn! cuối cùng thì chúng tôi cũng may mắn thoát khỏi ách độc tài Cộng Sản, tới được miền đất hứa. Nói thiệt quí vị nghe, dù được đi chính thức nhưng những người trên máy bay cũng hồi hộp lắm lắm; Sao Khuê đã từng có người bạn sắp lên máy bay còn bị kéo xuống, đuổi về để tiếp tục xây dựng xã hội chủ nghĩa nên mọi người trong máy bay thở phào khi phi cơ hạ cánh an toàn xuống phi trường Bangkok, Thailand. Lúc đó Sao Khuê vừa mừng vừa tủi, mừng vì từ nay được thở không khí tự do và tủi vì so sánh phi trường Bangkok nhộn nhịp, ngợp trời đèn xanh, đèn đỏ, văn minh hiện đại với phi trường Tân Sơn Nhất quạnh hưu, lạc hậu mà thương cho đất nước mình.

Tháng hai, trời còn rất lạnh, lạnh thế nào thì Sao Khuê chưa biết nhưng toàn thể Mít chúng tôi, những người vừa rời Việt Nam hai ngày trước, sau khi ghé phi trường Bangkok, Thailand và một phi trường nữa (?) ở Italie thì ngoài mấy cái áo len chẳng ai có áo lạnh mùa đông cả.

Trước khi máy bay hạ cánh, nhiều bà được cho đi đoàn tụ với chồng còn mang áo dài, quần trắng ra diện sau khi điểm phấn thoa son. Nghĩ lại thật buồn cười cho sự ngây thơ của quí bà quá quí bà ơi.

Vừa ra khỏi phi cơ thì Sao Khuê đứng ngẩn người ra: tuyết rơi. Tuyết chỉ mỏng manh rơi nhưng máu lãng mạng nổi lên khiến Sao Khuê dừng chân lại ngắm khiến ai đó đi ngang hỏi bằng tiếng Pháp:

- Lần đầu tiên bà nhìn thấy tuyết hả?

Sao Khuê gục gặc cái đầu thay cho câu trả lời vì đang bận ngắm tuyết, chả gì thì cũng là lần đầu Sao Khuê được tận mắt thấy tuyết rơi mà lỵ. Tuyết mỏng manh rơi rơi... dĩ nhiên không đẹp bằng cảnh tuyết trắng mù trời trong phim Đốc tờ Zivago nhưng caméra trong đầu Sao Khuê giờ này vẫn còn y cảnh tuyết rơi mỏng manh buồn qua khung cửa ngày 28 tháng 2 năm 1985.

Cô chú em chồng và anh chồng - người bảo lãnh cho gia đình Sao Khuê - đến đón đang vẫy gọi rối rít sau khung kính trên cao.

Sau khi làm xong thủ tục, Sao Khuê còn nấn ná tài khôn làm thông dịch cho hai bà không biết ngoại ngữ để trả lời những câu hỏi của nhân viên sở di trú dù tiếng Anh hay tiếng Pháp của Sao Khuê chưa đầy lá mít nên ra trễ khiến cô em nhằn là “sao mãi mới ra, khuya rồi đó, mau lên, mai em phải đi làm”.

Sau khi dùng cơm tại nhà cô em, gia đình Sao Khuê được đưa về nhà anh Tú Anh, người cha thứ hai của các con của Sao Khuê, người đã tái sinh các cháu, mang các cháu khỏi thiên đường xã hội chủ nghĩa. Gia đình Sao Khuê được giành cho ba phòng ngủ trên lầu: hai con trai chung một phòng, cô con gái có phòng nhỏ và hai vợ chồng Sao Khuê căn phòng khá lớn với một nhà tắm riêng. Anh chị và cháu gái ở hai phòng mé trái và xử dụng phòng tắm nhỏ. Cháu trai của anh chị độc chiếm basement. Nhà anh chị rộng rãi, khang trang nhưng là nhà cổ ở chân núi nên sàn gỗ kêu cót két, cọt kẹt. Sao Khuê dặn các con là ráng đi nhẹ nhàng nhưng mà... mình càng rón rén nó càng kêu to!

Chưa đầy một tuần, chú Long đưa ông xã xệ Sao Khuê đi làm, cùng hãng với chú, dĩ nhiên là làm phu khuân vác: chuyển từng thùng giấy card chúc mừng đủ loại lên kệ, ghi sổ, đánh dấu. Công việc rất nặng nhọc khiến cho anh chàng dài lưng tốn vải ăn no lại nằm, ôm vài cái cử nhân trong tay, nếu vi xi không vào là về làm phụ giảng ở trường Luật, nay phải làm phu vất vả nên vài tháng sau chàng chỉ còn da bọc xương, chắc cũng giống như lúc trong tù cải tạo, khiến Sao Khuê mủi lòng thương hại, nhường nhịn đủ điều ai dè lâu dần chàng ta càng được thể lên chân!

Nghỉ ngơi một tuần cho quen giờ sinh hoạt, chị dâu Sao Khuê, người Ý, chở Sao Khuê đi xin học cho ba cháu. Mang từ Việt Nam sang cái áo manteau mùa xuân màu gạch cua mà ai cũng khen đẹp khi Sao Khuê mặc thử lúc còn ở Sàigon, bây giờ mặc vào trông Sao Khuê quê xệ chẳng giống con giáp nào. Bà chị dâu bảo:

- Áo này mặc vào mùa xuân. Thay áo mùa đông đi, áo này không đủ ấm đâu!

Sao Khuê phanh cho chị thấy hai lớp áo len, đan tay, mới toanh bên trong:

- Không sao, ấm mà chị, em còn hai áo len nữa đây này.

Ý- tà- lồ chính gốc, chị dâu đâu biết là bên Việt nam làm gì có áo manteau mùa đông nhưng chị lại tưởng là Sao Khuê có áo nhưng không muốn thay nên chỉ nhún vai:

-OK, mình đi.

Chu choa ơi, sao lạnh quá thế này, Sao Khuê run lên cầm cập dù ngồi trong xe được sưởi ấm. Còn con đường, sao nó nó dài thế, con đường Sherbrooke ấy mà, đi mãi, đi mãi mới tới cái gọi là nha học chính (commission scolaire).

Bà thư ký niềm nở lịch sự kéo ghế mời hai chị em ngồi:

- Mời bà ngồi.

Ý! Trời đất ơi, sao họ lại lịch sự như thế với con mán quê mùa, nghèo mạt rệp này nhỉ.

Sao Khuê chợt có ý nghĩ so sánh: Ngày mà Đảng dẫn đoàn quân bèo nhèo, mang nón tai bèo, ngheo huyền nghèo, lếch tha lếch thếch như con mèo ướt vào miền Nam, trông như những đoàn âm binh thì bà dược sĩ kiêm giáo sư đệ nhị cấp, vợ “cựu” trưởng khối quản trị của Truyền Thanh &Truyền Hình & Điện Ảnh, được các anh mặt mũi non choẹt, hỉ mũi còn chưa sạch, mới mười mấy tuổi đầu, học vấn cỡ lớp ba tiểu học quát vào mặt mỗi khi Sao Khuê phải gặp các anh:

- Nhà chị (!) phải lễ phép với cán bộ nhà nước. Sao nhà chị kém văn hoá thế!

Còn nữa, ngày Sao Khuê ra đài truyền hình, sở cũ của chồng gặp “ban quân quản” xin lãnh lương trong lúc chồng được nhà nước ưu ái gửi đi học tập thì được cho vào gặp anh Bẩy. Quái, chữ ông, tiếng bà, biến đâu mất hết, ai họ cũng gọi là anh, là chị. Đã vậy họ lại không có tên, chỉ thấy họ gọi nhau anh Hai, chị Ba, chị Tư, anh Năm, chú Sáu, cô Bẩy, chị Tám, anh Chín, chú Mười... sao bí mật dễ sợ. Cô và chú chỉ giành cho các cán bộ cao cấp và tiếng bác chỉ được dùng cho bác Hồ. Cấp trên họ lại chỉ nói là “Trên” khiến mình chẳng hiểu “Trên” là cái quái gì! Anh Bẩy nói:

- Tôi nói cho chị biết, chồng chị mang tội tầy trời, nay được cách mạng khoan hồng gửi đi học tập. Chị và gia đình phải biết ơn cách mạng (mốc xì! bắt tù mà phải biết ơn). Chị phải báo cáo cho chúng tôi biết những việc chồng chị đã làm, đã chống phá cách mạng như thế nào. Chị phải động viên chồng chị học tập tốt, lao động tốt. Chị phải động viên chồng chị thành khẩn khai báo tội lỗi thì mới được xét cho về đoàn tụ với gia đình (động viên là gửi đi động viên tức đi lính ấy à??). Chị phải hiểu là nhân dân miền Nam ai cũng có tội hết, ngay cả chị bán xôi cũng có tội...

Ủa, bán xôi cũng có tội? Thấy nét mặt Sao Khuê cau lại tỏ vẻ không đồng ý thì anh Bẩy mở lượng khoan hồng giải thích:

- Chị phải biết dân miền Nam ai cũng có tội. Không phải chỉ có nguỵ quân, nguỵ quyền mới có tội mà chị bán thuốc (là Sao Khuê), chị bán xôi, chị đổ rác cũng có tội vì góp phần duy trì đời sống và kinh tế cho Mỹ Nguỵ. Mấy thầy cô giáo (cũng là Sao Khuê) cũng có tội vì dạy dỗ, đào tạo học trò chống lại đảng và nước...

À ra thế. Mọi người đều có tội. Lạy Chúa con là kẻ có tội - nhưng trong bụng Sao Khuê thì “Hứ, nói càn nói rở, được làm vua thua có tội.”

Ấy, Sao Khuê đã được đối xử như kẻ có tội khi còn ở trong nước bởi những người cùng tổ tiên, nòi giống với mình. Suốt mười năm lúc nào cũng nơm nớp sợ hãi bị bắt, bị tù... thế mà bây giờ sang xứ người ta, Sao Khuê lại được người ta lịch sự tiếp đãi thế này cơ chứ. Sao Khuê đang đi xin xỏ chỗ học cho các con mà. Sao Khuê lại ăn mặc quê mùa, nghèo nàn như con mọi, còn họ, họ lịch sự sang trọng mà sao họ lại không tỏ vẻ gì coi thường hay khinh khi Sao Khuê cả vậy? Trời đất ơi, sao Sao Khuê lại được những người chủ nhà cho mình sống nhờ mà còn coi mình bình đẳng với họ. Từ lâu lắm Sao Khuê mới được người ta đối được xử như một con người. Cảm giác này làm cho Sao Khuê vừa thích thú, hãnh diện lại vừa hụt hẫng, bâng khuâng...

Một người bạn của Sao Khuê gọi tới mách cho việc đi giữ trẻ. Sao Khuê dẫn con gái lớn, mười lăm tuổi đến nhận việc. Bà mẹ cháu bé đón chúng tôi đến thăm nhà bằng xe hơi và tiễn chúng tôi ra về bằng métro để biết đường hôm sau trở lại. Sao Khuê dặn con:

- Con nhớ quẹo phải sau khi đi qua nhà thờ nghe con.

Than ôi, ngày hôm sau mẹ con Sao Khuê trở lại thì không biết nhà ở đâu vì trạm métro Laurier này có hai lối ra chứ không phải chỉ có một “bouche” như métro Vendôme gần nơi chúng tôi ở và cả hai đầu đều có nhà thờ, tuy vậy cuồi cùng hai mẹ con cũng tìm đến nhà được sau khi chìa địa chỉ hỏi thăm người đi đường. Mẹ cháu bé cũng đã lo xa nhờ bà ngoại tới trông cháu nếu không thì cô đã phải nghỉ làm. Bà dặn đi dặn lại chúng tôi:

- Trạm métro này có hai đường ra. Cô nhớ đi ra theo hướng đầu métro chạy tới thì mới ra đúng đường.

Nhưng việc coi cháu bé chẳng lâu vì các con Sao Khuê được nhà trường gọi vào học lớp “acceuil”. Đây là lớp chuyển tiếp dành cho những học trò mới di dân qua mà đa số giờ học là tiếng Pháp cho học trò quen lần trước khi chính thức vào lớp. Hai cháu lớn học ở trường Côtes -St -Luc và cháu út, mười tuổi học nơi khác nhưng được xe đưa đón miễn phí tận nhà. Vậy thì đâu là thiên đường nhỉ, Việt Nam hay Canada? Cảm ơn Canada đã mở rộng vòng tay.

Sao Khuê bắt đầu mở chiến dịch đi tìm việc làm. Đến đây thì quả thật là gay go. Kinh tế đang suy thoái nên việc làm rất khó kiếm. Sao Khuê đến nhà hàng xin làm phụ bếp nhưng không thấy họ gọi lại. Ông bố nuôi cho Sao Khuê địa chỉ một hãng may. Giữa mùa đông gió thổi mạnh xém tí thì thì lăn xuống chân dốc, Sao Khuê lần mò theo bản đồ métro, tìm ra địa chỉ thì thấy toà nhà cao lớn mà cửa nào cũng đóng im ỉm. Thất vọng vô cùng, Sao Khuê đang tính ra về thì có một bà tới trễ bước vào. Bà dẫn Sao Khuê vào hãng may của bà.

- Ai giới thiệu bà đến đây?

- Dạ, ông Hải

- Ông gì? Henri?

- Dạ không, ông Hải.

Hai ba lần bà xếp vẫn không biết ông Hải là ai, thôi thì Henri, Henrette, hết răng, ai cũng được.

- Thôi, bà vào may thử đi.

Trời đất thánh thần bà con ơi, coi nè, trước khi ra đi Sao Khuê đã học một khoá cắt may, một khoá thảo trình viên (programer), quyết chí bỏ làm thầy (à Sao Khuê đi dạy học môn công dân khi còn đi học dược và sau đó dạy Lý Hoá đệ nhị cấp ngay cả sau khi Vi-Xi vào, Sao Khuê cũng vẫn...đứng lớp, dạy Lý cho lớp mười một. Sao Khuê gõ đầu trẻ gần mười lăm năm nghe bà con) mà làm thợ nuôi con nhưng mà sao cái máy này nó mạnh như trâu, nhanh như ngựa, chạy cái rầm, khiến đường may xiên xẹo mẹo dậu.

- Thôi, bà chưa biết may, bà biết ủi không?

Ủi đồ? ai mà không biết cơ chứ.

Bà xếp đưa cho Sao Khuê môt lô cà- ra- oắt (cravate) của trẻ con. Trời! cái bàn ủi, móc vào dây điện tòong teeng... mà sao ủi hoài không thẳng, chẳng ra hình thù gì hết!...Thế là Sao Khuê không có việc làm. Ra về mà lòng tan nát, thấy mình bất tài vô tướng, chán nản cùng cực, chẳng lẽ qua cơn bỉ cực thấy hồi tối thui, rồi đây làm gì để nuôi con và nuôi thân, nuôi bố, nuôi mẹ, nuôi em ở Việt nam? Huhu huhu!...

Sao Khuê tìm đến một tiệm thuốc của vợ một ông bạn mới quen được ở Việt Nam, do thường gặp nhau trên trụ sở xuất cảnh nằm trên đường Nguyễn Du ở Việt Nam - xin việc. Chị rất lịch sự:

- Sao Khuê kiếm chỗ nào học cho biết việc rồi trở lại đây mình thu xếp sau vì người phụ tá Còi (dân Việt mình hay gọi đùa dân bản xứ Quebecois là Còi) này khó chịu lắm.

Ông bạn của chú cho Sao Khuê một địa chỉ nhà thuốc để Sao Khuê xin học việc (dĩ nhiên không lương) nhưng rồi cũng bị từ chối vì Sao Khuê lỡ dại, cả tin mà khai ra là sẽ trở lại làm việc cho chị X. Đấy, số con rệp, ngay đến xin học việc không lương cũng không được nói chi việc đi làm! Huhu...

Một bà bạn thân cũng là đồng nghiệp, Trăng Sáng giới thiệu vào nhà thuốc bà đang làm, Sao Khuê cũng bị từ chối. Buồn thúi ruột thì bị bạn la:

- Mày làm cái gì mà rối tinh lên thế. Cứ từ từ rồi đâu sẽ vào đó. Mới lên xe bus thì phải đứng, rồi cũng có lúc sẽ có chỗ cho mày ngồi.

Ê! Cảm ơn mày nghe nhỏ. Sau này Sao Khuê hay dùng lời khuyên rất chí lý mà khuyên những di dân mới nhập cư khi họ vào mua thuốc trầm cảm. Quí vị nên biết dân Canada dùng nhiều thuốc trầm cảm...nhất thế giới! Những di dân mới tới thì mơ một thiên đường không hiện hữu hay bối rối vì làm sao gánh vác gia đình, còn dân ở lâu thì phát điên - chả thế mà có tên là Canadien - phải, phát điên lên vì mùa đông dài, lạnh, bẩn, trơn, dễ té ngã, dễ bị tai nạn xe cộ, và vì trời u ám:

Trời ở nơi đây rất dễ buồn

Mùa đông dài lắm giá lạnh luôn

Đóng băng luôn mảnh hồn hiu quạnh

Như tuyết ngoài kia giá lạnh tuôn...

Rồi thì ông bố nuôi dẫn Sao Khuê đi cắt tóc, tự tay đánh giầy (bottes) cho Sao Khuê trước khi dẫn Sao Khuê đến tiệm may nhỏ của một người Việt để học việc.

- Con ơi, thế bố ruột của con có đánh giầy cho con không?

- Dạ, chưa bao “vờ” bố ạ vì ở Việt Nam con đi guốc Đa kao không hà, mà có đi giày cũng không cần đánh bố ơi, mẹ con thì có đánh nhưng đánh bằng roi.

“Bố Vượng ơi! Thương Bố quá à. Bố đang dạo chơi trên cõi Niết bàn hả Bố?”

Bản cũ soạn lại, cái máy may chạy như xe lửa tốc hành khiến sau mỗi đường may Sao Khuê lại cặm cụi gỡ ra, may lại.

- Công việc hôm nay ra sao? bà chị dâu hỏi.

- Je suis bonne pour rien (em thật là vô tích chi thời sự), cái máy nó chạy trước, em chạy sau, chạy theo không kịp...

-...À ngày hôm nay thì khá hơn, em đuổi theo nó gần kịp rồi.

- Khá hơn hôm qua, coi như em đi cùng máy được.

Vì cứ phải tháo ra tháo vào nên Sao Khuê học may overlock mà ba ngày chưa thạo.

Sau gần một tuần thì chú Tân, em họ của ba Sao Khuê ra tiệm may tìm Sao Khuê:

- Cháu về gấp, thay quần áo cho tươm tất rồi ra trường Collège Français gặp bác Rạng. Bác đã xin được việc cho cháu rồi, mau lên cháu!

Sao Khuê vào gặp cha Perron, một trong ba người chủ của trường và với bằng dược sĩ không cần trình ra, Sao Khuê vẫn được cha cho coi phòng thí nghiệm sinh hoá, chưa kể cha còn chắp tay, cúi đầu chào tiễn Sao Khuê về theo phong tục Việt Nam khiến Sao Khuê vô cùng bối rối. Cảm ơn cha nhân từ, độ lượng với di dân Việt Nam được nhận vào làm vì cha từng bảo:

- Quí vị đừng ngại vì không nói thạo tiếng Pháp. Chúng tôi cần người làm việc chứ không cần nghe quí vị nói tiếng Pháp.

“Chắc giờ này cha đang cùng thánh Pierre đi dạo hay cầu nguyện trên Thiên Đàng và Bác nữa, Bác là người cha thứ hai của cháu, cả đời giúp mọi người, Bác chắc chắn đang nơi miền Cực lạc.”

Đến đây thì Sao Khuê qua cơn bỉ cực tới hồi thới lai. Biết số phận run rủi như thế này thì tội gì mà lo lắng, vất vả khổ sở tìm việc cả tháng qua. Ê! nhỏ bạn, cuối cùng ta cũng trúng số lô độc đắc, có được một cái ghế trên chuyến xe bus cuộc đời mà cái ghế nhung êm ái nữa à nghe. Sao Khuê được trả lương năm, mười sáu ngàn một năm so với lương tối thiểu ngày đó có 4.25 đồng một giờ. Tiền lương được lãnh hàng tháng kể cả những ngày nghỉ, tháng hè và mỗi ngày chỉ làm theo giờ học trò đi học (nhưng Sao Khuê ngây thơ cứ đến từ 8:30 sáng và 5 giờ chiều mới ra về) nếu tính theo giờ làm thực sự (30 giờ một tuần, 35 tuần một năm vì Sao Khuê được nghỉ hè, Pâques, Noel...) thì...sấp sỉ lương dược sĩ. Công việc làm thì nhàn nhã so với nghề may: bầy ra rồi lại dẹp vào những thứ dùng làm thí nghiệm của toàn thể các lớp trong trường về phân sinh hoá (biologie) từ secondaire I đến hai lớp Cégep, có khi ba phòng cùng làm thí nghiệm một lúc nhưng với Sao Khuê thì là chuyện nhỏ, nghề của nàng mà. Rửa hàng trăm ống nghiệm hay hàng trăm dụng cụ mổ xẻ, lấy ra xếp vào vài chục kính hiển vi v..v...mà nhằm nhò gì. Ấy nhưng mà cái phần mua dụng cụ hay mượn phim chiếu cho học trò xem thì thật là gay cấn vì phải xử dụng điện thoại để giao dịch. Quí vị biết rồi, mười mấy năm sau khi ra trường, tiếng Pháp của Sao Khuê đã theo Tây về nước, Sao Khuê mới dợt lại cũng chưa đủ sức sí sa sí số. Mặt nhìn nhau dẫu bâng khuâng không nói một câu vì lời nghẹn ngào nghệt ra như say như ngây vì ngu nhưng Sao Khuê cũng còn đoán được họ nói cái chi và họ cũng đoán được Sao Khuê trả lời cái gì vì có thể kèm theo ngôn ngữ quốc tế hoa tay múa chân, chứ qua điện thoại - eo ôi, họ đâu thấy con nai vàng ngơ ngác mà nói chầm chậm cho mình kịp hiểu chưa kể đôi khi họ còn...sủa tiếng “Còi” thì ô hô ai tai! (tiếng Còi là cách phát âm của người Quebecois giống như cách phát âm tiếng Việt theo giọng Quảng, hì hì khó nghe lắm, chẳng hiểu gì hết trơn). Văn phòng sinh hoá (département de biologie) có bẩy giáo sư, ba bà và bốn ông đều rất tử tế. Sao Khuê thân nhất với bà xếp và cả gia đình bà. Sao Khuê năn nỉ bà xếp gọi điện thoại dùm khi cần mua dụng cụ (tim, ếch, cá, ống nghiệm, kính hiển vi v..v...). Bà vui vẻ làm dùm nhưng ít lâu sau đó thì bà bắt Sao Khuê phải tập nói cho quen:

- Hôm nay thì Sao Khuê phải tự mình đặt hàng nhé. Đừng lo, tôi ngồi bên cạnh, có gì tôi sẽ giúp.

Trống ngực đánh thùm thụp Sao Khuê run rẩy bấm số. Rồi thì cũng xong, tuy vậy không có bà thầy đố mầy làm nên. Sau đó thì công việc ro ro mà chạy, chạy giỏi nên từ trên xuống dưới, trong ngoài ai cũng quí mến. Khi vận mệnh đến lúc hanh thông thì cửa nào cũng mở thênh thang. “Chân thành cảm tạ xếp và đường dài hạnh phúc cầu chúc cho người”.

Tạm ổn về công ăn việc làm Sao Khuê bắt đầu tìm cách đi học, lấy lại bằng dược sĩ theo lời khuyên của cô em họ cũng là dược sĩ, mặc kệ giấy cam kết không xin hành nghề lại phải ký với di trú Quebec khi được họ cho giấy nhập cảnh. Than ôi, trâu chậm nên uống nước đục. Tỉnh bang Québec và đại học Montréal từ chối cho dược sĩ di dân học lại. Hèn gì họ bắt mình cam kết trước khi cho giấy nhập cảnh... Cửa này đóng thì gõ các cửa khác vây. May quá, cửa nhà nước Canada còn mở. Các dược sĩ có thể xin thi “Board Canada” sau khi thi đậu phần tương đương- Équivalent- sau đó thì có quyền hành nghề trên toàn cõi Canada. Để đậu phần tương đương (équivalent) thì, hoặc xin thi sau khi tự kiếm bài mà học, hoặc xin học một số tín chỉ của đại học Montréal gồm năm cours, kéo dài khoảng hơn hai năm. Con đường thứ hai này tuy chậm nhưng chắc vì lúc đó chúng tôi còn lớ nga lớ ngớ đâu ai biết bài thi hỏi gì mà học... Trong lúc chờ đợi đến đầu niên học để ghi danh thì hai vợ chồng Sao Khuê dầm mưa lội tuyết lạnh run cầm cập mà đi học Anh văn, Pháp văn mỗi tối.

Một năm sau thì Sao Khuê ghi danh...đi học. Đi mà không đi vì ban ngày phải đi làm. Lâu lâu có ngày được nghỉ làm thì Sao Khuê lên trường...xem mặt thầy, mang máy ghi âm theo ghi lén nhưng về nhà vẫn chẳng hiểu thầy nói gì!! Lại huhu... Mọi sự trông cậy vào cô bạn nhỏ gần nhà: cô đi học, cô mượn phần ghi cours của các em Việt Nam cùng học, cô nhanh chân copie khi ra chơi rồi phân phát cho các bạn và cuối tuần tụ tập nhau mà học. Cảm ơn Biển, em đã giúp đỡ Sao Khuê rất nhiều. Nhóm năm sáu người của Sao Khuê giúp nhau (cho copie cours), khuyến khích nhau mỗi khi có người chán nản muốn bỏ cuộc vì phần lớn ai cũng có gia đình con cái phải lo. Hai cái tay của Sao Khuê mỏi rã rời vì tra tự điển, tra tới tra lui, tra rồi ngày mai tra lại vì...quên. Mèn ơi, cái xứ này, bài giảng bằng tiếng Pháp, sách đọc bằng tiếng Anh khiến mình nhiều khi hiểu sai vì cấu trúc tiếng Anh và Pháp đôi khi ngược nhau. Bài ghi sau khi copie thì mờ, lại viết tắt, viết tháu, mở to mắt chưa đoán nổi... Học bài xong Sao Khuê làm thử câu hỏi thì...rớt. Sao Khuê hết hồn. Hoá ra cách học bên này khác bên Việt nam. Ngày Sao Khuê học ở Việt Nam, nỗi năm phải học thuộc lòng cỡ năm ngàn trang chia làm hai khoá thi, chưa kể phần thực tập. Vào thi, lỡ quên, có ai nhắc chút xíu thì chữ lại chạy ra, không thì...thi rớt. Bên này thi theo lối trắc nghiệm nên không có cảnh bỏ giấy trắng ra về, tuy vậy muốn đậu, Sao Khuê phải đổi cách học: học theo chiều sâu, hiểu kỹ để chọn đúng câu trả lời thay vì trải theo chiều rộng như xưa.

Trong lúc đi học thì Sao Khuê vẫn phải đi làm full time, Sao Khuê vẫn phải cơm nước, nuôi con, vẫn phải trả nợ tiền đã vay để vượt biên không thành, trả tiền vé máy bay cho năm người, Sao Khuê cũng còn phải gửi tiền về giúp đỡ gia đình khiến đôi lúc Sao Khuê...phục mình quá, viết thư khoe nhỏ bạn thì nhận được hồi âm: “tao thấy mày giỏi thật hay là mày đóng cái bàn thờ tự động, mày ngồi lên rồi lại nhẩy xuống mà vái mình! ”

Ngoài những lúc xuống tinh thần, lo âu vì thi cử, khổ sở vì không hiểu bài còn thì ui chao đời sống mới thật là vui vẻ thoải mái nhất là hai tháng hè tha hồ lấy xe bus rong chơi khắp thành phố Montreal hay đi câu cá tận Dorion hoặc họp nhau ăn uống. À không, cuối tuần của hai tháng hè mới được rong chơi thôi; vì tuy học trò nghỉ hè thì Sao Khuê cũng được nghỉ làm nhưng năm ngày trong tuần Sao Khuê vẫn đi làm: đi may - lúc này Sao Khuê may nghề rồi nghe - để tiếp tế gia đình chứ. Số vất vả nên mùa hè, nóng chẩy mỡ mà hàng ngày Sao Khuê phải ôm hàng trăm cái manteau mùa đông bằng dạ, nặng ơi là nặng lên may, may có mỗi một đường ráp gấu thôi vì may theo dây chuyền mà...

Ba đứa con của Sao Khuê được nhận vào học trường Collège Français miễn phí. Sao Khuê thuê nhà sát cạnh trường, gần nhà chú và nhà bác. Giờ nghỉ trưa Sao Khuê về làm cơm, bốn mẹ con cùng ăn, thế là tiết kiệm được không những tiền xe bus mà cả thời gian di chuyển và cũng không phải trân mình chịu lạnh chờ bus. Ui, ở gần chỗ làm sướng thật, tiết kiệm đủ thứ lại có cơm nóng ăn vào giờ nghỉ trưa. Sao Khuê học thím và bác làm giò chả nên ăn uống thả dàn. Thịt thà bên này quá rẻ, chỉ có rau quả mới đắt thôi...

Sau bữa cơm tối thì bốn mẹ con cùng học bài.“Ông càu nhàu” chui vào đại hạn vất vả, vẫn phải khuân vác nhưng cũng ghi danh học đại học Haute etude comercial (HEC) ban tối nên càng ngày càng cẩu nhầu cầu nhầu. Tóm lại cả nhà học. Không có TV, không có phim bộ, không có ăn tiệm, không có đi chơi. Những ngày lễ dài mấy mẹ con mới được sướt mướt theo “giòng sông ly biệt” hay “xóm vắng”... (phim bộ Hồng Kông). Mẹ thì thủ sẵn hộp kleenex, đến đoạn nào mùi thì cà rỡn: “Sửa soạn! Khóc! nên thay vì khóc mấy mẹ con lại cười sằng sặc! ”

Sau gần ba năm dùi mài kinh sử thêm một năm thực tập không lương. tổng cộng bốn năm Sao Khuê mang giấy hành nghề đi xin việc. Sao Khuê vừa làm phòng thì nghiệm vừa đi bán thuốc, cày hai job, đôi khi sáu bẩy chục giờ một tuần, full time ở trường học và khoảng hai mươi, hai mươi lăm giờ làm ở pharmacie nên Sao Khuê không có week-end cũng chẳng có shopping. Khi học trò nghỉ lễ thì Sao Khuê mới được nghỉ nhưng hè thì Sao Khuê lại làm thay cho các dược sĩ đi nghỉ hè khắp các tiệm thuốc xa gần của chaine Cumberland hồi đó. Cầy chết bỏ mà!! May quá ngày đó chẳng cần đi chợ. Mua gì thì đặt qua điện thoại, hàng giao tận nhà, Sao Khuê chỉ phải nấu ăn. Con gái rửa chén, ủi đồ, trông cho các em học, con trai giặt đồ, ông bố đi làm và đi học. Ổng dại qúa, chọn ngành mới nên học lại từ đầu, rồi ông cũng có bằng của HEC nhưng như thường lệ, bằng chỉ để treo!

Ngày đầu xin đi làm, trời xui đất khiến, Sao Khuê gọi cho Cumberland, là một chaine pharmacie lớn ngày đó (như Jean Coutu) xin làm ngày chủ nhật.

Khi đến để phỏng vấn, sau phần chuyên môn Sao Khuê bị hỏi ba câu ngoài lề:

- Tại sao bà đến Canada?

- Vì gia đình tôi tị nạn Cộng sản và Canada là xứ tự do.

-?

- Sống với Cộng Sản chúng tôi có thể bị cho vào tù bất cứ lúc nào chỉ vì lời nói nào đó!!

Bà này chưa biết gì về chuyên chính vô sản nên miễn bàn tiếp.

- Bà gặp trở ngại gì không?

- Có ạ, trở ngại ngôn ngữ. Tôi không nói, không nghe được nhiều tiếng Pháp nhất là tiếng Anh.

- Với thời gian bà sẽ khá hơn. Bà còn trở ngại gì nữa không?

- Canada lạnh quá sức!

- Cái lạnh này thì bà phải chịu cả đời...hắc hắc. Martine cười thành tiếng.

Bà Martine nhận cho tôi đi thực tập tiếp trước khi chính thức vào làm và lấy áo trên mắc trao trả tôi như khi bà đã treo manteau dùm tôi lúc đến. Tôi học được một điều: người có học, có đức thường cư xử lễ độ văn minh ngay với cả những người thua kém mình. Càng nhún nhường họ càng nêu cao phẩm giá của họ...

...Thời gian lặng lẽ qua, ba mươi năm rồi đó. Các con của Sao Khuê đã có gia đình và Sao Khuê vẫn đi làm chút chút. Sao Khuê thấy nhiều người gọi nơi mình định cư là đất tạm dung, riêng với Sao Khuê thì Canada là quê hương thứ hai, là chùm khế ngọt dẫu...đông lạnh. Đi du lịch, Sao Khuê rất hãnh diện khoe mình là Canadienne, đôi khi còn cầm theo lá cờ Quebec cho khỏi lạc nhau, vậy mà cũng có người nhận ra lá cờ hoa lys là của tỉnh bang Quebec thuộc Canada khác với cờ có hình lá phong phổ thông của Canada. Dân Quebec (Còi) rất dễ thương, thân thiện và ít kỳ thị chủng tộc nên các con cháu của Sao Khuê nhất định chọn nơi này làm quê hương mà không chịu kiếm đường qua nước Mỹ ấm áp kế bên.

Nhớ lại câu trả lời khi Sao Khuê vào gặp phái đoàn phỏng vấn Canada năm 1985:

- Tại sao gia đình bà chọn Canada?

- Tại vì chúng tôi yêu Canada.

- Hả? bà yêu cái tủ lạnh Canada? Ha ha, hắc hắc!! (ông Canadien cười ngất)

Dạ phải, thưa quí vị, tôi yêu Canada, cái tủ lạnh khổng lồ...nhưng ước chi mùa đông ngắn đi một nửa và cái lạnh bớt đi một phần ba nhỉ.

- Khi đó thì thiên đường này chỉ còn chỗ cho mỗi người đứng một chân mà thôi Sao Khuê ơi, mấy người giáo sư đã trả lời Sao Khuê như thế ngày Sao Khuê mới vào làm Collège Français...

OH! Vive Quebec et Vive Canada

Sao Khuê

Ngày 26 tháng 11 năm 2015

(Ngày Lễ Tạ Ơn "Thanksgiving USA" 2015)


Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Wed Feb 24, 2016 1:46 am    Tiêu đề: Hương Bưởi - Sao Khuê



Hương Bưởi

                                                         

Có ai đã leo lên cành Bưởi
Nhỏ lệ rưng rưng,  mắt đỏ au.
Ðâu biết bên kia khung cửa sổ
Có người đứng ngắm mà lòng đau.  

Sau thân cổ thụ,  tôi hằng ngắm
Ai tan học về để mộng mơ …
Tối đến đi qua còn đi lại…
Phải chi mà mình biết làm thơ. . .  

Uớc gì sát vách,  ta:   hàng xóm,
Lùa vào khe cửa một tờ thư. . .  
Thì cũng do mình hay mắc cở
Chỉ dám theo xa,   Em chẳng chờ.

Ví thử hai nhà chung hàng giậu
Rồi con bướm trắng sẽ bay sang.. .  
Tôi sẽ ngắm Em đi qua lại
Phất phới tung bay áo lụa vàng

Hay là.. .   tôi ước thành Thi Sĩ
Mái tóc bềnh bồng,  hai vai gầỵ
Không còn lưỡng lự,  tôi sẽ đến
Trao tặng cho Em tập thơ dày. . .  

Dáng Em đem khắc vào tâm tưởng
Khổ tôi đêm nhớ với ngày thương
Thu ba,  Em nghiêng làn sóng nhỏ
Lòng tôi lảo đảo,  sóng đại dương.

Tôi viết,  viết ra rất nhiều lời
Nhưng rồi lại xé nát tả tơi.
Hương thừa trong gió còn thoang thoảng
Mà gót sen kia đã cách rời. . .  

Trần gian,  một thuở tôi đi lạc
Nhưng chẳng quên đường xanh lá me.
Sau gốc me già thân to lớn
Tôi vẫn chờ Em tan học về

Phải chi tôi có nhiều can đảm
Sẽ  chận Em về để hỏi thăm.
Lá thư sẽ nối liền.. .  khoảng cách
Tôi,  Em hôn ước kết trăm năm.

Em đã về đâu,  cánh hoa rơi…
Thư tôi chưa gửi đã tả tơi.
Quăng bút từ nay thư không viết
Và cũng từ nay. . .   bặt tiếng cười.

Sao Khuê


Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Tue Mar 08, 2016 12:47 am    Tiêu đề: NGƯỜI XƯA - Sao Khuê



NGƯỜI XƯA


Đố ai nằm võng không đưa

Đố ai gặp được người xưa chẳng nhìn    


Người Xưa

Tình cờ nhớ đến người xưa

Lao xao sóng vỗ vào bờ vấn vương

Vườn xưa quỳnh nở ngát hương

Vàng xưa đêm tỏ lối mòn đường đi

Mây xưa hồng tím bờ mi

Cỏ xưa thơm ngát xuân thì rạng đông

Sông xưa nước trải mênh mông

Hương xưa thoang thoảng thuyền không mơ hồ

Tuyết xưa ghi dấu chân di

Người xưa,  xưa đã rời đi nơi nào?

                 Sao Khuê


Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Thu Apr 27, 2017 11:42 am    Tiêu đề: Để Tang Cho Sách


Để Tang Cho Sách


Để tang cho sách

Khuất Đẩu

(Sao Khuê sưu tầm)

Bà tôi thường than thở, hết một nửa cơ nghiệp của nhà này đã tan tành theo sách. Một nửa cơ nghiệp nói cho to, cho xứng với nỗi đau tiếc của của bà, chứ thực ra chỉ vài trăm cuốn sách của ông tôi thôi. Có điều, đó không phải là những quyển sách bèo nhèo giấy rơm thô kệch, đang tràn ngập trong các hiệu sách, trong trường học và trong thư viện.

Chưa nói tới nội dung, chỉ mới lật qua vài trang mờ nhoẹt vàng đục với những con chữ ốm o đói khát như những người bị sốt rét rừng là đã thấy chán lắm rồi.

Sách của ông tôi, bạn chỉ ngắm không thôi cũng đã thấy thích. Những cuốn tự điển của Pháp, của Việt, thư pháp của Trung Hoa, những sách thuốc, sách khoa học, những bộ tiểu thuyết của các nhà văn danh tiếng, những sách học làm người, những sách triết... đứng sát bên nhau phơi cái gáy mạ vàng như cả một đội ngự lâm quân thông thái và oai vệ. Trang nghiêm nhưng không lạnh lẽo, bọn họ là thầy là bạn của ông tôi. Và vì vậy, bạn cũng như tôi chỉ được phép đứng nhìn mà thôi.

Ông tôi là một người mê sách (cũng lại là cách nói vừa tấm tức vừa giận hờn của bà) mê hơn cả vợ con. Nếu bảo rằng “thư trung hữu nữ nhan như ngọc”, thì ông tôi tuy đã già nhưng lại có đến những mấy trăm người đẹp như các vua chúa ngày xưa, nên bà tôi “ghen” cũng phải.

Ông mê sách như người mê đồ cổ. Nghe ở đâu có sách quý là ông tìm tới dù có phải tốn kém tàu xe và phải bỏ ra cả một mòn tiền lớn để “rước” người có nhan như ngọc đó về, ông cũng dám chơi một phen cho thõa chí. Như cuốn Tự vị của Paulus Của, nghe đâu như là ấn bản đầu tiên của một ông cụ nào đó bắc bực làm cao đến tận giời, ông tôi đã phải lặn lội vào tận xứ Thủ Dầu Một xa lắc xa lơ để mua cho bằng được. Công cuộc mua quyển sách đó, chẳng những khiến ông mất đến mấy chỉ vàng, mà còn ốm một trận thừa sống thiếu chết.



Cuốn sách cũ đến nỗi như đã ngàn năm tuổi. Còn hơn một người chơi đồ cổ, ông tôi lại phải tốn thêm một món tiền và nhất là tốn rất nhiều thì giờ để nài nĩ và kiên nhẫn ngồi chờ anh thợ đóng sách đóng lại giùm. Lúc này quyển sách đối với ông như một con bệnh thập tử nhất sinh và anh thợ đóng sách cứ như một bác sĩ. Khi anh thợ tháo bung sách ra, ông đau nhói như thể gan ruột của mình cũng bị lôi ra như thế. Ông hồi hộp theo dõi từng mũi chỉ khâu, nín thở xem anh ta cắt xén, làm bìa. Cho đến khi sách được làm mới một cách khỏe mạnh, xinh đẹp, ông ôm quyển sách trước ngực như một người mẹ ôm đứa con bé bỏng vừa được bác sĩ cứu sống. Ông hết lời cảm ơn anh ta, đưa cho anh một tờ tiền lớn và hào phóng không nhận tiền thối lại. Đem quyển sách về nhà, ông lại mất cả buổi ngồi ngắm đến nỗi quên cả bữa cơm khiến bà tôi phải giục.

Đó là với những sách cũ quý hiếm. Còn sách mới, ông lại “phá của” một cách không giống ai. Sách nào ông cũng phải mua đến những hai quyển, một để đọc và cho mượn, một để nguyên không đụng tới. Những quyển sách để nguyên ấy nằm im trong tủ kính, mỗi lần mở ra là thơm nồng mùi giấy mới và mực in. Đối với ông, đó là một mùi thơm huyền hoặc đầy quyến rủ và mê đắm như những người nghiện nghe thấy mùi thuốc phiện. Chẳng những chỉ mùi thơm trinh nguyên không thôi, quyển sách vẫn còn trinh trắng khi hãy còn những lề chưa rọc.

Học cách người xưa, không để của cải cho con cháu mà để sách, nên giá như có phải vì thế mà tiêu hết cả cơ nghiệp, ông tôi cũng không tiếc. Chỉ có một điều khiến ông băn khoăn, ấy là trong đám con cháu thực sự chưa có một người nào đủ để ông tin tưởng. Gạt hết những đứa chỉ biết có nhà to xe đẹp, những đứa chỉ biết vung tiền trong các cuộc ăn chơi, suốt một đời chưa đụng tới một quyển sách nào, những đứa mà ông bảo là trong đầu toàn chứa những thứ vớ vẩn nếu không muốn nói là hôi thối ấy, còn lại chỉ vài đứa có để mắt tới sách, nhưng với một thái độ hờ hững, một đôi khi thô bỉ xúc phạm đến sách.

Ông ghét nhứt ai đó đọc sách mà miệng cứ nhai nhồm nhoàm, vừa đọc vừa tán chuyện, bạ chỗ nào cũng đọc ngay cả trong nhà cầu, đang đọc mà có ai ới lên một tiếng là ném ngay cái xạch sau khi đã tàn nhẫn xếp lại một góc để làm dấu, rồi bỏ đi mà không cần biêt tới quyển sách có thể bị ướt, bị bẩn hay bị cháy. Ông cũng không chịu được cái cách lật sách thô bạo bằng cả bàn tay úp lên trang giấy hay thấm nước bọt trên đầu ngón tay. Đó là cách cư xử của kẻ phàm phu tục tử, của phường giá áo túi cơm. Lật sách mà như thế có khác gì sàm sỡ nếu không muốn nói là cưỡng bức. Phải lật như những nhà sư nâng nhẹ một trang kinh hay là như khẽ lay một người đẹp đang ngủ.

Đối với ông, đọc sách là để được tiếp cận với những tâm hồn ngoại hạng, cho nên trước hết phải tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc chỉnh tề, phải “dọn mình”như con chiên quỳ trước Chúa, như nhà sư đảnh lễ trước bàn thờ Phật. Chẳng những sạch ở phần xác mà còn sạch cả phần hồn. Nghĩa là không để những giận hờn phiền muộn hay những ý nghĩ ô trọc dính bám cho dù chỉ một tí trong đầu. Chỉ đọc trong lúc thanh tịnh giữa khuya hay khi gần sáng tinh mơ. Đọc với hương trầm cọng với mùi hương ngai ngái của giấy mực, hương của sương đêm loáng thoáng hay hương của nước mưa mát dịu. Đọc là mở hồn ra để hơi thở của sách ùa vào căng buồm lên cho con thuyền bé nhỏ của mình được dọc ngang trên biển học mông mênh.

Đương nhiên là ông tôi khó tính nhất nhà. Cái viện sách bé nhỏ của ông là một nơi khả kính, thâm nghiêm như một ngôi đền không một ai ngay cả bà tôi dám động tới. Bảy mươi năm sống trên đời của ông thì hết một nửa là ở trong cái gian phòng đựng đầy sách với mùi hương và sắc màu của những tâm hồn kỳ vĩ. Dạo ấy, mặc dù được cưng chiều và rất có triển vọng được ông tin tưởng, tôi cũng chưa được một lần đọc một quyển sách nào trong tủ sách ấy. Ông bảo tôi chưa đủ tuổi và chưa học được cách nâng niu gìn giữ theo cách gần như tôn thờ, thì đọc chẳng ích lợi gì mà còn “giết” sách. Theo ông, đọc vì tò mò, đọc như “lua cơm”, đọc như ngốn ngấu thì cả đầu óc mình chỉ là một bãi hoang chứa đầy những xác chết của sách bị vất ngổn ngang mà thôi. Đọc là phải ngấm từng chữ từng câu, phải để nó bén rễ trong đầu mới có thể thành cây cho trái ngọt.

Năm tháng qua đi, ông tôi âm thầm làm một cuộc chuyển giao lặng lẽ. Tiền bạc trong nhà cứ cạn dần nhưng sách của ông lại đầy lên, phải đóng thêm tủ kê thêm kệ. Cô chú tôi biết ý ông, nên mừng tuổi không bằng trà ngon rượu bổ, mà bằng những phong bì ít nhất cũng đủ cho ông mua được một hai quyển sách. Những lúc ấy ông vui như một đứa trẻ lên 5 được nhận tiền lì xì. Rồi ông đi ra tiệm sách, khệ nệ ôm về những chồng sách mà ông ao ước nhưng chưa đủ tiền mua. Ông ve vuốt từng cái bìa, ngắm nghía từng con chữ, đê mê những sách của Lá Bối, An Tiêm, mơ màng với những tác giả Saint Exsupéry, Bùi Giáng... Giá như ông sống đến một trăm tuổi và giá như ông còn có đủ tiền thì cái viện sách của ông sẽ kín đặc những sách. Ông sẽ ngồi giữa những bức tường dày cộm thơm tho đó như một anh lính già đang tử thủ trong một cái lô cốt văn hóa.

Sau tháng tư năm ấy, cái tháng tư mà dù nằm dưới mộ sâu ông vẫn còn đau đớn, những cuốn sách của ông tưởng sẽ sống đến ngàn năm đã bị bức tử một cách oan nghiệt.



Khi người ta đội lên đầu những quyển sách của ông, có những quyển già như một ông tiên đầu bạc, có những quyển xinh tươi như những thiếu nữ trẻ trung, những chiếc mũ có tên là “nọc độc”, là “đồi trụy”, là “phản động” thì hơn ai hết ông hiểu đó là một lời tuyên án tử hình. Ông suy nghĩ lung lắm, không phải để tìm cách chôn dấu hay tẩu tán. Mà suy nghĩ làm sao để chọn cho sách một cái chết xứng đáng với lòng tin yêu và kính trọng của ông.

Một đêm thức trắng.

Rồi hai đêm thức trắng.

Ngày thường ông bình tĩnh là thế nhưng lúc này, ông bối rối run rẩy. Có lúc mặt ông đỏ bừng và mắt ông lóe lên những tia lửa căm hờn. Cả nhà chẳng ai dám hỏi nói gì với ông. Giống như một con sư tử già bị săn đuổi cùng đường, lâu lâu ông lại gầm lên một cách tuyệt vọng.

Cuối cùng ông đã chọn cho mấy trăm cuốn sách một cái chết dũng cảm. Đó là chính ông tự mình đốt sách.

Một quyết định cháy lòng.

Tôi cũng được dự phần trong cuộc hỏa thiêu đau đớn ấy, bằng cách giúp ông bê hết sách ra sân. Dù đem đi đốt nhưng ông không cho phép tôi làm rơi rớt xuống đất, không được nặng tay, mà phải sẽ lén nhẹ êm như đang bồng một em bé say ngủ. Phải rồi, những cuốn sách của ông đang say ngủ. Đánh thức chúng dậy, ông sẽ không chịu nổi những tiếng khóc mà chỉ riêng ông mới nghe được mà thôi.

Sách được xây thành một cái tháp quanh những thanh củi chẻ nhỏ. Ông không muốn đốt chúng bằng xăng hay dầu. Ông lại càng không muốn xé sách ra từng mảnh nhỏ để đốt. Xé ra là làm chúng đau. Và làm cho chúng đau trước khi chết là tội ác. Một người coi sách là sinh vật sống, để cả đời nâng niu bồng ẳm, vậy mà phải giết do chính bàn tay của mình, bạn phải biết là ông tôi đã đau khổ đến nhường nào.

Đó là một đêm tháng năm lặng gió. Cây cối im ngủ. Những ngôi sao như tan đi trong khói trời mờ đục. Ông tôi cử hành lễ đốt sách cũng bi tráng và lẫm liệt như Huấn Cao cho chữ trong ngục. Ông mặc toàn đồ trắng, cắm một cây đuốc giữa trời, khấn khứa rì rầm rồi lạy bốn hướng mỗi nơi một lạy. Xong ông lấy cây đuốc đang cháy đặt vào giữa tháp. Dứt khoát và quyết liệt như cái cách các võ sĩ đạo đâm kiếm vào bụng.

Lửa bắt rất nhanh, chỉ trong phút chốc đã bắn vọt lên đầu ngọn tháp.

Đã nghe mùi mực và mùi giấy.

Đã nghe tiếng vặn mình của các bìa sách.

Đã nghe những âm thanh líu ríu như run như rẩy của những trang sách méo mó cong vênh.

Lửa trào ra như từ miệng hỏa diệm sơn.

Lửa ôm choàng lấy sách, hôn dữ dội bằng đôi môi bỏng cháy.

Sau cùng, cái tháp bằng sách đỏ rực như một trái tim để lộn ngược.

Ông tôi ngồi xếp bằng, cố giữ nét mặt trầm tĩnh một cách cao cả. Không một giọt nước mắt cho dù là vì khói cay xè. Ông như thượng tọa Thích Quảng Đức đang ngồi kiết già với ngọn lửa bao quanh. Có thể nói, chính ông cũng đang tự thiêu. Bất giác tôi cảm thấy muốn khóc vì lo sợ. Đến một lúc nào đó, biết đâu ông đứng bật dậy bước thẳng vào ngọn lửa.

Ông chết theo sách.

Đó là một cái chết đẹp, xứng đáng với một người yêu sách như ông.

Nhưng ông chưa muốn chết vì ông còn phải để tang cho sách như một đứa con chí hiếu. Ngay lúc lửa tàn, ông quỳ xuống lạy ba lạy. Rồi ông kiên nhẫn ngồi đợi cho tất cả biến thành tro nguội. Ông bảo tôi hốt tro vào bao, cất vào tủ rồi mới chịu đi vào nhà. Gần như suốt đêm ông không ngủ. Bà tôi than thở là nghe tiếng dép của ông kéo lê lệt sệt mãi tới tận sáng.

Hôm sau, ông bảo tôi thuê thợ đóng nhiều chiếc hộp để đựng tro. Mỗi chiếc để một ngăn tủ. Ông khóa lại và dặn không được dùng vào việc gì khác ngoài việc gìn giữ những chiếc quách ấy. Hơn 30 năm sau, cái tủ đựng đầy những hộp tro vẫn đứng im đó như một nhà mồ. Ngày giỗ ông, chúng tôi cũng đem một bát nhang đến thắp trên đầu tủ. Có cảm giác như hồn ông và hồn sách cùng lảng đảng bay về.

Vẫn chưa hết chuyện về ông tôi đâu. Một tháng trước ngày mất ông muốn tôi làm cho ông những tấm mộ bia bằng giấy. Ông đưa tôi một danh sách dài những quyển sách bị đốt, cứ mỗi tấm bia đề tên một quyển sách. Hơn mấy trăm cái bia như thế, phải mất cả tuần mới làm xong. Những mộ bia không có ngày sinh nhưng có chung một ngày tử. Chúng được xếp lên kệ thay cho hàng trăm cuốn sách đã chết tập thể.

Cả viện sách của ông giờ đây biến thành một nghĩa trang.

Ông trịnh trọng chít khăn trắng, lên nhang đèn rồi cung kính khấn vái như trước bàn thờ tổ tiên. Trong những lời rì rầm, nhiều lúc bỗng vang lên như tiếng khóc, ta là người có tội, có tội. Theo như tôi hiểu đó là cái tội không bảo vệ được sách, tội với các tác giả, tội với những thợ sắp chữ ở nhà in và xa hơn nữa là có tội với giấy và mực.

Ông biết ơn họ bao nhiêu thì bây giờ ông ray rứt vì mình có tội bấy nhiêu.

Từ đó ông ăn ít ngủ ít. Ông đem từng tấm bia đặt lên bàn, lặng lẽ ngồi ngắm hằng giờ như đang đọc sách. Mỗi tấm bia gợi nhớ đến màu bìa, co chữ, tranh vẽ và cả nội dung mà chỉ có ông mới thấy được, hiểu được. Ông như sống lại những năm dài trước đó với những niềm vui kín đáo khi tìm được sách quý, hay mua được những sách hay. Những lần như thế, ông tự thưởng cho mình khi thì một bình trà, lúc một chung rượu hay tách cà phê và những điếu thuốc thơm thay cho hương trầm.

Rồi đến một lúc ông không ăn mà cũng chẳng ngủ. Người ông khô kiệt tái xám. Ba tôi và các chú đi cải tạo chưa về đương nhiên là khoét sâu vào hồn ông những nỗi buồn lo khôn nguôi. Nhưng dù vậy, tận cùng của đêm thì cũng phải sáng. Ông có thể đợi đến mười năm hay hai mươi năm. Chỉ có những quyển sách bị đốt là không đợi được. Ông nói với bà, biết trước như vầy tôi đã để hết tiền cho bà chứ mua sách làm chi. Bà tôi cay đắng, ai mà có con mắt sau lưng.

Buổi chiều cuối cùng ngồi bóp chân cho ông, tôi nghe ông hỏi, cháu thấy ông thế nào? Tôi nói, dạ, ông nên ăn chút cháo, trông ông gầy lắm. Không phải, ông nói, da ông thế nào, đã ngã thành màu đất chưa? Không biết da màu đất là màu gì, tôi nói đại, chưa ông à. Ngã màu đất là sắp chết đấy cháu, ông nói. Ông đã có ý để lại sách cho cháu, nhưng ta tính làm sao được bằng trời tính. Cháu nhớ giữ giùm ông cái tủ và mấy cái kệ.

Nghe ông nói, tôi thấy da ông quả thật rất giống với màu đất bạc phếch, lạnh lẽo ở nghĩa địa. Da ông là da của một người đã chết từ lâu nhưng chưa chôn. Hay là ông đã chết từ cái đêm hôm ấy. Hồn ông đã cùng với hồn sách nương theo khói bay lên tận trời cao. Cái miền đất ồn ào đầy ô trọc và thù hận này biết đến bao giờ mới lại có được những con người, những quyển sách biết yêu quý tương kính lẫn nhau như thế. Chính lúc này tôi mới thấy thấm thía nỗi đau mất sách của ông.

Tôi vừa buông tay ra thì ông ngừng thở. Ông chết nhẹ nhàng như gấp lại một cuốn sách.

Tính ra, ông đã để tang cho sách đúng một trăm ngày.

Khuất Đẩu


Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Fri Jan 29, 2021 9:49 pm    Tiêu đề: CHIA TAY - Sao Khuê



CHIA TAY

Em quay về phố nhỏ
Buồn hắt hiu tàn thu
Anh quay về ngơ ngẩn
Chân bước thầm mộng du
Xa rồi anh có nhớ
Nhớ chiều vàng năm xưa
Xa rồi em có nhớ
Lời tỏ tình bâng quơ

Mùa thu nào gặp gỡ
Mùa hè nào đôi ta
Mùa đông nào phôi pha
Rồi thu về chia xa
Chia xa....

Tình yêu nào thầm kín
Thành chuyện tình đôi ta
Con mắt nào đong đưa
Con mắt nào biết thưa

Đưa anh về lối nhỏ
Nụ hoa vàng lưa thưa...
Tình yêu nào chưa ngỏ
Thành chuyện tình ngày xưa...
Ngày xưa ...ngày xưa ......
Sao Khuê


Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Sat Feb 06, 2021 2:45 pm    Tiêu đề: HÀNH PHƯƠNG BẮC ~ HÀNH PHƯƠNG NAM

HÀNH PHƯƠNG NAM
(Nguyễn Bính)

Đôi ta lưu lạc phương Nam này
Trải mấy mùa qua én nhạn bay
Xuân đến khắp trời hoa rượu nở
Mà ta với người buồn vậy thay

Lòng đắng sá gì muôn hớp rượu
Mà không uống cạn mà không say
Lời thề buổi ấy cầu Tư Mã
Mà áo khinh cừu không ai may

Người giam chí lớn vòng cơm áo
Ta trí thân vào nợ nước mây
Ai biết thương nhau từ buổi trước
Bây giờ gặp nhau trong phút giây

Nợ thế chưa trả tròn một món
Sòng đời thua đến trắng hai tay
Quê nhà xa lắc, xa lơ đó
Ngoảnh lại tha hồ mây trắng bay

Tâm giao mấy kẻ thì phương Bắc
Ly tán vì cơn gió bụi này
Người ơi buồn lắm mà không khóc
Mà vẫn cười qua chén rượu đầy

Vẫn dám tiêu hoang cho đến hết
Ngày mai ra sao rồi hãy hay
Ngày mai có nghĩa gì đâu nhỉ?
Cốt nhất cười vui trọn tối nay

Rẫy ruồng châu ngọc, thù son phấn
Mắt đỏ lên rồi cứ chết ngay
Hỡi ơi Nhiếp Chính mà băm mặt
Giữa chợ ai người khóc nhận thây

Kinh Kha giữa chợ sầu nghiêng chén
Ai kẻ dâng vàng, kẻ biếu tay?
Mơ gì ấp Tiết thiêu văn tự
Giày cỏ gươm cùn ta đi đây

Ta đi nhưng biết về đâu chứ?
Đã đẩy phong yên lộng bốn trời
Thà cứ ở đây ngồi giữa chợ
Uống say mà gọi thế nhân ơi!

Thế nhân mắt trắng như ngân nhũ
Ta với nhà ngươi cả tiếng cười
Dằn chén hất cao đầu cỏ dại,
Hát rằng phương Nam ta với ngươi.

Ngươi ơi! Ngươi ơi! Hề ngươi ơi!
Ngươi ơi! Ngươi ơi! Hề ngươi ơi!
Ngươi sang bên ấy sao mà lạnh,
Nhịp trúc ta về lạnh mấy mươi...


Đa Kao 1943

HÀNH PHƯƠNG BẮC

Họa bài Hành phương Nam của

Nguyễn Bính



Chúng ta lưu lạc đến chốn này

Quá nửa đời người , tuyết lạnh bay

Xuân đến mà không mai vàng nở

Rượu bánh ê hề - chẳng thể thay !

&

Đối ẩm một mình lưng ly rượu

Bạn hiền vắng bóng, chẳng hề say.

Nhớ lại bẩy lăm , người qua Mỹ

Ta thì kẹt lại , phận không may !

&

Từ đó quẩn quanh vòng cơm áo

Thừa phút giây nào, vơ vẩn mây.

Người đã ra đi từ buổi trước

Có nhớ tình ta trong phút giây

&

Nợ ta - ai vẫn còn một món´.

Tình - tiền - ta trắng cả hai tay !

Quê người xa lắc xa lơ đó ,

Còn nhớ chăng người , áo trắng bay

&

Thế rồi di tản qua phương Bắc

Nhìn lại quê xưa , khổ thế này !

Nhiều đêm ta muốn ôm mặt khóc

Mà lệ không đong đủ giọt đầy

&

Đi không trở lại - thôi là hết !

Mẹ già, em dại , phận nào hay

Ngoảnh lại, chỉ thấy hờn non nước

Biệt ly - xa cách - từ buổi nay !

&

Áo cơm , đèn sách, quên son phấn

Muốn ngã, nhưng rồi đứng dậy ngay

Gió đông se lạnh , tê cả mặt

Bão tuyết, bão đời, vẫn tòan thây

&

Nam nhi vơi nỗi sầu cạn chén

Còn ta - ai là kẻ dìu tay

Bạn cùng sách vở - kinh vô tự

Hữu với thiên nhiên , dạo đó đây

&

Quê nhà - nên trở về thăm chứ

… Sầu hận dâng lên .. ngút tận trời 1

Bạn ta – có kẻ ngồi giữa chợ

Gõ bồn mà gọi : Việt nam ơi !

&

Nhưng tiền vẫn trắng như ngân nhũ

Gái , rượu , ăn chơi, rộn tiếng cười

Việt Nam ơi ! Hỡi - Việt nam ơi !

Xứ nóng nhưng tình sao lại lạnh

Ta đứng trông về - lạnh mấy mươi !


Sao Khuê



Ngâm thơ Hành Phương Nam - Nguyễn Bính

Giọng ngâm Lệ Ba

PPS Hung Duong




Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Mon Feb 15, 2021 3:07 am    Tiêu đề: KHAI BÚT ĐẦU NĂM

KHAI BÚT ĐẦU NĂM

Người xưa khai bút giấy hoa tiên
Khăn đóng, áo dài, bút, mực, nghiên
Nhấp giọng, trà thơm, tay thảo chữ
Chào mừng năm mới tới ngoài hiên
Ngày nay khai bút, khai máy tính
Gõ nhẹ vài hàng I pad xinh
Sáng lạnh, nằm ườn, chăn nệm ấm
Lòng vui đón Tết với màn hình
Khai bút đầu năm, mình chúc mình
Tâm an, trí huệ, nắng bình minh
Lòng thương rộng mở bao trùm khắp
Bác ái, từ bi, tu tấn tinh
Kính chúc người người trong đời sống
Mọi điều ước nguyện được thành công
Tâm lành, mạnh khỏe, vui, an, lạc
Thế giới: hòa bình, vận đến, thông!
Sao Khuê

Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Thu Mar 11, 2021 8:29 am    Tiêu đề: VỢ CHỒNG KHẮC KHẨU.

VỢ CHỒNG KHẮC KHẨU.
Bao giờ đi chợ chị Bông cũng đến khu trái cây trước để hi vọng chọn lựa được những thứ tươi ngon kẻo người khác chọn mất khi nhân viên trong chợ chưa kịp bày hàng khác ra. Đi chợ “bon chen”.là thế.

Chị Bông đang lựa những trái chuối màu vàng tươi da mịn màng cho đúng ý thì gặp một ông người Việt Nam lớn tuổi cũng vừa đến và đứng xớ rớ trước quầy chuối, chị Bông nghĩ chắc bác gái đang bận mua rau mua cá nên chia việc cho ông chồng mua chuối chăng?

Chị đến gần ông và ân cần hỏi:

- Bác ơi để tôi lựa chuối giúp. Bác cấn mua mấy pound?

- Chị lấy cho tôi 3 qủa.

- Sao mua ít thế? Bác gái dặn mua mấy pound?

Nghe nhắc đến “bác gái” ông gìa khoảng 80 tuổi được dịp khai ra làm như đã quen chị Bông từ đời nào rồi:

- Tôi và bà ấy ở riêng, ăn riêng. Bà về ở với vợ chồng đứa con gái chỉ thỉnh thoảng tạt về nhà, còn tôi ở nhà một mình, ăn 3 qủa chuối đủ rồi chị ạ.

Chị Bông tò mò khai thác:

- Chắc bác gái về ở phụ giúp cho con cho cháu chứ nỡ lòng nào để bác trai lui cui một mình?

- Bà ấy đi thật đấy vì tôi với bà khắc khẩu, hễ tôi nói điều gì là bà ấy cãi, ngược lại bà nói câu gì tôi cũng cảm thấy ngứa tai lắm nhịn không nổi. Thế là hai vợ chồng cãi nhau cả ngày lẫn đêm.

- Sao lại cãi nhau cả ban đêm hở bác?.

. Ông gìa tâm sự:

- Hai vợ chồng ở nhà diện housing, thuê căn chung cư 1 phòng ngủ, cái giường ngủ của con gái mua cho rộng mênh mông, bà ngủ hay đạp lung tung tôi đã nhịn, đêm lục đục ngồi dậy đi tiểu mấy lần tôi cũng nhịn, nhưng bà ấy lại không chịu nhịn tôi, cứ phàn nàn là tôi ngủ ngáy ầm ĩ như người ta cưa gỗ. Tôi lại nhịn lần nữa, phải kê cái giường nhỏ ngoài phòng khách để ngủ thế mà vẫn không yên, bà vẫn kêu ca tiếng ngáy của tôi…vang vọng vào bên trong làm bà mất ngủ kinh niên. Thành ra đêm nào đi ngủ cũng cãi nhau và cả hai cùng mất ngủ

- Nhưng ngày xưa bác ngủ có ngáy to thế không? Ăn ở với nhau bao nhiêu năm bác gái không quen thuộc với tiếng ngáy của chồng sao?

- Ngày xưa cái hồi mới cưới nhau, bà ấy thường nũng nịu rằng tiếng ngáy của anh ru em vào giấc ngủ thần tiên. Nhưng bây giờ bà trở mặt bảo tiếng ngáy thô lỗ của tôi làm ảnh hưởng tuổi gìa khó ngủ của bà ấy. Tôi liền bảo vậy bà đi đâu thì đi cho bà ngủ ngon và cho tôi khuất mắt, bà liền cuốn gói đến nhà con gái.

Chị Bông an ủi:

- Tuổi gìa ai cũng đổi tính đổi nết bác ạ, đừng nên trách bác gái.…

Ông đưa tay lên vuốt mấy sợi tóc may mắn còn loe ngoe trên cái đầu hói mênh mang:

- Mỗi lần tôi đi ra tiệm cắt mái tóc này phải cãi nhau xong một trận mới đi được vì bà mắng tôi đầu có 3 cọng tóc cắt làm gì cho phí tiền, để bà ấy cắt cho. Mà bà cắt thì tôi không vừa ý tí nào, bắt tôi nghiêng đầu bên này, ngoẹo đầu bên kia rồi cúi lên cúi xuống mỏi cả cổ mãi mới xong.

Chị Bông giật mình nghĩ tới vợ chồng chị. Hai vợ chồng cũng khắc khẩu, đụng tới chuyện gì cũng bất đồng, cũng tranh cãi. Không biết mai kia vợ chồng chị gìa như bác này có đổi tính đổi nết và tình trạng khắc khẩu có trầm trọng thêm không?

- Thế bác tự đi chợ tự nấu cơm hả bác?

- Bà ấy hay con gái mang đồ ăn sang cho tôi, thỉnh thoảng tôi cần thứ gì thì đi mua thêm như ngày hôm nay cần 3 qủa chuối, nhà tôi cách chợ này chỉ một block đường tôi đi bộ cho khỏe người

- Đằng nào cũng công đi bộ, công vào chợ và công đợi tính tiền sao bác không mua hẳn mấy pao chuối

- Ấy, bà ấy ở nhà cũng nói y như chị nói và mắng tôi là lẩm cẩm.. Thôi, chào chị tôi về trước nhé.

Ông xách cái bịch có 3 qủa chuối đi ra phía quầy tình tiền và chắc phải xếp hàng rồng rắn khá lâu vì hôm nay cuối tuần chợ đông người..

******************

Chị Bông đi chợ về đến nhà, xách các túi hàng vào trong bếp nơi gần cái tủ lạnh. Anh Bông đang nằm gác chân trên ghế sofa xem ti vi..Chị đi ra đi vào mấy lượt mà anh chẳng nói gì, chị phải lên tiếng:

- Anh có ra xách giùm mấy món hàng chợ không nào?

- Không ! Giọng anh Bông rõ ràng và dứt khoát.

Chị Bông khó chịu:

- Vợ đi chợ về bận túi bụi còn chồng ngồi khểnh ra đấy xem ti vi và uống bia, vợ nhờ một tí không được.

Anh Bông đang uống bia chắc có chút men nên gắt:

- Anh cắt cỏ xong mới vừa tắm rửa và ngồi xem ti vi đây, cái lối nói “nhờ vả” như “sai khiến” của em thì dù anh muốn giúp cũng không thèm giúp.

- Vậy anh muốn em nói thế nào? Năn nỉ hả? Thì đây, anh ơi làm ơn làm phước ra xách giùm em mấy túi hàng, em cám ơn anh suốt đời.

- OK, dù giọng nói của em đành hanh và mỉa mai.

Anh Bông ra xe xách nốt những túi hàng vào nhà và phụ vợ lôi hàng ra để chị Bông xếp vào tủ lạnh cho nhanh. Anh cầm gói đồ biển thập cẩm đông lạnh lên ngắm nghía rồi thảng thốt:

- Sao em mua hàng China? Trong khi chính miệng em thường nói tẩy chay hàng của họ vì nhiều hàng rổm và độc hại…

Chị Bông cầm gói hàng lên xem lại và bào chữa:

- Tại hôm nay đi chợ em… quên mang theo mắt kính, mà hàng Trung Quốc nào cũng chuyên môn in xuất xứ nhỏ xíu hay mập mờ không rõ nguồn gốc. Nhìn sơ sơ mẫu mã em cứ tưởng hàng của Korea.

- Em thì lúc nào cũng tưởng đến hoang tưởng, cũng có lý do chính đáng cho những sai sót của mình. Hôm nọ cũng mua lộn hàng China rồi…

- À, hôm ấy em lộn kiểu khác, em xớn xác đọc thấy hàng chữ CA, USA em… tưởng sản xuất tại California USA hóa ra là distributed là phân phối bởi công ty ở California, USA. Mà họ láu cá lắm, “Product of China” thì in nhỏ xíu, công ty distribute tại CA, USA thì in to tổ bố hỏi ai không lầm

- Họ tự ti mặc cảm với chính món hàng mình sản xuất, nên không dám in to in đậm, đúng là thứ làm ăn gian dối. Em phải ra chợ trả lại ngay gói hải sản thập cẩm này. Anh thà nhịn chứ không ăn hàng rổm, là vô tình ủng hộ cách làm ăn gian dối của họ.

- Vâng, em sẽ trả lại Anh yên chí đi

Chị lấy lòng chồng, vì biết anh Bông rất bất mãn Trung Quốc chiếm đất chiếm biển của Việt Nam :

- Em không ưa gì Trung Quốc ngoài cái tội làm hàng rổm, hàng gỉa dối cả thế giới đều biết, còn tội bá quyền hà hiếp các nước láng giềng. Họ cướp đảo cướp biển, cướp đất của Việt Nam chúng ta, em thích những phản ứng mạnh mẽ của Nhật Bản và Philippine, cầu mong 2 nước này cho Trung Quốc bài học đích đáng..

Nhưng anh Bông chẳng vừa lòng mà còn khiển trách:

- Em nói như diễn kịch, lúc này lúc nọ ai mà tin nổi, một mặt chê trách Trung Quốc một mặt cứ lấy những hình ảnh đẹp đất nước Trung Quốc ở trên net ra khoe và khen nức nở..

Chị Bông bực mình:

- Cảnh thiên nhiên đẹp đẽ ở Trung Quốc thì có tội tình gì? Nơi đâu đẹp thì em khen, em thích. Mà em còn thích các nữ tài tử điện ảnh Trung Quốc nữa đấy, cô Chương Tử Di, cô Củng Lợi đẹp tuyệt vời.…

Anh Bông bỏ dở công việc phụ giúp vợ đứng phắt dậy đi ra ghế uống bia và xem ti vi tiếp. Chị Bông càng bực mình nói với theo:

- Không hiểu sao tôi với anh luôn khắc khẩu, nói chuyện chưa được 5 phút là xảy ra bất đồng rồi. Anh nhạy cảm vụ Trung Quốc vừa phải thôi chứ.

- Tôi yêu cầu bà chấm dứt để tôi ngồi yên xem ti vi

- Tôi yêu cầu ông bỏ cái thái độ “chảnh chọe” và bất lịch sự ấy đi nhé, đang nói chuyện với vợ mà đứng phắt dậy bỏ đi không nói một câu..

Xếp đồ vào tủ lạnh xong chị Bông chưa hết bực mình, tuyên bố:

- Tôi chẳng cần ra chợ trả lại cái bịch hải sản này, mai tôi cứ nấu, cứ ăn chắc gì đã chết mà sợ. Ai cũng một lần chết trong đời!

Anh Bông gầm gừ:

- Thế thì bà ăn một mình bà đi.

- OK, tôi không …hèn nhát đâu, khỏi cần thách đố.

Chị Bông vào phòng nằm vì không muốn nhìn mặt đối phương..

Ngày xưa lúc đang yêu nhau và mới cưới nhau hai vợ chồng chị luôn hòa hợp từng lời ăn tiếng nói. Càng ngày thì càng thay đổi, chẳng ai chịu nghe ai.

Mỗi lần cần đi xe cùng chồng cũng là dịp.. cãi nhau chỉ vì mỗi người một ý không ai nhường ai, anh Bông thích quay cửa kính xe xuống tận cùng cho gío lùa vào xe lồng lộng thì chị Bông muốn đóng cửa xe lại hay mở chút xíu bằng một đốt ngón tay thôi vì chị sợ gió thổi bay tóc.

Anh Bông gắt:

- Tóc bay thì kệ tóc bay. Tôi muốn gío lùa vào xe cho không khí thiên nhiên thoải mái.

Chị Bông cũng gắt:

- Không khí thế nào cũng không quan trọng bằng mái tóc tôi, tôi phải lo bảo vệ nó, tôi không muốn chốc nữa bước xuống xe tóc tôi rối tung lên như một bà điên.

Cuối cùng người chịu thua là chị Bông, hoặc chị xuống xe không đi chung, hoặc chị đành ngồi trong xe nhưng mặt sưng xỉa lên, tay thì luôn giữ cho mái tóc khỏi bay và thỉnh thoảng chị lại rên lên:

- Làm ơn chạy xe chậm lại, cửa xe đã quay xuống tối đa lại chạy nhanh thì không chỉ bay tóc mà…bay cả người luôn đó.

Chị Bông chợt nhớ đến hình ảnh vừa xem trên ti vi tối qua trong chương trình Live Well Network chuyên về đời sống và bếp núc mà chị ưa thích, có cặp vợ chồng gìa người Hispanic tuổi đời độ 70, bà trổ tài nấu một món gì đó có ông đứng bên phụ giúp rất tương đắc, nấu xong bà quay ra tô lại chút môi son và hai vợ chồng ôm nhau tình tứ vài điệu nhảy ngay tại bếp, ngay bên cạnh món ăn vừa nấu rồi uống một chút rượu, rồi thưởng thức món ăn.

Trên màn hình chiếu lại những hình ảnh thời trẻ của họ cả hai đều đẹp đôi, nhưng hiện tại bà mập tròn phục phịch chẳng tương xứng với ông vẫn dáng gầy thanh tao, thế mà họ vẫn bày tỏ tình yêu và hai tâm hồn đồng điệu lãng mạn.

Vợ chồng gìa người ta như thế đấy.

Họ tuổi đời 70 còn tình, vợ chồng chị mới 60 lẽ nào chịu thua? Chị Bông thấy lòng nguôi giận chồng, chị sẽ bắt chước họ

Chị Bông đi ra ngoài thấy chồng vẫn nằm coi ti vi liền ghé mắt nhìn vào ti vi và làm quen cho êm ấm nhà cửa:

- Anh đang xem tin tức hả?

Chồng cũng nguôi ngoai:

- Ừ, anh đang xem tin tức thế giới…

- A, tin tức về Syria đây mà, ngày nào cũng đạn nổ bom rơi tội nghiệp qúa..

- Bởi thế anh cầu mong Mỹ bỏ bom tấn công tiêu diệt chế đô Bashar al Assad cho rồi, nhất là họ đã xử dụng vũ khí hoá học làm chết người hàng loạt.

- Ôi, anh ơi, em không muốn thế….

Anh Bông lại gay gắt:

- Tôi biết ngay mà, hễ tôi nói trắng thì bà phải nói đen, bà luôn làm tôi cụt hứng. Tại sao bà không muốn Mỹ dội bom Syria, nói nghe coi?

- Vì em sợ cảnh chết chóc thêm ở Syria, tội nghiệp ! và em cũng sợ…tốn tiền nước Mỹ, nước Mỹ đang nợ nần như chúa Chổm. Tội nghiệp.

Chị Bông xót xa tiếp:

- Nước Mỹ đi đánh giặc kiểu nhà giàu, ngoài máy bay, chiến xa xe tăng, các loại xe cộ, vũ khí đạn dược tối tân họ còn mang tất cả tiện nghi theo người lính Mỹ ra chiến trường. Sau hai cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan nước Mỹ đã tốn phí mấy trăm tỷ USD, bao lính Mỹ đã chết và bị thương. Tội nghiệp.

- Trời, chuyện chính trị mà bà làm như chuyện từ thiện, đàn bà chỉ nói chuyện shopping thôi, đừng nói chuyện chính trị với tôi nhé !.

Chị Bông chẳng vừa:

- Mỗi người đều có ý kiến của mình, anh không có quyền mong muốn kẻ khác cùng quan điểm với anh. Tôi là đàn bà cũng biết nghe tin tức chính trị trên ti vi hay đọc trên báo chí, trên net vậy, thua kém gì đàn ông các anh?

- Nhưng tôi với bà không hợp khẩu. Bà nói chuyện phone hàng giờ với bạn bè vui vẻ nhưng bà nói chuyện với tôi chỉ câu trước câu sau là gây bất mãn rồi.

- Thế sao ngày xưa lúc sắp cưới tôi anh khoe là má anh đi coi thày bà mấy nơi, nơi nào cũng nói tuổi tôi và anh rất hợp và anh đòi cưới gấp gấp, càng sớm càng tốt.

- Tôi cũng ngạc nhiên và muốn tìm lại mấy tay thày bà ấy để hỏi cho ra lẽ đây. Mẹ bà cũng dẫn bà đi coi bói và nói tôi với bà không khắc khẩu khắc tinh gì đó mà.…

- Đúng thế, và tôi cũng muốn tìm ông thày bói ấy từ lâu rồi.

Chị Bông chợt nhớ ai đó đã nói không nên bàn luận chuyện chính trị và tôn giáo với người khác dễ gây tranh cãi, chỉ nên nói về thời tiết nắng mưa là vô tư nhất. Chị vẫn muốn làm lành nên cố dịu giọng và chuyển đề tài:

- Anh ơi, thời tiết mùa hè nguy hiểm qúa, vụ cháy rừng ở California đốt hết bao nhiêu mẫu đất rừng cây, cư dân ở gần phải di tản vì khói bụi của đám cháy có thể gây ảnh hưởng đến sức khỏe .Bởi vậy em lên án những kẻ sơ ý vứt một mẩu thuốc lá vừa hút hay cắm trại còn sót mẩu củi than chưa dập tắt để bùng lên những đám cháy rừng kinh khủng này.

Chị tưởng sẽ nhận được sự hưởng ứng của chồng, nhưng anh Bông thô lỗ gạt phăng:

- Tôi không phải bộ xã hội để bà trút cảnh thương xót. Sao bà nhiều chuyện qúa vậy, hết chuyện chiến tranh đến chuyện cháy rừng, còn mấy nơi mưa lụt sao bà không liệt kê ra luôn đi…

- Ừ, anh nhắc em mới nhớ, mưa lụt cũng tội ghê, nhưng do trời làm thì chẳng dám trách ai, còn cháy rừng chúng ta có thể tránh được thì nên cẩn thận anh nhé…

- Bà dạy khôn tôi đấy hả? bà làm như mấy vụ cháy rừng kia có…liên quan đến tôi hả?.

Chị Bông không nhịn nữa:

- Này nhé, tôi chỉ tự nhủ lòng nói chung chung thế và mong ai cũng như mình để đừng gây thiệt hại cho người khác thôi. Anh thật là vô cảm.

Anh Bông chưa kịp cãi lại thì tiếng điện thoại bỗng reo lên, anh bốc phone lên:

- A, anh Chí đó hả…vâng, vâng chúng tôi đang ở nhà anh chị cứ đến ngay bây giờ…

Buông phone xuống anh Bông dịu giọng lại với vợ:

- Anh Chí vừa gọi, khoảng 15 phút nữa vợ chồng anh Chí sẽ đến đây cho cá chiều qua họ đi câu về.

Chị Bông cũng dịu giọng:

- Để em ra vườn hái mấy qủa bầu tươi, ít rau thơm và vài quả ớt hiểm biếu lại họ. Lần nào đi câu cá anh chị Chí đều mang chia cho nhà mình.

- Phải đấy, em hái thứ nào cũng nhiều vào, hậu hỉ vào.

Chị Bông lẩm bẩm:

- Vậy mà năm nào em trồng vườn anh cũng nói em bày đặt, vừa mất công chăm sóc vừa tốn tiền nước tưới và tiền phân bón, thà mua ngoài chợ còn rẻ hơn.

Chị Bông nói xong giật mình vì vô tình chị khơi lại chuyện bất đồng, chẳng khác nào chị vừa quăng một mẩu thuốc lá cháy dở vào giữa khu rừng trong mùa hè khô nắng, nhưng may qúa anh Bông không để ý, nên chị sẵn đà tới luôn:

- Trồng vườn vừa có thú vui, vừa có rau trái tươi tốt ăn ngon gấp mấy lần hàng chợ và nhất là thỉnh thoảng làm qùa tặng cho bạn bè. Lần sau anh đừng có cửa quyền mà cấm cản …

Anh Bông gằn giọng:

- Vì có bạn sắp đến tôi nhường bà hai câu rồi, bà mà nói câu thứ ba là tôi tung hê lên đấy. Bà mau ra vườn hái đi kẻo anh chị Chí đến bây giờ, họ lái xe nhanh lắm không lù đù như bà đâu.

Chị Bông biết điều cắp rổ đi ra vườn sau nhà, mặc dù bị chồng chê lái xe lù đù chị đã tự ái chỉ muốn đứng lại cãi vài câu cho hả.

Vợ chồng anh Chí là bạn thân thiết với vợ chồng chị Bông, khi chị Bông vào nhà thì vợ chồng anh Chí cũng đến, anh xách theo cái thùng đá to vào nhà và vui vẻ rao hàng:

- Cá tươi đây, cá tươi đây..

Chị Chí phụ họa với chồng:

- Cá tươi đã làm sạch sẽ rồi, chị Bông chỉ việc cất tủ lạnh ăn dần.

Chị Bông cảm động cất mớ cá vào tủ lạnh, những con cá chẳng biết ở Mỹ gọi là cá gì mà giống như cá He của Việt Nam, cá này tuy nhiều xương nhưng chiên lên thì thơm ngon vô cùng, hai vợ chồng chị Bông đều thích và ghiền luôn nên lần nào đi câu anh Chí cũng để dành một mớ tặng bạn.

Đến lượt anh Bông vui vẻ nói với bạn:

- Rau tươi, bầu tươi, ớt tươi đây, xin tặng lại anh chị.

- Cá tươi chiên vàng và bầu tươi luộc chấm nước mắm tỏi ớt cũng đủ là một mâm cơm thịnh soạn rồi. Cám ơn anh chị

Chị Bông tưởng tượng cảnh hai vợ chồng chị Chí đi câu chắc là lãng mạn lắm, họ ngồi cạnh nhau bên bờ hồ vừa đợi cá cắn câu vừa ngắm cảnh hồ nước mênh mông đang gợn sóng lăn tăn theo gió… Chị Bông khen:.

- Anh chị hay đi câu với nhau thật là thú vị, tâm đắc và lãng mạn

Chị Chí thở dài:

- Lãng mạn gì ! tôi đi cùng để phụ ông ấy thôi, mệt muốn chết, ông sai tôi làm đủ thứ và lấy bia cho ông uống trong lúc chờ cá cắn câu, tôi lỡ quên mang áo lạnh thì ông cằn nhằn tôi suốt buổi. Rồi chuyện câu cá cũng cằn nhằn điếc cả tai.…

Anh Chí thở than:

- Vậy chứ con cá lớn chưa đủ cỡ bà cũng bắt tôi bỏ vô thùng, thay vì phải thả lại xuống hồ, không cằn nhằn sao được?

- Tôi nghĩ đằng nào cũng là cá cắn câu, đã tốn mồi thì phải giữ lấy cá chứ. Đi câu là cái thú vị của ông nhưng là cái thực tế của tôi.

Chị Bông phải xen vào hỏi chuyện khác nếu không chuyện cãi nhau của họ còn dài.

Khách về rồi chị Bông nói với chồng:

- Thì ra vợ chồng nhà nào cũng có lúc khắc khẩu đâu chỉ nhà mình.Thôi thì cứ coi như cái màn khắc khẩu là vui nhà vui cửa, chứ êm thắm qúa thì cuộc sống tẻ nhạt lắm anh ơi…

Chị Bông lại nghĩ đến hai vợ chồng gìa người Hispanic nấu ăn trên ti vi, sau cái màn lãng mạn trữ tình yêu thương ấy để quay phim, ở ngoài đời chắc họ cũng từng cãi nhau, giận nhau. Đó mới là cuộc sống đời thường và bình thường. Đó mới là gia vị của cuộc sống như gia vị họ đã nêm nếm vào món ăn

Thấy anh Bông không phản đối gì câu triết lý an phận của mình chị Bông tiếp:

- Em hiểu ra rồi, cuộc sống vợ chồng càng lâu càng cũ thì càng qúa quen thuộc nhàm chán nên chẳng cần lịch sự giữ ý, chẳng cần nhường nhịn nhau lấy lòng nhau làm gì, bởi thế mới dễ xảy ra đụng chạm, mâu thuẫn. Nhưng miễn sao vẫn sống cùng nhau lâu dài và cả đời là được rồi, đòi hỏi chi những điều lý tưởng đẹp như thơ, đẹp như mơ, phải không anh ?.

Bây giờ anh Bông mới mỉm cười:

- Ừ…nãy giờ em nói 2 câu đều thực tế và nghe được, anh không thấy khắc khẩu tí nào.

Nguyễn Thị Thanh Dương
Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Thu Mar 25, 2021 11:32 pm    Tiêu đề: Tháng Tư Ngày Đó

Tháng Tư Ngày Đó
Nguyễn Thị Thêm
Sao Khuê sưu tầm


Tháng ba 1975 Đà Nẵng trong cơn sốt chiến tranh. Ngôi trường tôi dạy tạm thời cho học sinh nghỉ học. Người dân tị nạn từ các tỉnh Thừa Thiên, Quảng Trị chạy vào lũ lượt. Trường mở cửa để làm trại tiếp cư. Các giáo viên phải có mặt để giúp đở dân chúng.

Nhà tôi ở đối diện với trường học. Đó là lý do tôi nhất định xin về dạy tại đây để tiện việc đi về. Mặc dù bên Ty Giáo Dục Đà Nẵng đã bố trí tôi dạy tại trung tâm thành phố.

Con nhỏ tên Khanh dạy chung trường với tôi đã khuyên tôi từ tháng trước:
- Em nói với riêng chị, Đà Nẵng sẽ mất về phía bên kia. Chị nên rút hết tiền nhà băng ra và tìm cách cho anh ở nhà đừng về đơn vị. Quân Giải phóng sắp về.

Tôi nhìn Khanh bằng đôi mắt nghi ngờ. Đã từng ở vùng xôi đậu, tôi hiểu hai bộ mặt của một con người. Tôi nói:

- Em làm việc cho phía bên kia hả?

Nó cười:

-Em mà làm gì. Em nghe người ta nói!

Thế là Khanh rút tiền ngân hàng, dẫn nhóm tôi đi Chợ Cồn ăn uống một bữa thịnh soạn. Em mua tặng cho mỗi đứa một xấp vải áo dài hoa đồng màu và lơi dần không đi dạy. Chúng tôi phải thay phiên nhau đứng lớp dùm. Khi đoàn người tị nạn về trường, Khanh chỉ có mặt vài lần để xem tình hình. Lần cuối em nhắc tôi lần nữa:

- Chị đã làm như lời em dặn chưa? Hãy tin em. Em coi chị như chị ruột nên mới dám nói. Chị xem em nè.

Nói xong Khanh xòe hai bàn tay đã cắt móng sạch sẽ không sơn màu mè đỏ rực như lúc trước. Nó ôm tôi thật chặt. Cho địa chỉ nhà dặn khi nào cần thì tìm nó. Xong nó biến mất không tới trường.

Tôi lúc đó chạy qua chạy về phụ sắp xếp và giúp đỡ cho bà con trong nỗi lo sợ. Thế nhưng tôi nói ra thì mẹ chồng không tin, còn chồng thì ở mãi đơn vị với bao nhiêu tin xấu từ hậu cứ đưa về.

Đêm đêm pháo dội về ầm ĩ, vì nhà tôi gần phi trường Phước Tường. Đêm nào tôi cũng ôm con chạy xuống hầm trú ẩn. Tôi cũng như mọi người dân ở đây sống hồi hộp vô cùng.

Radio loan tin quân ta đã tháo chạy nhiều nơi và Đà Nẵng trong cơn dầu sôi lửa bỏng. Thiên hạ đua nhau tháo chạy về hướng bến tàu, nhà cửa bỏ trống, mọi người không màng làm ăn, chỉ nghe ngóng và bàn tính đi hay ở lại. Chợ thưa dần, dường những tên nằm vùng đã chính thức lộ mặt. Chồng tôi vẫn còn ở bộ chỉ huy trung đoàn. Mọi tin tức về anh mù mịt, không biết dọ hỏi nơi nào. Ai chạy mặc ai, chúng tôi chỉ ngồi nhà chờ tin anh trong sự hồi hộp và hoang mang.

Ngày tiếp ngày, Đà Nẵng vẫn hổn loạn, bọn hôi của nhào vào những nhà chạy loạn lấy đồ. Những chiếc xe đạp, xe Honda, xe ba gác xuôi ngược với đủ thứ đồ dùng gia đình trên đó. Đà Nẵng bắt đầu xuất hiện những người mang trên tay những băng đỏ. Họ nghênh ngang đi khắp mọi nơi, mặt đằng đằng sát khí. Những tin xấu trên radio vẫn liên tục đưa về. Chồng tôi vẫn bặt tăm. Chết sống ra sao không rõ.

Nhà tôi cũng là một trại tạm cư, ba gia đình bà con bên chồng từ Quảng Trị vào lánh nạn. Mụ Xếp đến ở nhà tôi với cô con gái thật đẹp tuổi đang độ 17, 18. Đây là gia đình có người đi tập kết. Họ vui ra mặt khi cuộc chiến mỗi lúc nghiêng về phía bên kia. Gia đình anh Bi với hai vợ chồng và 5 đứa con nhỏ. Gia đình chú Đen, 2 vợ chồng với đứa con trai. Mẹ chồng tôi đã mua gạo thật nhiều gạo và thức ăn khô dự trữ để phòng khi hữu sự. Bây giờ là lúc phải dùng để phục vụ cho hơn 10 người đến ở mà không biết khi nào cuộc chiến chấm dứt.

Gia đình mụ Xếp bán vải nên đồ đạc mụ đem tị nạn chất chật căn phòng bên hông nhà. Vợ chồng anh Bi sáng sớm là bỏ đi ra ngoài. Tôi không biết anh chị đi đâu, bầy cháu tôi phải lo cho ăn uống và chăm sóc. Mỗi lần về đến nhà là đem rất nhiều đồ đạc. Anh chị bỏ vào trong phòng khách dành riêng cho anh chị. Tôi đoán anh chị đi hôi của những tiệm mà chủ đã bỏ đi ra bến tàu, nhưng không dám hỏi.

Tôi bận bịu với trường, con và 5 đứa cháu. Nấu nướng, cơm nước liền tay. Mẹ chồng tôi hết đi ra rồi đi vô, thở dài lo lắng. Có lúc bà và Mụ Xếp dẫn nhau đi dò tình hình cả buổi trời. Về nhà bà ngồi khóc vì không biết con trai mình sẽ ra sao.

Cuối cùng, trong cơn hổn loạn đó, chồng tôi đã về với một toán lính mặt mày xơ xác, đầy mỏi mệt và sợ hãi. Họ mặc quân phục, súng ống đầy đủ vì từ căn cứ về. Nghe kể, chồng tôi ở trung tâm hành quân và nhận lệnh bỏ ngõ, nhưng không liên lạc được với Đại đội cũ của mình. Lo cho lính tráng anh đích thân lên tận nơi đóng quân của Đại đội để kéo họ về. Lịnh trên tuyên bố bỏ Đà Nẵng, ở lại chiến đấu chỉ có con đường chết. Cho nên anh cùng một số lính về đây. Một số tan hàng đã trà trộn với dân chúng tìm về gia đình.

Tôi lo làm cơm nấu thức ăn cho một đại gia đình tối tăm mặt mũi. Ăn cơm xong, chồng tôi quyết định cùng anh em ra bến tàu chạy về Sài gòn.

Có người về báo tin ở bến tàu rất hổn loạn, lính và dân tràn về không thể chen chân. Mọi người tranh nhau tìm một chỗ để thoát khỏi Đà Nẵng. Nghe nói có nổ súng và có người chết.

Má chồng tôi lưỡng lự không muốn chạy vì còn phần mộ tổ tiên ở quê. Thương con bà đành chìu chúng tôi, miễn cưỡng đi theo. Mấy gia đình tạm cư nhà tôi họ ở lại chờ tình hình. Gia đình tôi nói lời từ biệt và gửi nhà lại cho họ trông chừng dùm. Những người lính đi thành một vòng cung bảo vệ đưa gia đình ông thầy ra bến tàu. Đi được một quảng đường, hòa mình vào dòng người di tản đông đúc, hỗn tạp, má chồng tôi không đi tiếp. Dừng ngay giữa đường, bà nói:

- Thôi! Vợ chồng mi đi đi. Mạ không đi nữa, mạ về có chết ở cươi mạ cũng chịu. Nếu còn sống thì mạ về quê lo phần mộ tổ tiên ông bà.

Là con một, mẹ anh ấy đã ở vậy nuôi con từ lúc chồng mất thật sớm, chồng tôi không thể làm đứa con bất hiếu. Anh quyết định ở lại cùng mẹ. Từ giã đồng đội, chồng tôi dẫn mẹ và vợ con rẽ đoàn người để ngược lại về nhà. Đó là ngày 28/3/1975.

Về nhà được một chút, mừng vì nhà không bị người ngoài vào hôi của. Chưa biết phải làm gì trong tình thế hổn loạn, thì xe chở người bên kia, cờ xí rợp trời, reo la inh ỏi chạy ngang đường lộ. Đà Nẵng đã thật sự thất thủ.

Tới tối, những người lính lục đục trở về nhà tôi trong sự sợ hãi, mọi việc đã kết thúc. Tôi lôi đồ dân sự của chồng phân phát cho họ. Mấy anh em quăng quân trang, súng, đạn xuống cái hố kế ao rau muống sau nhà. Cuộc đời binh nghiệp chấm dứt hôm nay.

Chồng tôi cố thủ trong nhà để chăm mấy đứa cháu và con. Tôi đi chợ nấu ăn tất bật cả ngày. Những người lính cũng chỉ biết ngồi nhà nghe radio, thỉnh thoảng ra ngoài nghe ngóng. Không khí trong nhà trầm lại, nặng nề. Dường như có một bàn tay vô hình siết chặc cổ. Đau đớn, ngộp thở không thể vẫy vùng. Những người cùng quê ra khỏi nhà mỗi ngày, chôm đồ cũng có, tìm bà con cũng có. Họ dọ dẫm tìm phương tiện về lại Quảng Trị.

Cuối tháng ba, đầu tháng tư những người bà con bên chồng tôi từng đi tập kết đã có mặt ở Đà Nẵng. Họ tìm cách liên lạc và nhắn tin khuyên má chồng tôi về quê. Những người tạm cư nhà tôi lần lượt rời nhà tôi để về quê. Khi đi họ ít đồ. Khi về nhiều hơn. Chỉ có nhà tôi gạo cũng lưng, thức ăn cũng hết và tiền bạc cũng không còn là bao. Bây giờ đã đến lúc mạnh ai nấy bơi.

Tôi thuyên chuyển về đây dạy học, lương truy lãnh đầu tháng tư sẽ nhận coi như mất trắng. Mẹ con tôi dành dụm mới mua cái nhà này. Bà chủ nhà bán gấp để theo Cha Đạo vào Nam. Mọi sự việc xảy ra bất ngờ ngoài sức tưởng tượng. Tuy nhiên chồng tôi còn sống và về nhà kịp thời là sự may mắn nhất hiện giờ.

Những người lính quê miền Trung chia tay chúng tôi về lại gia đình. Những người quê miền Nam không biết đi đâu, vẫn ở lại nhà tôi chờ đợi tình hình. Họ là những người bạn, người em chân thành dễ mến. Họ cũng như tôi đang hướng về Sài Gòn với tất cả thương yêu và lo lắng.

Má chồng tôi quyết định đem gia đình về lại quê nhà để ổn định đời sống. Nhất là để gặp lại người em trai út đã tập kết ra Bắc bao nhiêu năm không gặp.Tôi tìm Khanh, nhỏ bạn dạy chung. Đến nhà mới phát hiện nhà Khanh là căn cứ nằm vùng. Ba em ấy là thành ủy và gia đình thuộc thành phần cốt cán của chính quyền mới.

Khanh khuyên tôi đừng về Quảng Trị, hãy ở lại Đà Nẵng vì ở thành phố chính sách cho "lính ngụy" sẽ khác hơn. Tôi không thể cưỡng lại quyết định của mẹ chồng và chồng nên đành phải ra đi. Khanh dẫn tôi đến Ty Giáo Dục Đà Nẵng. Giữa cơn hỗn loạn, giấy tờ văn thư tung tóe khắp nơi, mà em vẫn tìm ra người tiếp quản . Em xin cho tôi được giấy thuyên chuyển từ ty giáo dục Đà Nẵng về Quảng Trị. Đưa giấy tờ cho tôi. Khanh dặn:

- Em khó khăn lắm mới có được giấy này. Chị phải giữ kỹ, không thể xin cái thứ hai. Vì khi ổn định, thành phần cán bộ cốt cán sẽ thay đổi . Chị nhớ chỉ trao cho Ty Giáo Dục Quảng Trị, không đưa cho bất cứ ai ở cấp Xã, Huyện. Chị phải đi dạy vì chị là một nhà giáo giỏi, có chuyên môn.

Khanh ôm tôi lưu luyến và từ biệt. Còn tôi trong vòng tay ấm áp đó tôi chợt rùng mình. Thì ra lâu nay bên cạnh mình là người của phía bên kia. Thật đáng sợ. Kể từ hôm đó, tôi không hề biết tông tích hay liên lạc với Khanh cho đến bây giờ. Cám ơn Khanh đã hết lòng giúp đở.

Đúng như Khanh đã nói, tiền gửi ngân hàng của gia đình tôi không lấy được một đồng. Nhưng với tính cả tin, mẹ chồng tôi vẫn nuôi hy vọng chính phủ mới sẽ trả lại cho mình, vì mình gửi ngân hàng nhà nước. Mình là dân, nhà nước nào, chính phủ nào cũng đối xử với dân như nhau mà thôi.

Căn nhà của tôi đã được tháo gỡ, đồ đạc chất một đống trước sân. Che vài tấm tôn làm chỗ ngủ ban đêm và trưa nắng. Tôi như người mộng du làm việc liền tay mà đầu óc không tỉnh táo. Tôi sẽ về đâu, quê chồng tôi sẽ đến như thế nào?. Gia đình anh em tôi loạn lạc này sống hay chết? hai giới tuyến khác nhau biết bao giờ tôi mới gặp lại mẹ cha. Tôi có còn tiếp tục đi dạy được không? Cuộc sống mới sẽ ra sao?Mẹ chồng tôi mừng vui ra mặt. Bà chỉ có một thằng con trai. Bây giờ im tiếng súng không còn chiến tranh. Hòa bình về rồi, quê hương là vòng tay ấm áp ôm những người xa xứ về lại gần gũi bên mồ mã tổ tiên. Bà sẽ về quê, sum họp với bà con làng nước, sửa sang lại nhà từ đường, vun quén lại mãnh đất bà từng sinh ra và lớn lên. Bà sẽ không còn lo sợ cho con trước làn tên mũi đạn.

Những người bên kia tìm cách liên lạc về:

- Mụ trở về làng mền đi. Không răng mô. Chi chứ việc của hắn có bầy choa lo, vợ hắn đi dạy tại làng. Mụ chừ yên tâm khỏi lo chi súng đạn. Đảng sáng suốt lắm. Mụ sợ chi. Chú chồng tôi từ quê cũng nhắn vào:

- Mụ về làng đi. Tui cho một sào lúa sắp chín ngoài đồng. Mụ về gặt mà ăn, lo chi đói với khổ. Khi mô mụ lo cho chúng tui, bi chừ tới lúc bầy choa lo cho mụ.

Ôi! những tin thật tốt, những tấm lòng mở ra như như hoa như gấm. Xóa đi bao nhiêu lời khuyên chân tình của tôi. Tôi khuyên gia đình chồng tôi khoan về quê, cứ ở lại đây chờ tình hình. Người ta sao mình vậy. Xem sao đã rồi hãy tính. Nhưng tiếng nói của tôi rơi vào vô vọng, khi mẹ chồng tôi buông một câu như đinh đóng cột với sự đồng tình của chồng tôi:

- Mi muốn ở lại thì ở. Tao và hắn sẽ đem con bé về quê. Mi mần răng thì cứ làm.

Tôi ở lại ư? Nhà đâu mà ở, tứ cố vô thân biết sống với ai. Còn con tôi, núm ruột yêu thương tôi không thể xa cách. Tôi ngậm ngùi buông xuôi số phận.

Mẹ chồng tôi cả tin nên không mua gạo đem về quê. Gạo nhà dự trữ đã gần hết, Má chồng tôi chỉ cần gạo đổ vào các thùng đạn để chén, dĩa kiểu cho khỏi bể mà thôi. Khi tôi nói bà mua vài bao gạo đem về quê, bà lắc đầu cười rạng rỡ:

- Về làng mình ăn gạo mới con hè! Chi chớ lúa mới gặt về, chà ra, nấu cơm ăn với ruốc và rau luộc thì ngon chi lạ. Ai lại chở củi về rừng.

Bà thuê một chiếc xe tải chở nhà và gia đình về quê với giá hơn một cây vàng. Bà không tiếc nuối vì nghe lời cách mạng.

Một người lính miền Nam là đệ tử ruột của chồng tôi, theo chuyến xe tải má chồng tôi mướn, cùng chuyển đồ đạc gia đình tôi về quê. Em ở lại phụ dựng nhà xong mới từ giã tìm đường về với gia đình. Chúng tôi sau này ở trong Nam cũng cố gắng đi tìm nhưng không gặp lại. Chúng tôi đã biệt tin em tới bây giờ.

Đây là lần đầu tiên tôi biết đến quê chồng. Một miếng đất từ đường nho nhỏ, căn nhà gạch bị hư nhiều, bây giờ được làm nhà bếp. Nhà từ Đà Nẵng đem về được dựng lại làm nhà trên. Gia đình bên chồng tôi đa phần làm nghề mộc nên anh em mỗi người góp một tay chỉ mấy ngày là xong. Chúng tôi tạm thời ổn định chỗ ở.

Con sông Ô Lâu rất gần nhà. Nước trong veo, cá lội nhìn thấy rõ ràng. Tắm giặt lấy nước uống, nước xài gì cũng ở đó. Tôi ra bến loay hoay không biết làm sao lấy nước. Không biết làm sao tắm. Mỗi chiều vợ chồng tôi tập gánh nước. Tôi tập gánh mỗi đầu 1/4 thùng nước rồi tăng dần dần. Vai sưng to đau nhức. Đã vậy tôi không dám tắm sông. Cứ khệ nệ gánh nước về nhà để tắm. Có lần chồng tôi xô tôi đại xuống sông rồi nói: "Tắm là vậy đó. Có gì khó đâu" Thế nhưng tắm sông đối với tôi cũng kỳ kỳ vì tôi không quen.

Nhà quê cho nên chỉ xài đèn dầu và cũng không có bếp gas. Về đây đầu tiên là phải kiếm cái gì để chụm lửa nấu cơm. Mấy mẹ con đi ra chợ quét lá cây bàng về thổi. Quơ nè tre gai đâm tay chảy máu. Con bé lớn đi qua nhà máy xay lúa xin trấu về chụm.Vợ chồng tôi xin ông chú gốc rạ ngoài đồng và cắt gánh về phơi khô chụm lửa. Hai vợ chồng gặp mưa và gió lớn. Tôi ướt mem, gió thổi muốn bay cả người và quang gánh. Chồng tôi lôi tôi vào trường học trú mưa. Anh lau nước mưa trên mặt tôi thương cảm. Đó là cái nhìn âu yếm lần cuối cùng trước khi anh đi tù Cộng Sản.

Vợ chồng tôi trình diện chính quyền địa phương. Ông Bí thư, ông Chủ Tịch đều là người làng. Cả hai nhìn chúng tôi như những con vật bị ghẻ lở. Họ soi mói nhìn tôi, một người phụ nữ ngụy quyền miền Nam có một đứa con lai Mỹ. Dù đứa con gái ấy tôi không sinh ra nhưng tiếp tay nuôi dưỡng tàn dư Đế quốc thì tội còn nặng hơn lỡ có con với Mỹ. Ông Chủ tịch xã giơ hàm răng vàng khè cáu thuốc lào cười vào mặt tôi:

- O có tội. Tội nặng lắm. Phải đi học tập, phải học tập cải tạo thông suốt mới được trả quyền công dân.

Chồng tôi bị Ủy Ban Xã đòi phải đưa ra tất cả huy chương anh đã được. Phải bằng vàng, bằng đồng thực sự. Họ không tin những huy chương đó chỉ là tượng trưng. Giấy tờ chứng minh đưa ra chúng bảo không hợp lệ. Lại một phen cãi vã sôi nổi của chồng tôi và nhóm cán bộ ngu ngốc mới từ miền Bắc vô. Chồng tôi bị ghi sổ bìa đen vì dám chống cự cãi tay đôi với cán bộ.

Các chú chồng và cậu chồng tôi phán những câu thật mới mẻ và nhớ đời:

- Mi là đại úy, mi có tội với Đảng với đồng bào. Tại sao mi ngoan cố cãi chi với cán bộ. Mi đi học tập cải tạo tư tưởng tốt sẽ được chính phủ khoan hồng về sum họp gia đình. Gia đình mi ở nhà có Đảng và nhà nước lo.

Thế là chồng tôi được lệnh gọi, khăn gói đi tù tận miền Bắc thâm sơn nước độc suốt hơn 8 năm trời. Không như miền Nam còn được về nhà rồi mới đi tiếp. Chồng tôi một lần đi và biệt vô âm tín.

Má chồng tôi bán nữ trang để mua gạo ăn ngay tuần đầu tiên dọn về. Bà bị rơi từ thất vọng này đến thất vọng khác. Bà không còn cười sảng khoái như trước. Bà thường khóc tức tưởi và bệnh thật nặng. Trong bà niềm hối hận vì nhẹ dạ cả tin Thương con đi tù không tin tức. Thương dâu ruộng đồng cực khổ. Không có cái ăn, bà phải vất vả buôn bán, nên bà đau yếu triền miên

Tôi bị trấn lột hết giấy tờ tùy thân kể cả giấy thuyên chuyển đi dạy. Họ tuyên bố mọi việc được quyết định từ cấp xã. Muốn đi lên tỉnh không có chữ ký của xã tôi không thể rời khỏi làng. Họ cho tôi đi học tập chính trị tại Đông Hà 3 tuần. Ở nhờ nhà dân, mọi sự tự túc. Con bé em ở nhà khát sữa không có mẹ. Làm gì có sữa Similac để bú, sữa hộp mua cũng không có tiền. Bà nội cho uống nước cháo pha đường đỡ đói. Ở đây tôi lên cơn sốt vì sữa căng cứng không biết sao giải quyết. Cuối cùng phải nhờ con người dân bú thép dùm.

Những buổi học chính trị nhàm chán, những bài giảng huấn vô lý và ngang ngược. Nuốt vào lòng bao bất mãn tôi chịu đựng để còn về với con. Một người trong khóa học vô tình hỏi một câu ngô nghê:

- Xin hỏi cán bộ. Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam đặt thủ đô ở nơi nào trong nước ta?

Thế là hôm sau anh ta khuất bóng. Nghe nói đã được lịnh thuyên chuyển đi học tập nơi khác rồi.

Sau hơn 3 tuần đi học chính trị tại Đông Hà tôi chính thức được gia nhập hợp tác xã nông nghiệp. Ông chủ tịch nói với tôi :

- Giấy tờ đi dạy của O tui giữ. O phải tập lao động chân tay. O lao động tốt thì chồng O sớm về. O ngoan cố, chồng O không được khoan hồng.

Cái mắc xích giữa người ở nhà và tù cải tạo ràng rịt như vậy nên tôi đành chịu nhịn sang sông. Tôi đã biết thế nào là lao động vinh quang. Biết thế nào là xã viên hợp tác xã miền Bắc. Thế nào là người dân dưới chính quyền Cộng Sản. Đây là một miền quê chuyên về trồng lúa. Tất cả ruộng của người dân bị xung vào hợp tác xã nhà nước. Trâu bò cũng vậy. Trong xã chia nhiều đội lao động dưới quyền một ông Đội trưởng, một đội phó và một thư ký đội. Đội tôi là đội 11.

Tất cả việc làm ngoài đồng đều được làm bằng sức người và sức trâu. Trâu cày, bừa và đạp lúa. Còn lại người xã viên làm mọi việc. Cuốc đất, gieo mạ, cấy lúa, làm cỏ, xịt thuốc, bón phân, cắt, gánh lúa...Tất cả công đoạn, mọi xã viên đều phải được phân công làm. Không vì yếu hay không biết mà miễn trừ. Mọi người đều phải lao động như nhau, hưởng quyền lợi như nhau và xem chừng lẫn nhau.

Tôi đã được phân công chăn trâu ngay từ ngày đầu tiên vào đội. Tôi về nhà ôm mặt khóc vì sợ. Cả đời tôi không biết ruộng nương. Trâu là con vật tôi sợ nhất với cái sừng to và dài. Vậy mà tôi vẫn phải "Chăn trâu sướng lắm chứ". Tôi cắt cỏ cho trâu ăn bị gai quàu chảy cả máu tay. Không đúng loại cỏ, trâu chê, tôi không có điểm. Tôi cấy lúa hè thu ông xã trưởng đến ngay lối nhổ lên coi, độ sâu không đúng, bị mất điểm hôm đó.Tôi đi đạp nước ruộng sâu, đi bộ đến nơi là gần một ngày trời. Một tuần đạp nước, mỗi lần đạp là hai người, không quen làm, tôi bị bàn đạp đập vào chân bầm tím. Họ cho tôi đạp ít, nấu cơm nhiều. Cuối cùng bị trừ điểm . Tôi cắt lúa không quen cầm vằng tay bị thương chảy máu. Tôi không biết dùng đòn xốc đâm bó lúa để gánh đi,phải nhờ người khác giúp bị trừ điểm. Tôi gánh lúa không nổi và về sân đội chậm, bị trừ điểm.

Cuối cùng điểm nào tôi cũng thấp. Nhưng tôi học được nhiều thứ ở đây mà không trường nào dạy. Đó là kiên trì chịu đựng và học hỏi. Sống ở đây mới biết miền Nam mình quá ư trù phú, sung sướng. Thật lòng, chỉ khi làm một xã viên hợp tác xã mới thấy thương dân miền Bắc và yêu quý vô cùng cuộc sống dưới chính thể VNCH tự do dân chủ.

Tham gia hợp tác xã, mọi xã viên ăn cơm nhà đi lao động. Lúa chỉ được chia khi vụ mùa kết thúc. Sau khi đóng thuế cho Xã, trả nợ phân, lúa giống, thuốc trừ sâu... còn lại mới chia cho xã viên. Lúa được chia theo công điểm lao động cộng lại suốt vụ mùa. Điểm lao động được bình bầu sau mỗi ngày làm việc. Mà bình điểm lao động mới nhiêu khê.

Sau khi được lệnh nghỉ việc, cả nhóm ngồi lại và mỗi người đứng lên tự nhận xét mình làm hôm nay tốt hay không, đáng bao nhiêu điểm. Mỗi xã viên có ý kiến nhận xét số điểm ấy có xứng đáng hay không. Đồng ý thông qua hết, thư ký mới ghi vào sổ. Bình tới bình lui, tranh nhau, cãi nhau từng điểm một. Hôm nào về nhà cũng tối om. Tôi đi bờ ruộng không quen cứ bị sụp chân lọt xuống ruộng hoài. Hai chân mốc cời, gót chân nứt nẻ. Lẹt đẹt đi sau, sợ ma muốn khóc. Ôi còn đâu cái thời điệu đàng mang guốc cao đứng trên bục giảng.

Tôi là dân chưa hề biết ruộng đồng nên công điểm có là bao. Nhất là cái khoản bình điểm tôi thấy như tập cho con người tranh chấp nhỏ mọn soi mói lẫn nhau. Thật là một việc làm đáng xấu hổ. Coi quyền lợi cá nhân quá lớn không ngại bôi bẩn hay hạ gục người khác. Tôi không bao giờ tự cho điểm mình hay bình điểm xấu cho người khác. Khi tới phiên tôi, tôi chỉ xin tập thể cho bao nhiêu cũng được. Tôi đến đây để học làm cho nên không biết đáng được bao nhiêu điểm. Do đó cuối mùa lúa tôi chỉ được 100 ký thóc và vài gánh rơm đem về chụm lửa.

Mẹ chồng tôi bán dần nữ trang để mua gạo và thức ăn. Khi lấy lại cân bằng, bà phải thích nghi và bắt đầu buôn bán lại để có đồng ra đồng vô nuôi cả gia đình. Mọi sinh hoạt đều nhờ vào sự bươn chải của bà mẹ già tội nghiệp. Tôi không quen ngôn ngữ và phong tục, không biết buôn bán, lại phải đi lao động hợp tác xã nên thật tội nghiệp mẹ chồng tôi cực khổ nuôi dâu và nuôi cháu.

Một lần cả ba bà cháu đều bệnh. Mẹ chồng tôi đau buồn, sức yếu không ngồi dậy được, toàn thân đau nhức. Tôi đun rơm nấu ba nồi nước. Một nồi nước lá thuốc, một nồi nước chè xanh, một nồi nước trà tươi để bà cần thứ gì thì có. Sáng sớm lo cho mẹ chồng xong, tôi để con bé nằm bên nội, cõng con bé lớn đi trạm xá.

Đoạn đường làng thật xa. Hai chân con như muốn quẹt dưới đất. Những cơn ho làm con bé như muốn ngất đi. Làn da trắng tái lại tội tình. Đến nơi khai bệnh để lấy vài viên xuyên tam liên đem về. Buổi chiều bồng con bé em đi trạm lần nữa cũng để lấy vài viên xuyên tam liên tán ra cho uống. Biết rằng thuốc cũng chẳng trị được gì, nhưng có sự chứng nhận của trạm, tôi mới được phép ở nhà chăm con.

Nhìn căn nhà trống vắng, nhìn ba người nằm rũ trên giường vì bệnh. Tôi muốn chết cho xong. Tôi ra giữa trời khấn tứ phương, tôi xin cho tôi một lối thoát, tôi xin cho mẹ chồng và hai đứa con tôi bình an. Tôi như muốn điên lên vì bao nghịch cảnh. Như một người máy hay một người mất trí, tôi ra vườn hái đủ loại cây cỏ kể cả dây tơ hồng, cỏ vườn chầu, rau má, cỏ gấu, mã đề, rau húng quế, rau sam, dây cứt quạ, dây nhãn lồng... Tôi chặt ra, phơi khô rồi rang thủy thổ. Tôi nấu nước cho cả ba người cùng uống. "Liều mạng". Tôi nhủ thầm.

Thế mà mẹ chồng tôi ngồi dậy được, con bé lớn giảm ho, con bé em bớt sốt, những ban đỏ nổi lên rồi từ từ lặn. Một sự trả lời diệu kỳ từ ơn trên. Tôi cảm thấy mình vững tin hơn về sự sắp đặt an bài từ cõi vô hình. Tôi mạnh dạn đối diện thực tế. Tôi cứng cỏi hẳn lên. Tôi phải gánh vác cùng mẹ chồng lo nuôi con khôn lớn.

Tôi được tin Sài Gòn thất thủ vào một buổi chiều trên đường từ ruộng về nhà. Xa xa đã nghe loa của Xã vang vang báo tin toàn thắng. Tôi khựng lại để nghe một lần nữa rồi lặng người đi. Vậy là toàn cõi VN đã là của Cộng Sản. Đành chấp nhận như một định mệnh đã an bài. Trong tôi nhen nhúm một niềm vui đoàn tụ song thân. Bên bờ sông Ô Lâu nhìn dòng nước êm đềm trôi tôi lại nghĩ đến Sài gòn trong cơn hổn loạn như Đà Nẵng trước đây. Nhưng tôi thật sự không thể tưởng tượng được sự hỗn loạn đó kinh khủng đến thế nào.

Chồng tôi vẫn biền biệt. Hình như anh đã được chuyển ra Bắc nhưng nơi nào thì chưa có tin về. Tôi ôm con vào trong lòng. Con bé ốm yếu xanh xao tội nghiệp. Mọi thứ đã chấm dứt hôm nay. Tôi biết tôi sẽ không bao giờ được trở lại nghề dạy học. Tôi biết con đường phía trước sẽ đầy dẫy chông gai và tủi nhục. Tôi hoàn toàn không biết tin tức chính xác về Sài gòn. Chỉ biết tổng thống Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng và toàn cõi VN đã rơi vào tay Cộng Sản.

Con bé lớn tôi đi học. Tờ giấy khai sinh kèm theo hồ sơ đóng một cái mộc đỏ "Con ngụy quân, ngụy quyền" làm tôi chới với. Làm sao thoát khỏi mấy chữ đỏ này trong suốt cuộc đời con tôi. Con bé em lớn dần và bập bẹ nói. Mỗi khi đi ngang cỗng chào của xóm có hình ông Hồ và tấm bảng "Độc lập, tự do, hạnh phúc" Cháu giơ tay lên "Muôn năm, muôn năm". Trời ơi! những câu hô hào khẩu hiệu hàng ngày trên cái loa trước trụ sở Ủy Ban đã dạy con tôi hai chữ này. Mọi thứ nhồi nhét vào đầu óc trẻ thơ cho tôi thấy sự khác biệt của nền giáo dục tôi từng học và dạy khác với bây giờ như thế nào.

Con bé chị đi học về hỏi tôi;

- Mạ có biết răng mà mền được như ri không? Tôi trả lời con là Không biết. Con bé hí hửng trả lời:

-Rứa là nhờ Bác Hồ Chí Minh hy sinh cứu nát. Khôn có Bác mền chết đói. Cô con dạy như rứa. Mền phải nhớ ơn Bác Hồ Chí Minh".

Học tập và giáo dục chính trị dường như tổ chức thường xuyên cho mọi người dân trong làng xã. Buổi tối đi làm về chưa kịp ăn cơm đã nghe kẻng đội vang lên báo tin lên Ủy Ban học tập. Có khi về trễ không kịp tắm rửa thay đồ, nghe kẻng đội đánh là phải đi ngay. Mọi người tay cầm con cúi (là rơm bện thật chặc dùng để đốt lên làm đuốc đi đêm) để đi họp. Trên chiếc bàn con, đèn dầu leo lét, cán bộ miền Bắc quần chẻn áo ngắn nói như vẹt. Vừa dai, vừa dài vừa vô lý kéo dài trong cái ngáp mệt mõi và ngủ gật của bà con xã viên.

Tan buổi họp, từng đoàn người như những bóng ma với đóm lửa lập lòe đi vào từng xóm. Những hàng tre trúc thấp thoáng ánh lửa như âm hồn phảng phất trở về.

Tháng tư năm 1975, người con gái Biên Hòa hoàn toàn đổi đời để sống cho chồng và cho con. Tôi quên mình là ai và hòa nhập với đời sống một xã viên hợp tác xã. Dần dần giọng tôi cứng lại. Tôi nói chuyện bằng âm hưởng của người Quảng Trị nặng và trầm. Tôi dùng những từ địa phương mà người miền Nam không thể nào hiểu được. Thí dụ như "Lấy chỗi quét sân", tôi sẽ nói "Lấy chủi suốt trươi." "Vợ chồng" sẽ dùng chữ "Cáy Dôn", "Uống nước" là "Uống nát", "Cắt gốc rạ" gọi là Bứt Tót"...Mặt tôi sạm đen, chân mốc cời nứt nẻ. Bàn tay ô dề chai cứng, lưng bàn tay chằng chịt những đường gân nổi lên xấu xí. Chiếc vòng cẩm thạch lên nước xanh tuyền ngày xưa, đã bị vùi xuống bùn đen làm chết ngọc. Tôi muốn cỡi ra cất đi nhưng bàn tay đã quá to không cách nào lấy ra được.

Tôi đã có thể chăn trâu, ra lịnh cho trâu đi hay đứng lại. Biết cỏ nào trâu ăn, cỏ nào trâu chê. Việc làm ruộng tôi cũng quen dần. Tôi đã không còn sợ đỉa. Quen dần những câu nói chơi, nói lóng tục tỉu của những người nông dân khi xuống đồng hay gặt lúa. Tôi đã biết cười mỉm khi nghe những bài lên lớp thần thoại Liên Sô vĩ đại hay sự trù dập của những người cầm quyền. Tôi không giận khi họ lấy tôi làm đề tài để chế nhạo vợ sĩ quan ngụy mất nết, hám danh. Tôi không nhục khi họ nói tôi là Me Mỹ có con lai, bám chân đế quốc.

Sống ở nơi này, tôi đã hứng chịu nhiều bi ai nhất trong cuộc đời. Nhưng cũng nơi này cho tôi một tình cảm thiêng liêng ràng buộc nghĩa tình. Cho tôi tập làm người đúng nghĩa, biết tiết kiệm và lo xa. Biết trân quý hạt gạo, củ khoai, chén ruốc. Biết sự nhọc nhằn của những người nông dân tay lấm chân bùn.

Hơn nữa, ở đây tôi đã biết thế nào là bão lụt. Con nước từ dưới sông cứ dâng lên theo cơn mưa không lớn lắm nhưng rất nhiều gió và lạnh. Chỉ vài giờ đồng hồ thôi là xung quanh nước ngập mênh mông. Ngồi trong nhà có thể vớt củi trôi về. Những bụi chuối ngoài vườn chỉ còn thấy những chiếc lá lay động như bàn tay con nguời giơ lên vẫy để cầu cứu. Người dân ở đây nghe gió là đoán biết con nước sắp về, lụt sẽ tới. Họ chặt sẵn chuối làm bè và đó là phương tiện duy nhất để đi từ nhà này sang nhà khác.

Lụt có thể kéo dài vài ngày, nhưng cái lạnh thì cả mấy tháng. Đó là lý do mà ruốc và thuốc lá rất mắc mỏ và cần thiết. Nhà nào cũng phơi khô khoai, sắn, ớt, trữ mắm ruốc để dành ăn. Cái lạnh miền Trung mới đáng sợ. Lạnh đến cá cũng nhảy lên bờ để chết. Tay tôi cấy lúa mà trơ ra không nắm được. Hai chân đứng dưới ruộng quíu lại không thể bước. Tôi té nhiều lần, quần áo lấm đầy bùn nhưng phải đứng lên tiến tới cùng bạn cấy. Nếu không đỉa sẽ gom về tấn công và sẽ bị phê bình kiểm thảo. Mọi người ai cũng ăn trầu và hút thuốc. Riêng tôi chỉ nhai gừng để giữ ấm. Thức ăn đem theo họ kho ớt đỏ lòm, lại còn cắn ớt trái. Riêng tôi chỉ chút muối mè nên lạnh càng thêm lạnh.

Vâng, tháng tư năm 1975 riêng tôi là như vậy. Tôi từng nói đùa với chồng

Anh đi cải tạo miền xa.

Em cũng cải tạo ở nhà khác chi

Giữ trâu, cấy lúa khó gì

Làm thân vợ ngụy kiên trì vượt qua.

Sau 30 tháng 4/ 1975 Biết bao oan khiên đã xảy ra cho dân tộc VN. Bao nhiêu xác người bỏ thây trên biển đông vì hai chữ tự do, bao nhiêu mạng tù nhân CS chết ức oan trên núi rừng Việt Bắc, bao nhiêu người con gái đã bị làm nhục vì hải tặc Thái Lan. Những vết hằn chiến tranh thành sẹo, thành hậu chấn theo mỗi mùa tháng tư lại về. Những khúc phim cũ được quay lại ngay chính từ mỗi con người để khắc khoải không nguôi.

Tôi đang ở đây, một nước Mỹ xa lạ trở thành quê hương. Những người láng giềng nhiều chủng tộc khác nhau. Hai thằng con trai tôi sinh sau ngày chồng ra tù, bây giờ đang là những người quân nhân trong quân đội Hoa Kỳ. Màu cờ con tôi phục vụ không phải là màu cờ của Tổ Quốc VN.

Các cháu tôi đã được sinh ra và lớn lên với quốc tịch Mỹ, nói tiếng Mỹ và sống theo người Mỹ. Con bé 5 tháng tuổi trong ngày 30/4/75 bây giờ là một phụ nữ trung niên công ăn việc làm ổn định. Chồng tôi do hậu chấn tù đày nên thân xác và tâm thần sa sút nặng nề. Những ám ảnh những ngày tù tội đè nặng quá khứ anh vô phương vùng vẫy. Tôi sống trong sự tuyệt vọng về bệnh tình của chồng, dù đây là một nước văn minh có điều kiện về y tế tiên tiến nhất trên thế giới.

Tôi cám ơn đất nước đã cưu mang gia đình tôi để chúng tôi có cuộc sống tự do. Các con và cháu tôi đến trường mà không bị cái lý lịch ngụy cản bước tương lai. Tôi đã có quá nhiều thứ trong cuộc sống nhờ bàn tay giúp đỡ của những người không hề quen biết. Ông Trời đã xếp đặt cho những kẻ thua cuộc lại có thể đứng thẳng lên hảnh diện vì lý tưởng của mình. Những chiếc áo lính, những cái nón, những bản nhạc... Tất cả những gì của Mỹ Ngụy bây giờ lại là những món đồ giá trị được yêu thích và đáng trân trọng.

Những người con Ngụy thế hệ thứ hai đã làm rạng danh cha ông tham gia vào dòng chính của quốc gia tạm dung. Các cháu đang và sẽ là những con người tài năng, giỏi giang đóng góp tài sức và trí tuệ cho đất nước cưu mang mình. Con tôi hãnh diện vì lý tưởng Quốc Gia của cha mình và dù lá cờ vàng không được tung bay tại quê hương VN nhưng nó lồng lộng rực rỡ mọi nơi trên thế giới.

Xin cám ơn những người đã tranh đấu cho người lính được đến Mỹ theo diện HO. Cám ơn những người đã dũng cảm đứng lên cất cao tiếng nói tự do của người Việt Nam. Cám ơn anh, cám ơn chị, cám ơn mọi người đã cho chúng tôi đến đây để sống một cách lương thiện và đầy tình người.

Tháng 4 /2019 tôi viết lại bài này để nhớ một thời xã viên của mình.

Người chồng của tôi đã khuất núi. Anh đã về với tổ tiên và anh em đồng đội. Anh đã không còn đau đớn và khổ sở vì hậu chấn của chiến tranh và tù đày.

Tôi không còn trẻ để buồn vui quá khứ. Mọi sự việc trong tôi bây giờ là hãy quên những gì quên được. Sống vui vẻ từng ngày cho con cháu vui theo.

Quê hương Việt Nam vẫn mãi mãi nằm trong trái tim tôi.

Nguyễn thị Thêm
Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Wed Apr 14, 2021 9:10 pm    Tiêu đề: THÁNG 4 VỚI SAO KHUÊ


THÁNG 4 VỚI SAO KHUÊ


Xin vui lòng bấm vào link dưới đây :

http://maithousa.blogspot.com/2014/11/trang-sao-khue.html?view=timeslide


Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Fri Apr 23, 2021 7:50 pm    Tiêu đề: NHỚ QUÊ

Nhớ quê…
Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều

Thưa quý vị
Mỗi lần gió chuyển mùa sang, chiều tà chầm chậm rơi, dìu bóng hoàng hôn vào tối, chúng ta thường vấn vương một nỗi buồn, một nỗi buồn man mác, nỗi buồn mà không hiểu vì sao mình buồn, chỉ thấy nhè nhè nhớ nhung mà không biết nhớ ai, nhớ cái gì… Nỗi nhớ vừa trổi lên, mơ hồ bàng bạc đó từng bước từng bước đưa chúng ta lùi về dĩ vãng và ta chợt thấy ta dừng chân tại chốn xưa: quê nhà


Nhớ Quê Nhà

Chiều Đông lạnh lẽo nhớ quê nhà
Tháng chạp Giáng sinh khúc thánh ca
Nhạc trổi tưng bừng vang khắp xóm
Hài đồng máng cỏ Chúa sinh ra.

Tết đến xuân sang cũng nhớ nhà
Cây mai hàng xóm có vươn qua
Chợ hoa Nguyễn Huệ còn khoe sắc
Nữ tú nam thanh vẫn mượt mà?

Đầm sen hạ tới bóng chiều tà
Ngào ngạt hương thơm lại nhớ nhà
Chùa cũ rêu xanh nhoà ký ức
Bên trời nhạn trắng thoáng bay qua

Bên hiên văng vẳng tiếng thu ca
Cảnh cũ hồn xưa chợt hiện ra
Hoàng cúc bên thềm vừa hé nụ
Chiều hôm man mác bóng quê nhà

Quê cũ là gì cứ vấn vương
Đi xa vẫn thấy nhớ cùng thương
Cũng như Lý Bạch ngày xưa đó
Trăng sáng đê đầu quy cố hương*

Sao Khuê


Lý Bạch có bài thơ

Tĩnh dạ tư

Sàng tiền minh nguyệt quang
Nghi thị địa thượng sương
Cử đầu vọng minh nguyệt
Đê đầu tư cố hương

Dịch nghĩa là

Trăn trở trong đêm vắng
Trước giường trăng sáng soi
Ngỡ sương phủ mặt đất
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Cúi đầu nhớ quê xưa



Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Tue May 04, 2021 7:52 pm    Tiêu đề: Hoa Hồng Bên Cửa Sổ - Sao Khuê

Hoa Hồng Bên Cửa Sổ


Geranium hồng núp bên cửa sổ

Nghe trong nhà bàn tán chuyện thơ văn

Gió mùa thu đùa nhẹ lá lăn tăn ,

Vô tình không biết chuyện băn khoăn trong phòng khách

Lấy miếng bánh ngọt, châm thêm trà vào tách.

Nâng ly, thầm mời khách, mời chủ nhân

Chuyện đời giả giả, chân chân

Nghe, nghe đó vẫn thả hồn theo mây trắng

Trong hơi thu nắng vàng như đọng lắng

Lòng chợt nghe thanh thản bất ngờ

Này tao nhân, này mặt khách cứ làm thơ

Riêng mình, mình chỉ muốn

Cúi xuống,

Hôn đóa hoa hồng bên cửa sổ,

Sao Khuê


Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Sat May 08, 2021 12:03 pm    Tiêu đề: Mộng với hoa & Mùa thu không trở lại

Mộng với hoa

Từ lúc đôi mươi anh gặp em
Nhưng em còn mải sách với đèn
Đâu dám tỏ tình e hương vị
Làm bận lòng em lúc mới quen
Đôi khi có dịp gặp giữa đường
Chỉ dám nhìn thôi, ngát yêu thương
Anh vẫn cừ hằng ôm hy vọng
Mai này duyên nợ kết tơ vương
Anh ước cùng em một kiếp này
Thêm ngàn sau nữa tay nắm tay
Ta sẽ cùng nhau hòa mộng tưởng
Của ngày mai và của hôm nay
Nhưng rồi một sáng thuyền ra khơi
Ô hay ! sao chẳng thấy em cười
Anh đã theo em toan giữ lại
Nhưng rồi anh lại chẳng hở môi!
Anh vẫn nhớ hoài đôi mắt em
Ôi chao, anh nhớ quá hàng đêm
Nhớ những ngày tàn sương khói phủ
Quyền quyện chiều lên nhạt dáng xiêm
Bên khung cửa sổ em tỳ tay
Đôi khi còn nhíu cặp chân mày
Cong như vòng nguyệt trên vầng trán
Khiến lời chưa tỏ đã vụt bay.
Em ơi! Em có thấu nỗi niềm
Vì em kín cổng chốn thâm nghiêm
Em chẳng bao giờ nghe anh nói
Trăm ngàn lần: ‘anh rất yêu em’
Thương thay em đã bước lạc đường
Xốn xang trong dạ anh tiếc thương
Tiếc thương rơi xuống ngàn giọt lệ
Quyện lại lòng anh nỗi vấn vương
Hai đứa chúng mình nay rất xa
Nếu em dạo bước dưới trăng ngà
Thì hãy nhớ rằng trần gian có
Có ta một thuở, mộng với hoa.
Sao Khuê

Mùa thu không trở lại

Mùa thu này anh vẫn chưa trở lại
Một mình em bên cội hoa vàng
Một mình em trong cánh đồng hoa dại
Một mình em sầu nặng, đợi mùa sang...
Mùa thu rồi anh vẫn không trở lại
Mưa nhớ anh, lệ nhỏ hạt âm u
Em nhớ anh, nhớ tình yêu nhỏ dại
Em tìm anh, chỉ thấy hạt sương mù
Anh có biết, tình không bao giờ chết
Dẫu trần gian, địa ngục hay thiên đàng
Dẫu cát bụi có xoá mờ thân xác
Em vì anh giữ mãi làn môi ngoan
Rất nhiều đêm, em, cơn mê rất lạ,
Cố tìm anh trong bóng tối, lạc loài
Thân bước đi, từng bước chân mộng mị
Hồn nhớ anh, bão nổi chẳng hề phai...
Anh ra đi, chẳng bao giờ trở lại
Theo dòng sông réo gọi thuở hoang sơ
Mặc cho em những đêm trời chuyển gió
Gọi mãi tên anh trong cả cơn mơ...
Xa nhau rồi, xoá mờ luôn dấu tích
Cánh chim bằng theo gió chẳng bay về
Mười ngón tay, em đan niềm nhung nhớ
Sợi tóc dài vương vấn mãi đam mê...
Anh! Nếu có ngày nào quay lại
Tiếng sáo diều trầm bổng quyện âm thanh
Ta yêu nhau, tình không bao giờ hết
Vì tình ta là lưới nhện mong manh...
Dẫu biết anh không bao giờ trở lại
Nhưng thu về em vẫn cứ ngóng trông
Lá vàng rơi, gợi nhớ đến âm thầm
Anh không đến, dẫu thu hằng trở lại!
Anh ! em vẫn giữ mối tình thơ dại
Để tin rằng mình cũng được người yêu.
Sao Khuê


Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Fri May 28, 2021 6:31 pm    Tiêu đề: Hương Bưởi


Hương Bưởi


Hương Bưởi

Sao Khuê

Có ai đã leo lên cành Bưởi

Nhỏ lệ rưng rưng, mắt đỏ au.

Ðâu biết bên kia khung cửa sổ

Có người đứng ngắm mà lòng đau.

Sau thân cổ thụ, tôi hằng ngắm

Ai tan học về để mộng mơ...

Tối đến đi qua còn đi lại

Phải chi mà... mình biết làm thơ.

Uớc chi sát vách, làm hàng xóm

Lùa vào khe cửa một lá thư...

Nhưng cũng tại mình hay mắc cỡ

Chỉ dám theo xa, Em chẳng chờ.

Ví thử hai nhà chung hàng giậu

Rồi con bướm trắng sẽ bay sang...

Tôi sẽ ngắm Em đi qua lại

Phất phới tung bay áo lụa vàng...

Hay là... tôi ước thành Thi Sĩ

Mái tóc bềnh bồng, hai vai gầỵ

Không còn lưỡng lự, tôi sẽ đến

Trao tặng cho Em tập thơ dày...

Dáng Em ai khắc vào tâm tưởng

Khổ tôi đêm nhớ với ngày thương

Thu ba, Em nghiêng làn sóng nhỏ

Lòng tôi lảo đảo, sóng đại dương.

Tôi đã viết ra rất nhiều lời

Nhưng rồi lại xé nát tả tơi.

Hương thừa trong gió còn thoang thoảng

Mà gót sen kia đã cách rời...

Trần gian, tôi như người đi lạc

Nhưng chẳng quên đường xanh lá me.

Sau gốc me già thân to lớn

Tôi vẫn chờ Em tan học về

Tôi mong có thật nhiều can đảm

Ra chận Em về để hỏi thăm.

Lá thư sẽ nối liền...khoảng cách

Tôi, Em hôn ước kết trăm năm.

Em đã về đâu ai biết được

Thư tôi chưa gửi đã tả tơi.

Quăng bút từ nay thư không viết

Và cũng từ nay... bặt tiếng cười.

Sao Khuê


Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Wed Jul 28, 2021 2:53 pm    Tiêu đề: Nước Tàu loạn Vì Mấy Bả...


Nước Tàu loạn Vì Mấy Bả…

Mai Hữu Thọ chọn ảnh minh họa


Nước Tàu loạn Vì Mấy Bả...

(Sao Khuê sưu tầm)

Chuyện trò với cháu nội

“Sắc bất ba đào... ”

“Nước Tàu loạn vì mấy bả... ”

Bài 14

- “Ông nội nói nước Tàu sẽ sụp đổ vì đàn bà?”

- “Sẽ cái gì! Sụp đổ bao nhiêu lần rồi, cũng vì mấy bả. “Nước mất nhà tan” là vì mấy bả... ”

- “Ở bên Tàu, người ta dựng tượng Dương Quí phi đấy! Ông nội biết không?”

- “Biết chớ sao không! Tượng Dương Quí phi đang tắm. Tại sao cháu biết không?

- “Sao ông nội?”

- “Tượng đang tắm để cho thiên hạ thấy đủ “trong ngoài”. Thấy đủ mới “mãn nhãn”. Ngắm xong thì về mà kiếm loại cho đủ kích thước, hình dáng. Người Tàu mà! ”

- “Người Tàu thì sao?”

- “Người Tàu có khiếu... dâm dục, dâm tặc thì đúng hơn. Họ có nhiều loại thuốc kích dâm, toa thuốc kích dâm của Đường Minh Hoàng, của Mao “chủ tịch” - “Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử”. Rượu Mao Đài. Vua thì cần phải “chơi” nhiều để có con trai nối ngôi. Ngoài thuốc kích dâm họ còn có món ăn kích dâm: Rượu nồng, dê béo. “Thế gian ba chuyện không chừa. Rượu nồng, dê béo, gái vừa đương tơ”. Sừng tê, ngà voi... Máu con trút, con nhím, thịt dơi, thịt chó... “làm” tuốt. Dâm dục như thế, ông vua nào “băng hà” ở tuổi quá năm mươi được coi như là... thọ. Vua như thế thì quan cũng như thế... Mất nước cũng từ đó, bán nước... bán đất, bán biển... “Rừng vàng biển bạc” bán hết cũng từ “dâm loạn” mà ra. Dâm loạn chớ không phải “chính dâm” đâu nghe! Coi phim La Mã, trước khi đế quốc nầy sụp đổ, cách sống của bọn thống trị La Mã không khác chi bọn thống trị ba Tàu. Bây giờ bên Tàu mới tạc tượng Dương Quí phi là trễ. Cách nay vài chục năm, bên Mỹ nầy, người ta đã “thần tượng” Marilyn Monroe rồi. “Thần tượng sex”. Giàu có, sung sướng thì hưởng thụ, ăn chơi. “Thừa cơm rửng mỡ” là nhận xét chính xác của ông bà chúng ta. Mấy bả cũng không vừa chi, “Chữ trinh đáng giá ngàn vàng, Từ chàng thứ nhứt đến chàng là năm. Còn như yêu trộm nhớ thầm, Họp chợ trên bụng cả trăm mạng người.” Đấy! Tuyệt thế giai nhân bên Tàu đấy! Các bà Xẩm mà như thế thì các chú “Nam Tử Hán” không giết nhau thế nào được! Mỹ nhân, đại mỹ nhân bên Tàu có 4 hay 8 hay nhiều hơn nữa, kể không hết: Tây Thi, Ngọc Đán, Bao Tự, Chiêu Quân, Điêu Thuyền, Võ Tắc Thiên, Trần Viên Viên, Từ Hi, “Ba chị em nhà họ Tống”... Gần đây thì có Giang Thanh, bây giờ là thời kỳ của Bành Lệ Viện. Trong tất cả câu chuyện của các người đẹp nầy, ông nội thấy câu chuyện của Trần Viên Viên là đáng thương và đáng mai mỉa cho người Tàu nhứt.

- “Chuyện như thế nào? Ông nội! ”

- “Bấy giờ người Mãn Châu mạnh lắm, đem quâm xâm lăng nước Tàu của nhà Minh. Nhà Minh sai tướng là Ngô Tam Quế đem hai mươi vạn quân trấn giữ Sơn Hải Quan không cho quân Mãn Châu tràn xuống. Sơn Hải Quan là một cửa ải quan trọng nằm giữa biên giới Mãn Châu và Trung nguyên, coi như lục địa Tàu. Mất Sơn Hải Quan là coi như nhà Minh dứt nghiệp.

Ngô Tam Quế đi đánh giặc xa, để lại ở nhà một người thiếp yêu rất đẹp tên là Trần Viên Viên. Tuy nhà Minh chưa sụp đổ nhưng nước Tàu rối loạn dữ. Đám giặc Lý Tự Thành là nổi tiếng nhứt. Có một tướng của Lý Tự Thành cướp mất Trần Viên Viên của Ngô Tam Quế. Được tin, Quế giận lắm, bèn đầu hàng Mãn Châu, cho quân Mãn tràn xuống đánh bại Lý Tự Thành, lên ngôi ở Bắc Kinh, lập ra nhà Thanh. Năm đó là năm 1644. Cuộc “Cách Mạng” Tân Hợi năm 1911, chấm dứt sự nghiệp nhà Thanh. Tính ra là người Mãn Châu cai trị nước Tàu của “Nam Tử Hán” là 267 năm - gần ba trăm năm - coi cũng đã mắt: Chỉ vì một cái “lá đa” của Trần Viên Viên mà tụi nó giết nhau, cai trị, đàn áp, bóc lột nhau gần ba trăm năm, cũng đáng đời mấy chú Ba thường huênh hoang tự xưng là “Nam Tử Hán”. coi mình như là “con trời”, sống trên mồ hôi nước mắt, xương máu của các dân tộc chung quanh.

- “Cháu cũng không ưa người Trung Quốc. Nhưng tại sao người Việt Nam ưa học đòi người Trung Quốc?”

- “Tai vì người Việt Nam hồi xưa nhìn thế giới không ra ngoài vòm trời của Bắc Kinh, cứ tưởng rằng cái gì Tàu cũng nhứt thiên hạ, thậm chí, khi Tây chiếm kinh đô Huế rồi mà người Việt còn chạy qua Tàu cầu viện, hy vọng người Tàu cứu được mình, không nhớ rằng lúc ấy “Bát quốc liên minh” đang xâu xé con bò Tàu đói thuốc phiện.”

- “Cũng rửa được mối hận “ngàn năm Bắc thuộc” ông nội nhỉ?”

- “Người Việt “sợ” người Tàu nhiều chuyện buồn cười lắm. Cho tới tận bây giờ, đám đang ngồi ở Bắc Bộ phủ, đứng trước bọn Tàu ở Trung Nam Hải vẫn còn run.

- “Ông nội thích người Tàu cái gì?”

- “Văn chương. Nói đúng ra là thi ca, kể cả thi ca vong quốc.”

- “Thế nào gọi là thi ca vong quốc?”

- “Ông nội phải chỉ cho cháu nghe một bài hát. Bà “Đêm Tàn Bến Ngự” của Dương Thiệu Tước. Bến Ngự là một bến sông ở Huế, trên con sông có tên là “Sông An Cựu”. (“Sông An Cựu nắng đục mưa trong” - ca dao Huế). Ngày nay “con đường Nam Giao thẳng mà không bằng” - XD), người ta lên chùa Từ Đàm hay đi thăm lăng tẩm, chùa chiền ở phía tây/ nam Huế, họ đi theo con đường Nam Giao, còn như ngày xưa, người ta đi ngã Bến Ngự. Bến để vua “ngự”, vua “đi”. Những người đi chơi thuyền, nghe ca Huế trên sông Hương, gần sáng thì thuyền ghé lại Bến Ngự để khách lên bến ra về. Bến nầy vắng vẻ kín đáo hơn bến Đông Ba hay bến Trường Tiền. Mấy chữ “đêm tàn Bến Ngự” là do ý nghĩa như thế.”

- “Nước thì mất rồi, vua thì bị đày qua An-giê-ri, qua đảo Runion rồi, Tây “nô lệ” dân ta rồi. Mà quan thì còn giữ thú chơi, nghe ca Huế hằng đêm trên sông Hương nên Dương Thiệu Tước mới nhắc lại câu chuyện đau lòng ấy bằng mấy chữ “Ai luyến ai tiếc khúc ca Tần Hoài.” Đêm trên đò sông Hương ở Huế, thời kỳ mất nước, Tây đô hộ, còn gì nữa mà còn hát “Khúc Hậu Đình”, đời Trần Hậu Chủ xa cách hơn cả ngàn năm?

Trần Hậu Chủ (553-604) là vị vua cuối cùng đời nhà Trần bên Tàu, là một ông vua đa tình, đam mê ca hát, và nhứt là... mê gái. Trương Lệ Hoa là người đựợc vua đặc biệt sủng ái. Giặc đã tới bên rồi mà nhà vua vẫn còn vui chơi cùng người đẹp, hát khúc “Hậu Đình Hoa” (Có vườn hoa phía sau đình). Đỗ Mục, một thi hào thời Vãn Đường, một hôm đi chơi trên sông Hoài, đêm nghe bên sông một ca nhi hát bài “Hậu Đình Hoa” của Trần Hậu Chủ, bèn làm bài tứ tyệt:

Bạc Tần Hoài

Yên lung hàn thuỷ nguyệt lung sa,

Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia.

Thương nữ bất tri vong quốc hận,

Cách giang do xướng “Hậu đình hoa”.

Dịch nghĩa

Khói lan toả trên nước lạnh, ánh nguyệt lan trên cát

Buổi đêm đậu thuyền tại bến sông Tần Hoài cạnh quán rượu

Cô gái trẻ không biết đến nỗi hận mất nước

Ở bên kia sông còn hát khúc “Hậu đình hoa”.

Cuối đời Nguyễn, sau khi nước mất về tay Thực Dân Pháp, đêm đêm trên sông Hương, người ta vẫn còn nghe tiếng đàn, tiếng ca của các ca kỹ (kỹ nữ: gái điếm), Bài “Đêm Tàn Bến Ngự” có tâm trạng đó, cũng như mấy câu thơ sau đây, của Tạ Ký - hay một học sinh nào đó, - tiễn bạn lên đường nhập ngũ, in trong “Tập Văn Học Sinh Khải Định”/ niên khóa 1954/55:

Uống đi mầy, chén ly bôi,

Rồi mai mầy nhớ chiều này xa nhau.

Có gì đâu, nghĩa gì đâu,

Khi xưa Kinh, Tiệm như tao với mày

Giã nhau dùng tiệc thật say,

Tội gì ngâm khúc Hậu Đình mầy ơi!

Saigon, sau Hiệp Định Paris 1973, không ít nhà hàng ca nhạc hằng đêm, các ca sĩ vẫn còn say sưa hát những bài “Bạc Tần Hoài”:

“Thương nữ bất tri vong quốc hận... ” chờ ngày 30 tháng Tư ôm nhau “dzọt” lẹ...

- “Nhưng cháu muốn biết sau một trăm năm Cộng Sản Trung Quốc đi về đâu?”

- “Về đâu? Đã là như thế thì nó như thế. Dù tin Phật hay không tin Phật, “Nhân Quả” là điều tương tác. Nhìn trên bình diện vật lý hay hóa học, nó cũng như thế. Hễ có nhân ấy thì có quả ấy. Lịch sử rõ như ban ngày, hỏi ông nội gì nữa. Nếu Trung Nam Hải có một bà ngồi bảnh chọe thì thiên hạ đại loạn là có điều kiện ắt và đủ. Ông nội có viết một bài về mấy bả làm loạn nước Tàu rồi. Tới bây giờ, các điều kiện ấy có sẵn. Thiếu một điều, là trong bài viết ấy, ông nội chỉ nói tới các điều kiện nội tại. Còn thế giới nữa chi. Không lý cả thế giới nầy ngồi yên để chú Ba múa gậy vườn hoang. Mỹ, châu Âu sẽ hè nhau lại mà đập banh xà rông nước Tàu ra. Không chừng lúc đó, Nga cũng nhào vô với phe Đồng Minh để chia phần.”

“Cạnh tranh, ưu thắng liệt bại và văn minh nhân loại tồn tại với loài người. Loài người còn thì Tự Do, Dân Chủ là con đường nhân loại phải đi tới. Ai đi ngược bánh xe lịch sử sẽ bị nghiền nát. Nhất Linh cũng từng nói một câu tương tự như thế rồi! ”

hoànglonghải

Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Fri Sep 03, 2021 12:15 am    Tiêu đề: Câu CHUYỆN HAY và Ý NGHĨA!


Câu CHUYỆN HAY và Ý NGHĨA!


Câu CHUYỆN HAY và Ý NGHĨA!

(Sao Khuê sưu tầm)

Mỗi người đều có một nhân sinh quan khác nhau, cách nhìn khác nhau về cuộc đời hay con người. Người có tư tưởng bi quan thì nhìn nhận cuộc sống toàn màu đen, không có điều gì tốt đẹp nhưng người lạc quan thì ngược lại. Hay cùng một sự việc, có người coi đó là họa, có người lại coi đó là phúc, là may mắn...

1. Chiếc cốc không

Chú tiểu hỏi sư phụ mình rằng: Sư phụ, con thấy mệt quá, cả ngày con bận bịu, chẳng tập trung được vào thứ gì cả!

Sư phụ trầm tư một lát, rồi bảo chú tiểu lấy một chiếc cốc không.

Sư phụ liền đặt hạt dẻ vào trong chiếc cốc, trong thoáng chốc đã đầy. Lúc đó, sư phụ mới quay sang hỏi: Còn có thể đặt thêm gì vào cốc không?

Chú tiểu trả lời: Cốc đầy rồi, không cho vào được nữa ạ.

Sư phụ lại đem rất nhiều gạo đổ vào cốc, lấp đầy toàn bộ, chú tiểu thoáng hiểu ra. Sư phụ lại lấy thêm nước đổ vào. Vừa đổ vào vừa cười hỏi: Lần này đã đầy chưa? Chú tiểu không dám trả lời.

Sư phụ lại lấy một nắm muối thả vào trong cốc, muối tan vào nước, đến lúc này mới dùng lại. Mỗi người chúng ta là một chiếc cốc trống không. Nếu bị quá nhiều việc nhỏ lấp đầy, sẽ chẳng còn lòng dạ nào nghĩ đến cái gì lớn lao. Có đặt việc lớn vào trước thì mới có thể phân phối, bố trí thời gian để thực hiện, làm nên đại sự.

2. Chiếc thuyền không

<chiecthuyenngoaxa>

Một người đi thuyền qua sông, thấy phía trước có một con thuyền đang trôi đến. Người này hô vang báo hiệu mấy lần, bên kia không một lời hồi đáp. Thấy vậy, người đi thuyền liền mở miệng mắng to kẻ lái thuyền kia không có mắt.

Nhưng khi đến gần, nhìn sang thì mới biết chiếc thuyền này trống rỗng, không có một bóng người. Thấy vậy, cơn bực tức của người đi thuyền cũng tan biến, không còn vết tích gì.

Cơn nóng giận xét cho cùng cũng chỉ là từ trong lòng ta mà tự phát sinh ra. Nếu nhìn xa trông rộng thêm một chút, kiềm chế lại một chút, không còn lấy bản thân mình làm trung tâm thì sẽ tránh được rất nhiều cơn nóng giận không đáng có.

3. Dùng rổ múc nước

Có đứa trẻ nọ đến tuổi đi học, hôm nào cũng chăm chỉ đọc sách. Một hôm, đứa trẻ hỏi ông rằng: Ông ơi, cháu mỗi ngày đều đọc sách, nhưng cháu đa phần đều không hiểu, gấp sách lại thì quên sạch, đọc sách như vậy có tác dụng gì không?

Người ông không vội trả lời, quay người lấy một chiếc rổ đưa cho đứa cháu bảo rằng: Cháu hãy cầm chiếc rổ này, đựng nước về đây cho ông.

Đứa bé thử rất nhiều lần, nhưng trên đời có bao giờ rổ lại chứa được nước. Dù có vất vả bao nhiêu đứa bé cũng không thể mang nước về được. Người ông lúc đó mới cười, bảo đứa trẻ nhìn lại xem chiếc rổ như thế nào. Đến lúc này, đứa trẻ mới nhận ra rằng, chiếc rổ hiện tại, đã sạch hơn chiếc rổ lúc đầu vạn lần.

Con người ta khi đọc sách, dù là không hiểu, không nhớ được, nhưng cũng sẽ thay đổi bản thân một cách vô tri vô giác. Những gì đọc được trong sách sẽ được lưu lại trong tiềm thức con người, từ đó soi sáng trí tuệ, thấu hiểu nhân sinh.

4. Chiếc bình không

Cáo cùng khỉ mấy ngày liền không có gì bỏ vào bụng, liền đi khẩn cầu Sơn Thần ban cho bọn chúng ít đồ ăn.

Sơn Thần nói rằng: Ta có hai chiếc bình, một cái đổ đầy đồ ăn, một cái không, các ngươi chọn một đi.

Cáo nghĩ một lúc, nói: Tôi thấy cả hai bình này đều trống không.

Nghe thấy vậy, một chiếc bình vội lên tiếng thanh minh: Không phải, ta đích thị là một chiếc bình đầy.

Cáo nghe xong, lập tức lấy chiếc bình còn lại, bên trong quả nhiên tràn đầy đồ ăn.

Khỉ không hiểu, cáo liền giải thích: Chỉ có những kẻ trống rỗng mới sợ người khác bảo rằng mình trống rỗng, do vậy mới vội thanh minh. Còn những kẻ bên trong đầy đủ, dù có nói gì, nó cũng sẽ không quan tâm.

5. Chiếc chén trống không

<42C>

Có một vị học giả muốn gặp thiền sư để tìm lối thoát cho sự bế tắc của mình. Tuy nhiên, thay vì lắng nghe, ông lại nói át hết phần của vị thiền sư, khăng khăng bảo vệ quan điểm của mình.

Vị thiền sư chỉ im lặng rót trà vào một chiếc chén. Nước trà đã đầy, vị thiền sư vẫn không dừng lại. Người kia thấy vậy liền can ngăn: Sư thầy đừng rót nữa, chén đầy tràn ra mất.

Đến lúc đó, vị thiền sư mới nói: Ngài như chén trà này, chứa đầy thành kiến cũng như quan điểm cá nhân của ngài, chén đã đầy rồi thì làm sao có thể rót thêm được gì vào?

Người kia lúc này mới chợt hiểu ra tại sao mình bế tắc, tại sao xung quanh mình mãi không có thêm gì mới mẻ.

Căn bản bên trong mình đã được lấp đầy bởi thành kiến nên chẳng thể tiếp thu thêm được bất cứ thứ gì. Muốn uống trà ngon, đầu tiên phải có chén rỗng.

Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Fri Sep 03, 2021 1:41 am    Tiêu đề: ÔNG PHẬT CƯỜI


ÔNG PHẬT CƯỜI


ÔNG PHẬT CƯỜI

Nguyễn Đại Thuật

(Sao Khuê sưu tầm)

Năm đó, khi chỉ còn hai tuần là bắt đầu vào năm học cuối của chương-trình tiểu học của tôi thì cha mẹ tôi chuyển nhà. Nhà cha mẹ tôi ở thuộc vùng Nam thành-phố Paris, nay cha mẹ tôi phải dọn nhà về vùng Bắc Paris. Lý do là nơi chổ ở mới này, cha mẹ tôi đi làm việc gần hơn, hai nguời chỉ cần mười phút đi bộ. Ở chổ cũ,hai người cùng đi xe hơi phải mất gần hơn hai giờ đi, về, dù cả hai cùng làm việc chung một nơi. Hôm chuyển nhà, có một công-ty chuyên về việc chuyển nhà đến làm việc, lo phần di chuyển giường, tủ, bàn ghế và những thứ công-kềnh khác.

Hai chị em tôi cùng cha mẹ gom-góp những vật-dụng nhẹ và đồ quý-giá cho vào những thùng giấy cứng nhỏ rồi sắp gọn vào xe hơi của gia-đình. Trước lúc khởi hành, hai chị em tôi cùng nhìn lại ngôi nhà thân-yêu, nơi hai chị em tôi đã được sinh ra và lớn lên lần cuối cùng. hai chị em tôi bỗng nhiên oà lên khóc. Một thời của bao kỷ niệm ấu-thơ đành phải bỏ lại nơi đây.

Xe ngừng lại trước khu chung-cư mới, hai chị em tôi cùng phụ cha mẹ chuyển những thùng giấy nhỏ vào bên trong. Vì sự an-ninh cho người trong chung-cư, trước khi vào nhà riêng, mọi người phải đi qua hai lớp cửa an-toàn chung có mật-số riêng. Khi tôi đang loay hoay mở cửa để chuyển những thùng vật-dụng vào thì một thằng nhỏ da màu từ bên trong tiến ra mở cửa và giữ cửa để cho mọi người trong gia-đình tôi chuyển những thùng vật-dụng vào hết cửa thứ nhất. Rồi thằng nhỏ da màu tiếp tục đến mở và giữ cánh cửa thứ hai. Khi tất cả những thùng vật dụng và mọi người vào hết bên trong, thằng nhỏ im lặng rời chúng tôi và đi lên cầu thang. Mẹ tôi chạy theo nói với nó lời cám ơn, nó dừng lại, quay người về phía chúng tôi, vừa cười vừa trả lời:

- Thưa bà, không có chi.

Rồi nó tiếp-tục đi lên...Mẹ tôi nói với chúng tôi:

- Không biết thằng nhỏ con nhà ai mà lịch-sự và dễ thương quá! Khen xong, mẹ tôi lại hỏi vọng theo:

- Em ơi, em tên gì?

Nó quay người lại trả lời:

- Dilan Abokor, tôi ở lầu ba.

Lúc nầy tôi mới có dip nhìn kỹ nó: ốm, cao, tóc xoăn ôm sát đầu, mắt to, nụ cười rất buồn, ước chừng tuổi cũng không hơn tôi bao nhiêu.

Khi nó đi khuất vào khúc quanh của cầu thang, chị Hai tôi nói với tôi:

- Chi rất thích âm thanh của cái tên Dilan khi đọc lên, nó ngọt ngào, nghe êm tai làm sao! Căn nhà gia-đình tôi ở thuộc tầng trệt, cửa ra vào nằm ngay đầu cầu thang lên xuống chung cư. Buổi sáng hôm sau ngày dọn nhà, mẹ đưa tôi và chị hai đến trường lập thủ-tục xin nhập học.

Khi ba mẹ con chúng tôi mở cửa bước ra khỏi nhà gặp Dilan đang ngồi nơi bậc cấp đầu cầu thang, nó ngồi im-lặng, mặt nhìn xuống, rất buồn. Mẹ hỏi nó:

- Sáng sớm, con làm gì ngồi đây?

Nó không nhìn mẹ tôi, không trả lời.

Mẹ nói tiếp:

- Cô muốn đưa hai đứa nhỏ đi ghi tên xin nhập học những trường gần đây, con biết ở đâu chỉ dùm cô?

Lúc bấy giờ nó mới ngước mặt nhìn mẹ, gật đầu rồi đứng dậy đi nhanh lên phía trước mở cửa. Ba mẹ con tôi theo sau nó. Khi ra khỏi chung-cư, nó hỏi mẹ tôi:

- Cô muốn đến ghi trên xin nhập cho ai và trường nào?

- Trường tiểu-học để ghi tên cho em Jean, mẹ vừa nói vừa chỉ tay vào tôi. Dilan nhìn tôi, cười và nói với tôi:

- Mình cũng đang học trường tiểu học.

Dilan hướng dẫn chúng tôi đi vòng ra phía sau chung-cư, qua một công-viên nhỏ rồi dừng lại trước trường học. Từ đây tôi có thể nhìn thấy cửa sổ phòng khách nhà tôi cách xa không quá hai trăm thước. Ba mẹ con chúng tôi đi vào trường, Dilan đứng chờ bên ngoài cổng trường, không chịu vào chung với chúng tôi. Việc ghi danh xin nhập học cho tôi hoàn tất không qúa ba mươi phút. Khi ra khỏi cổng trường, mẹ hỏi Dilan:

- Con có thể giúp để cô ghi tên xin nhập học cho Léna tại một trường trung-học đệ nhất cấp gần đây không? Mẹ chỉ tay vào chị hai tôi.

Dilan gật đầu, im-lặng tiếp tục đi. Ba mẹ con chúng tôi theo nó, băng qua một ngã tư có đèn báo hiệu giao-thông chừng một trăm thước thì nó ngừng lại. Tính ra, từ nhà tôi đến đây không lâu hơn năm phút đi bộ.

Mẹ và chị hai đi vào bên trong trường. Tôi và Dilan đứng lại bên ngoài cổng. Tôi hỏi Dilan:

- Năm nay bạn học lớp mấy rồi?

- Năm cuối tiểu học, cùng trường với bạn vừa đến ghi danh xin học đó.

Trong khi chờ đợi mẹ và chị hai, tôi được Dilan dẫn đi lòng vòng quanh khu phố, nó chỉ cho tôi nơi nào là trung tâm thể thao và bơi lội, nơi nào là hướng đi ra ga xe lửa, nơi nào đi đến Tòa hành chánh, khu thương mại...

Khi chúng tôi trở về chung-cư, trước khi vô nhà, mẹ bảo tôi mời Dilan vào nhà chơi. Tôi làm theo lời mẹ nhưng nó từ chối, nó nói:

- Buổi trưa hôm nay cô con đến đưa con đi mua những vật dụng cần thiết cho ngày nhập học hai tuần tới. Một buổi tối, trong khi ăn cơm sau hơn hai tuần lễ đến ở nhà mới trong chung-cư, mẹ kể cho mọi người cùng nghe. Sáng thứ bảy cùng ngày, mẹ đi chợ với bà hàng xóm mới quen biết. Khi trò chuyện liên quan đến đời sống trong chung cư, bà hàng xóm hỏi mẹ từ ngày dọn nhà đến chung-cư mẹ có nhận thấy gì đặc biệt?. Mẹ lắc đầu. Bà ta vào đề ngay:

"Ngay trước cửa nhà chị mà chị không thấy sao? Cái thằng nhỏ Dilan đó, ngày nào nó cũng ngồi nơi bậc thềm cầu thang ngay cửa nhà chị, nhà nó ờ tầng lầu ba. Sáng mở mắt ra là thấy nó đã ngồi ở đó rồi, lầm lì, không phá phách phiền phức cho một ai. Tội nghiệp quá, cha mẹ nó đều nghiện rượu, suốt ngày cãi nhau, đánh nhau và có khi đánh ngay cả thằng nhỏ nữa, có ngày quên cả cho nó ăn uống...thằng nhỏ sợ hãi, buồn chán, nên suốt ngày không dám ở trong nhà, ra ngồi nơi cầu thang chơi một mình. Lúc trường học còn mở cửa, buổi trưa nó ăn tại nhà ăn của trường, lúc trường đóng cửa thì có hôm nó không được ăn uống gì hết. Những hôm cha mẹ nó quên cho nó ăn như thế thì bà con trong chung-cư cho nó ăn lén lút vì ngại cha mẹ nó không bằng lòng. Họ hay say-sưa không phân biệt phải trái, lại kiếm chuyện gây sự."

Nghe mẹ kể, tôi cảm thấy thương thằng Dilan vô cùng. Tôi ngừng ăn, chạy mở cửa nhìn xem nó còn ngồi nơi bậc cấp cầu thang không. Tôi sẽ nói cha mẹ tôi gọi nó vào cho nó ăn cùng. Nó không có đó.

Ngày trường khai giảng, cô của Dilan đến dẫn nó đi đến trường mà không phải cha hay mẹ nó. Nó nói với tôi là cha mẹ nó say, còn đang ngủ, cô nó phải nghỉ làm, lái xe hơn mười cây số từ nhà đến đưa nó đi học ngày khai-giảng. Hai đứa tôi không học cùng chung lớp nhưng giờ chơi và giờ ăn trưa tại truờng hay đi chung với nhau.

Buổi chiều, sau giờ học, tôi thường rủ Dilan vào nhà mời nó ăn thức ăn nhẹ lót lòng trước bữa ăn chính thức vào buổi tối. Thằng Dilan nói với tôi lâu lắm nó không còn được ăn nhẹ lót lòng vào buổi chiều vì mẹ nó không mua thức ăn để dành cho nó.

Ngày thứ tư hằng tuần mẹ tôi phải nghỉ ở nhà với tôi vì ngày đó tôi không có ngày học, mẹ phải ở nhà săn sóc tôi vì tôi chưa đến tuổi có thể ở nhà một mình mà không có người lớn bên cạnh. Ngày thứ tư hôm đó, thằng Dilan và tôi ngồi ngồi chơi nơi phòng khách, mẹ đem tấm tranh lịch treo tường treo nơi phòng khách; tấm tranh lịch đem đến từ nhà cũ từ hôm chuyển nhà đến hnay mẹ mới có thời giờ đem ra treo. Khi mẹ vừa treo xong, đang đứng ngắm tấm lịch để điều chỉnh cho ngay ngắn thì thằng Dilan rời chỗ ngồi đến đứng bên mẹ nhìn tấm tranh lịch. Tấm tranh lịch treo tường ghi năm 2000.

Lich vẽ hình ảnh Phật Di-Lặc ngồi cười, trong lòng Ngài có năm đưa trẻ ôm tay, bám cổ. Đứng nhìn một lúc lâu, thằng Dilan hỏi mẹ:

- Ông nầy là ai vậy cô? Ông nầy thương con nít nhiều lắm phải không cô?

Mẹ trả lời:

- Đây là đức Phật Di-Lặc. Ngài cũng như tất cả vị Phật khác đều yêu thương tất cả mọi người, con nít và cả người lớn.

Thằng Dilan bước đến gần tấm tranh lịch, đưa tay xoa xoa bụng ngài Di-Lặc rối ngước mặt nhìn mẹ, nó hỏi:

- Có phải mấy đứa nhỏ ngồi trong lòng ông Phật làm nhột ông Phật nên ông Phật mắc cười phải không cô?

Mẹ do dự một chốc rồi nói với Dilan:

- Có thể là như vậy, nhưng chắc chắn Ngài Di-Lặc cười là vì Ngài có những đứa trẻ biết nghe lời của các Phật dạy, làm việc tốt, không làm việc xấu, yêu thương mọi người nên được Ngài yêu thương, Ngài cho ngồi vào lòng, Ngài vui vẻ nên Ngài cười.

Dilan tiếp-tục xoa xoa bụng Ngài Di-lặc rồi nói với mẹ:

- Cô ơi, con muốn làm tốt như những đứa trẻ để được Ngài Di-Lặc cho ngồi vào lòng. Mà con cũng chưa làm gì xấu, nhưng con chưa bao giờ được cha mẹ con ôm con vào lòng. Ngược lại, con rất thương cha mẹ con, nhiều lúc con muốn ôm cha mẹ con vào lòng nhưng lúc nào cha mẹ con cũng la mắng và đánh đuổi con khi con muốn đến gần để được ôm hai người. Nói đến đây, tôi nghe giọng của thằng Dilan như nghẹn lại. Mẹ tôi ngồi xuống và ôm nó. Tôi nhìn thấy những giọt nước mắt chảy xuông hai bên gò má của nó. Tôi nhìn thấy hai vai mẹ tôi hơi rung rung. Từ ngày hôm đó, mỗi khi thằng Dilan có dịp vào nhà tôi, việc đầu tiên là nó tiến đến trước tấm tranh lịch đưa tay xoa nhẹ bụng ngài Di-Lặc. Có lần chị hai Léna nói với tôi:

- Tội ngiệp cho thằng Dilan bạn của em! Mới vừa rồi chị đi ra ngoài, thằng Dilan đang ngồi nơi thềm cầu thang, ông già nó đi đâu về, vừa đi đến cầu thang nó mừng rỡ chạy đến ôm ông già nó, nó nói:

- Con đợi ba về để có chìa khóa mở cửa vô nhà, con đói quá, từ trưa đến giờ con chưa ăn uống gì hết.

Chị nhìn thấy ông già nó đẩy nó ra thật mạnh, giọng lè nhè:

- Tránh ra, để tau yên!

Chị ngửi thấy toàn thân ông ấy toát ra mùi rượu. Vài tuần sau ngày trường học khai giảng, chị Léna đi sinh-hoat gia-đình Phật-tử về tặng cho Dilan một tượng Phật Di-Lặc bằng nhựa màu nâu sẩm lớn bằng hai ngón tay cái.

Thằng Dilan mừng rỡ, cám ơn rối rít, cầm bức tượng vân vê trong lòng tay, mặt mày thich-thú. Chị Léna căn dặn nó:

- Đem về nhà, để tượng nơi bàn học hoặc nơi nào cao và sạch-sẽ.

Tôi nghe nó dạ...dạ liên hồi.

Đến ngày lễ Các Thánh của đạo Thiên-Chúa, trường học đóng cửa nghĩ lễ hai tuần. Cha mẹ tôi dành một tuần nghỉ phép để đưa cả gia-đình đi thăm bà con của mẹ ở miền Nam nước Pháp. Xe dư một chỗ ngồi, theo lời năn-nỉ của tôi, cha mẹ tôi có xin phép cha mẹ Dilan cho nó cùng đi nhưng cha mẹ nó từ chối. Ngày trở về, thấy nó ngồi nơi thềm cầu thang, tay vuốt ve tượng Phật Di-Lặc nên không nhìn thấy tôi đi vào.

Nó giật mình nhìn tôi cười rạng-rỡ và khi tôi lên tiếng:

- Khỏe không Dilan? chị Léna bảo mày để tượng trên bàn học của mày, mày ok, nhưng sao lại đem xuống đây?

Mặt nó trở nên buồn rầu, nói ấp-úng:

- Tau nghe lời chị Léna để tượng trên bàn học, ông già tau nhìn thấy, ông bảo tau vứt đi nếu không nghe thánh Halal sẽ trùng phạt. Tau đem tượng dấu dưới gối, ông phát hiện, ông đánh tau, ông ném tượng vào thùng rác. Tau lén nhặt lại giữ luôn trong túi quần...

Chiều hôm đó mẹ làm chả giò, mẹ cho phép tôi rủ Dilan cùng ăn chung với gia-đình. Trong khi đang ăn, chị Léna nói với mẹ:

- Trong chả giò có thịt heo mẹ không nên cho thằng Dilan ăn, đạo Hồi cấm ăn thịt heo, nếu cha mẹ nó biết sẽ phiền phức cho gia-đình mình.

Mẹ nói:

- Mẹ cũng vô-ý, không nghĩ đến điều đó, thôi lỡ rồi...

Mẹ nhìn thằng Dilan tính nói điều gì với nó thì nó lên tiếng:

- Cha mẹ con nhiều lúc cũng ăn thịt heo. Hàng tháng, mẹ con nhận thực phẩm cứu giúp cho các gia-đình nghèo tại trung tâm " Trợ cấp của người Thiên-chúa giáo " hoặc tại hội " Quán ăn tình thương ", trong đó có gan heo đóng hộp, thịt heo đóng hôp. Gia-đình con ăn hết.

Nghe thằng Dilan nói như vậy, mẹ tôi mỉm cười và im lặng. Lúc đó cha tôi nói với mẹ: - Kỳ tới nếu thức ăn có thịt heo thì đừng cho nó ăn, mình cũng nên trọng cái Đạo của nó.

Một buổi chiều, tôi đang ngồi học bài...tôi nghe có tiến ồn ào tranh giành nhau bên ngoài công-viên. Tôi mở cứa nhìn ra, nhìn thấy thằng Dilan đang xô-đẩy với những đứa trẻ trong khu phố. Tôi chưa rõ chuyện gì đang xẩy ra thì thấy thằng Dilan rời khỏi đám trẻ, hướng về nhà, vừa chạy vừa khóc. Tôi mở cửa đứng chờ nó nơi đầu cầu thang. Vừa thấy tôi, nó khóc lớn hơn và nói trong nước mắt:

- Mấy đứa ở trong chung-cư bên kia lấy mất tượng ông Phật Cười rồi. Tau đang ngồi chơi với ông Phật Cười trong Vườn trẻ trước trường học thì chúng giành lấy ông Phật, tau giành lại không được, chúng tới năm đứa...rồi chúng ném ông Phật Cười lên mái nhà của trường.! Để an-ủi nó, tôi dẫn nó vào nhà, lấy nước coca cho nó uống. Sáng sớm hôm sau, tôi đang ngồi ăn điểm tâm trước khi đến trường, tôi nghe có tiềng còi hụ liên tiếp của xe cảnh sát và xe chữa lửa bên ngoài công-viên, hướng trường học. Tôi vội vàng ôm cặp chạy đến trường. Trước trường học, một xe cảnh-sát chớp đèn liên-tục, một vài nhân viên chữa lửa đang đưa những cái thang cấp-cứu khỏi xe. Vài cha mẹ đưa con em đi học sớm đang đứng trước cổng trường chờ cửa mở.

Tất cả mọi người đều nhìn lên mái trường học. Tôi nhìn theo và thấy thằng Dilan đang run lập-cập trên mái nhà của trường học. Tôi ngạc nhiên hết sức, không hiểu nó leo lên đó làm gì. Mọi người đang nhìn theo những người lính chữa lửa leo lên thang để cứu thằng Dilan xuông, tôi nghe hai bà mẹ dẫn con đến trường nói chuyện với nhau:

" Sáng nay tôi đưa cháu đến trường hơi sớm, trường chưa mở cổng, hai mẹ con đứng chờ, bỗng tôi thấy trên mái nhà của trường thằng nhó đó loay hoay muốn leo xuống...không xuống được...nó khóc. Tôi không biết chuyện gì nên báo cho ông cai trường biết và ông đã gọi cho cảnh-sát."

Khi thằng Dilan được hai người lính chữa lửa đưa xuống khỏi mái nhà, tôi chạy đến bên nó, nó ôm tôi và khóc òa lên. Cô Cảnh-sát hỏi nó leo lên mái nhà trương lầm gì, nó lắc đầu không trả lời. Một bà mẹ dẫn con đi học cũng hỏi nó câu hỏi tương tợ, nó cũng lắc đầu không nói. Cô Cảnh-sát nhìn quanh hỏi ai là cha hay mẹ nó...không có ai trả lời. Cô Cảnh-sát dẫn nó vào bên trong trường gặp thầy hiệu trưởng. Giờ chơi, tôi gặp thằng Dilan và hỏi nó leo lên mái trường học làm gì? Nó kể: "Tau leo lên mái nhà trường để tìm ồng Phật Cười mà chiều hôm trước mấy đứa trẻ trong khu phố ném lên mái nhà. Buổi sáng, tau đến trường thật sớm để không ai nhìn thấy, tau leo rào vào bên trong và leo được lên mái nhà của trường học. Tau tìm nhưng không thấy ông Phật Cười...Khi tìm cách leo xuống thì không được, tau sợ bị té xuống đất nên sợ quá ngồi khóc...không biết tại sao Cảnh-sát và lính chửa lửa biết mà đến cứu".

Một sáng Chúa nhật, cha mẹ tôi đưa chị Léna lên chùa sinh-hoạt gia-đình Phật-tử, tôi cùng đi theo. Lúc mở cửa ra khỏi nhà. tôi nghe có tiếng xôn-xao nơi hành lang một cách khác thường. Một bà hàng xóm quen với mẹ từ bên trên đi xuống. Bà nhìn mẹ rồi hỏi mẹ:

- Bà đã biết chuyện gì chưa?

- Tôi vừa trong nhà mới bước ra, có chuyện gì vậy?

Bà hàng xóm buông một hơi thở dài, nói với mẹ một cách chán nản nhưng giọng đầy lo âu.

- Cái thằng nhỏ Dilan thường hay ngồi chơi một mình ở chân cầu thang nầy được chở vào nhà thương rồi! Tội nghiệp cho thằng nhỏ. Sáng nay cha mẹ nó đánh nhau không rõ chuyện gì, thằng nhỏ Dilan xông vào can ra, bị cha nó xô đẩy sao đó mà thằng nhỏ ngã, đầu đập vào thành bàn, bị ngất xỉu, đuợc đưa vào nhà thương."

Nghe đến đây, tôi không còn muốn nghe tiếp câu chuyện, tôi thấy thương thằng Dilan quá, tôi vội mở của chạy ra đường, tựa lưng vào thành xe, nước mắt trào ra.

Đến chùa, khi mẹ làm công quả trong nhà bếp, chị Léna sinh-hoạt ngoài sân, tôi thơ thẩn một mình trước chánh điện. Đầu tôi lúc nào cũng nghĩ đến thằng Dilan, tôi lo cho nó, tôi cũng đã cầu xin Phật ban phuớc cho nó, cho vết thương nó chóng lành để trở về nhà đi học. Lẩn thẩn, tôi đi qua phòng bán vật kỷ niệm, tranh ảnh, tượng Phật, kinh sách...tôi nhìn thấy một bức tranh vẽ Phật Di-Lạc cùng năm đứa trẻ được in lại rất đẹp, giống như tấm tranh lịch treo tường ở nhà, nhưng nhỏ bằng một trang sách thường, không có in kèm lịch phía trên. Tôi muốn mua tặng thằng Dilan. Có hình nầy chắc nó vui lắm. Tôi sẽ bảo nó nhờ người ta bao và ép lại bằng nhựa trong, để trong cặp đi học, cha mẹ nó sẽ không nhìn thấy. Lúc nào thích thì nó lấy ra xem và tha hồ mà xoa bụng ông Phật để ông Phât cười và cùng cười với năm đưa trẻ và với nó.

Tôi nhìn thấy giá tiền ghi là mười lăm đông tiền Pháp, nhưng tôi lại không có tiền trong túi. Vừa lúc chị Léna đi đến bảo tôi vào ăn cơm chùa rồi về. Tôi nói với chị là tôi muốn mua bức tranh Phật Di-Lặc để tặng cho thằng Dilan nhưng tôi không có tiền.

Chị Léna hỏi tôi:

- Bức tranh giá bao nhiêu?

- Em thấy ghi giá là mười lăm đồng tiền Pháp.

Chị Léna nói lớn giọng hơi gắt:

- Chứ tiền túi tiêu vặt cha mẹ cho hàng tuần sao không lấy ra mua?

- Em không có đem theo.

Chị Léna lấy tay đập nhẹ vào cái túi vải đeo bên hông:

- Hôm nay chị cũng không đem tiền theo...thôi để qua tuần tới hãy mua tặng nó cũng không trễ.

Tôi vùng vằng với chị:

- Tuần tới lâu quá! Nó đang nằm nhà thương, em sẽ nói mẹ chở em vào nhà thương thăm nó trước khi nó về nhà.

Chị Léna cười, buông nhẹ câu nói:

- Không có tiền thì cũng đành chịu vậy thôi, không có cách nào khác.

Có lẽ nghe được câu chuyện đối đáp giữa hai chị em tôi, ni-sư trông coi gian hàng tươi cười nói với tôi:

- Nếu em trai muốn mua tranh nầy thì cô bán chịu cho, kỳ tới đến chùa trả sau cũng được.

Tôi mừng quá, cám ơn ni-sư rối rít.

Khi cha tôi lái xe về nhà, xuống xe tôi thoáng thấy mẹ của thằng Dilan nơi cửa số nhà nó trên lầu ba. Lúc tôi vào tới cửa nhà thì mẹ nó đang đứng dưới chân cầu thang. Nhìn thấy tôi, bà òa khóc và tiến tới ôm tôi. Tôi chưa hiểu chuyện gì thì nghe bà nói trong thổn-thức: "Con ơi, thằng Dilan nó đi lúc trưa nay rồi, nó đã trở về với Halal của nó rồi...nó nói nó thương con vô cùng, con là bạn duy nhất cũng yêu thương nó vô cùng. Nó nói vĩnh biệt con..." Nói đến đây bà ta gào to lên thảm thiết. Tôi khóc theo bà, cảm thấy thân thể lạnh ngắt cho đến lúc ba tôi buớc ra bế tôi vào nhà.

Tối hôm đó tôi không muốn ăn cơm, bụng không đói, lòng đau nhói mỗi khi thoáng nghĩ đến Dilan và nước mắt cứ trào ra. Tôi không có cách nào vào nhìn nó lần cuối nơi nhà thương. Tôi không biết làm cách nào trao cho nó bức tranh Phật Di-Lặc tức ông Phật cười của nó. Tôi nằm trên giường, không ngủ được, trằn trọc cho đến lúc nghe tiếng thở đều của cha mẹ từ phòng ngủ. Tôi quyết định phải gởi bức tranh cho thằng Dilan trước ngày người ta chôn nó. Tôi đến bàn học, xếp bức tranh Phật Di-Lặc cho vào phong bì và viết bên ngoài:

Thân gởi:

Dilan Abokor

10 rue de Dieu

Thành-phố Paradis...nước Pháp. Tôi định viết:

Kính nhờ đấng tối cao Halal chuyển,

nhưng tôi đổi ý vì sợ ngài Halal nhìn thấy bức tranh Phật trong phong bì sẽ vứt đi, không chuyển, vì khác đạo.

Tôi lại định viết:

Kính nhờ Ông già Noel chuyển, nhưng lại nghĩ ông già Noel chỉ đến thế gian ngày Giáng-sinh và ngày đó còn rất lâu, phải hơn một tháng nữa mới đến. Cuối cùng tôi viết:

Kính nhờ Thập phương chư Phật chuyển.

Tôi nghĩ các vị Phật đều từ bi bác ái với mọi người nên sẽ chuyển thư đi.

Tôi nhẹ tay mở cửa ra ngoài, bỏ lá thư vào hộp thư nhà của thằng Dilan.

Đêm hôm đó, trong giấc ngủ, tôi thấy thằng Dilan treo bức tranh Phật Cười của nó nơi phòng ngủ, nó ngồi một bên, đưa tay xoa xoa bụng ông Phật, ông Phật mở miêng cười với nó, năm đứa trẻ cùng cười theo và nó cùng cười theo. Mặt nó không còn buồn nữa. Tôi nhớ có lần thằng Dilan hỏi mẹ tôi:" Ông Phật ăn gì mà bụng ông lớn quá vậy?" Mẹ tôi. trả lời: "Không phải Ông ăn nhiều mà bụng lớn đâu. Bụng Ông lớn là vì chứa tình thương dành cho mọi người! ".

Tôi cũng thấy bụng Phật Di-Lặc dường như cũng lớn hơn một chút, dành một chỗ chứa tình thương yêu cho thằng Dilan.

Nguyễn-đại-Thuât

Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Fri Oct 29, 2021 3:47 pm    Tiêu đề: Dọn Dẹp Cuối Thu


Dọn Dẹp Cuối Thu

MaiHữu Thọ chọn ảnh minh họa


Dọn Dẹp Cuối Thu

“ Ở đây lá vẫn còn xanh

Mùa thu có đến cũng đành ngó lơ “

Bạn tôi xuất khẩu thành thơ

Bà khác lại bảo không mơ chi vần

Chỉ là còn mải miết khuân

Chậu lớn, chậu nhỏ từ sân vào nhà

Sớm mai cho tới chiều tà

Cắt cây dọn dẹp, ố là là! đứt hơi!

Sao Khuê cũng vẫn “ vườn “ bươi

Cóng tay dọn dẹp, dám lười chi đâu

Cũng chẳng mở miệng lầu bầu

Trồng rồi, nay dọn, ngõ hầu xuân sang

Trong ngoài sạch gọn, đàng hoàng

Trước, sau: thổi lá, lá vàng tả tơi

Bây giờ ai có đến nơi

Có âu yếm rủ: đi chơi?

Không giờ! (no time)

Sao Khuê

Tàn Thu

Em ngồi bên cửa đếm Lá Vàng

Vài cành khô gẫy, gọi hồn hoang

Heo may hôm nay ôi lạnh lẽo

Có phải Thu tàn, nghe Đông sang??

Bé8


Thu đừng vội tàn !

Thu đừng vội tàn, xin hãy khoan!

Nhìn lá vàng rơi, lệ hai hàng

Thu đến Thu đi, buồn hoang vắng

Tàn Thu... sầu đếm bước lang thang...

Songthy

TIẾC THU

Tôi thích ngắm những buổi chiều lá rụng

Nghe bâng quơ tiếng thở của thời gian

Những con đường thơ mộng một màu vàng

Đang run rẩy theo từng cơn gió bụi

Là tôi biết mùa thu đang tàn lụi

Mây lững lờ trôi níu kéo tơ vương

Để hồn tôi xao xuyến suốt đêm trường

Mang trăng xám chơi vơi vào giấc ngủ

Là lễ hội Halloween ma quỷ

Lũ trẻ con hớn hở một ngày vui

Áo quần, hoá trang những khuôn mặt người

Trick-Or-Treat rộn ràng từng góc phố

Tôi đã ước trở lại thời thơ bé

Đêm trung thu phá cỗ đón trăng rằm

Mơ bay cao thăm chú Cuội chị Hằng

Có thiên đường thênh thang trong ánh mắt

Dù vẫn biết thu nơi đây rất ngắn

Đến rồi đi, như giấc mộng, tình cờ

Tôi lang thang chưa viết hết bài thơ

Nức nở thương hàng cây trơ trụi lá

Là tôi biết mùa đông đang gần quá

Tuyết sẽ phủ đầy trắng xoá mọi nơi

Ngày vội đi qua, cho bóng chiều rơi

Trời đất hoang vu màu buồn man mác

Còn đâu nữa lá khô bay xào xạc

Để tôi ngẩn ngơ hỏi gió về đâu?

Nên chiều nay nhìn lá úa thay màu

Bỗng thấy tiếc mùa thu vàng ngây ngất

Edmonton, Nhìn Mùa Thu Đi

KIM LOAN



Nhìn Những Mùa Thu Đi
Trịnh Công Sơn
Elvis Phương




Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Fri Nov 19, 2021 5:53 pm    Tiêu đề: LÁ THU


Lá Thu

Mai Hữu Thọ chọn ảnh minh họa



LÁ THU

Lá thu từng chiếc cuốn về đâu
Từng lớp vàng rơi đọng lớp sầu
Gió ơi! Hãy ngừng tung lá dậy
Đừng để vàng rơi đáy vực sâu
Lá rụng về đâu...
Lá rụng về đâu...
Chuông chiều đổ tiếng nguyện cầu
Còn đâu tố nữ gieo cầu năm xưa
Lá đã vàng chưa...
Đã rụng chưa...
Nắng thu đã tắt phủ sương mờ
Liêu trai liễu rũ đứng ru gọi hồn...
Ta đi trong nắng hoàng hôn
Lượm từng chiếc lá
Lối mòn thu xưa...

Sao Khuê

Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Tue Jan 04, 2022 10:21 pm    Tiêu đề: TRƯỜNG DƯỢC


TRƯỜNG DƯỢC

DƯỢC KHOA ĐẠI HỌC ĐƯỜNG TRƯỚC 1975


TRƯỜNG DƯỢC

Qua phim thăm lại trường xưa

Kỷ niệm bừng lên như nước ùa

Rạt rào cảm xúc thương ngày cũ

Những buổi đến trường, nắng hay mưa

Thênh thang cửa mở đón ta vào

Vườn dược còn đây lá rì rào

Vàng xưa cũ kỹ phòng hành chánh

Tượng Galien cũng vẫn thuở nào

Một chút ngỡ ngàng của đổi thay

Toà nhà chính cũ của những ngày

Ghi ghi chép chép lời thầy giảng

Chồng cours năm cũ, gió đã bay

Nhà cũ sập rồi nay thành sân

Cỏ xanh xanh mướt, trái banh lần

Kế bên cũng là sân bóng rồ

Thể dục thể thao nở rần rần

Thênh thang giảng đường lớn cuối sân

Lầu cao ngói đỏ, nhớ những lần

Đến sớm, tập bày ra: giành chỗ

Phái nữ ngồi quanh, chớ đến gần.

Đầu dãy nhà to, giảng đường con

Cộp cộp, thầy Tiếng, giầy rất dòn

Bàn chân ai trắng mà thon thả

Nguyễn Hạc Hương Thư, gót còn son

Phật sống thầy Trang rất hiền từ

Từ bi thầy Tạo giống thầy tu

Oai phong lừng lững gương Trưng Triệu

Ai đó? Cô Lâu, chớ cười trừ

Bồi hồi nhìn lại cảnh ngày xưa

Ôi chao! Thương mấy, nhớ sao vừa

Giờ đây kỷ niệm lưu ký ức

Bèo dạt máy trôi, đời gió mưa

Sao Khuê

Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Tue Jan 18, 2022 4:25 am    Tiêu đề: THÀNH KÍNH PHÂN ƯU


THÀNH KÍNH PHÂN ƯU


Được tin buồn anh Quản Hùng, phu quân chị Quỳnh Mai DK68 (Sao Khuê) đã vĩnh viễn ra đi ngày 15 tháng 1-2022 tại Montreal, hưởng thọ 81 tuổi.

Xin thành thật chia buồn cùng chị Sao Khuê và tang quyến. Cầu nguyện hương linh anh Quản Hùng sớm về cõi Vĩnh Hằng.

TM DAONGUYEN 1948

Mai Hữu Thọ

Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Wed Mar 02, 2022 7:55 am    Tiêu đề: Tâm Thư Người Lính Trận


Tâm Thư Người Lính Trận


Tâm Thư Người LínhTrận

Một mai bỏ mạng sa trường

Hòm xin đóng kín lên đường về quê

Huy chương cài ngực phủ phê

Mẹ ơi, việc tốt, lời thề đã xong

Cha ơi xin chớ đau lòng

Lo âu thôi hết nặng lòng vì con

Em ơi học tập thật cừ

Xe anh, em giữ, từ giờ thuộc em

Chị ơi, xin chớ ưu phiền

Em chị chiều xuống triền miên giấc nồng

Tổ quốc ơi chớ vấn vương

Thân tôi lính chiến tử thương lẽ thường...

Vô danh - Sao Khuê chuyển dịch

Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Sat Apr 23, 2022 1:15 am    Tiêu đề: Mùa xuân tản mạn về "SAY"


Mùa xuân tản mạn về "SAY"

Sao Khuê vừa nhâm nhi tí ''ice wine''- một đặc sản của xứ lạnh- làm bằng nho đông đá trong mùa đông, có vị ngọt thật ngon


Mùa xuân tản mạn về "SAY"

Sao Khuê

Quí vị có bao giờ say chưa nhỉ? Chưa bao ''vờ'', không bao ''vờ ''...

Nè, có chắc không đấy nhé vì Sao Khuê thấy người, vật và ngay cả Đất, Trời cũng đều say ráo trọi đấy à nghe, nói có cụ Tản Đà làm chứng:

Say sưa nghĩ cũng hư đời

Hư thời hư vậy, say thời cứ say

Đất say đất cũng lăn quay

Trời say mặt cũng đỏ gay ai cười...

Cụ Tản Đà và Trời và Đất đang say rượu. Say rượu thì nhiều người say nên dài dòng lắm, mình sẽ nói sau... Riêng khi Trời say thì ông ấy làm cho nhiều người say theo nếu chúng ta dang nắng mà ngó ông ấy hoài; khi đó mặt chúng ta cũng đỏ gay, nhiệt độ tăng rồi có khi lăn quay ra đất, người miền Nam gọi là trúng nắng nhưng Bắc Kỳ rau muống như Sao Khuê gọi là say nắng. Say nắng khác với nắng say:

Chiều trông cho mềm môi ươm nắng

Nắng đợi chiều nắng say

Nắng đợi chiều hây hây... (Vũ Thành An)

Nắng khi say thì nhẩy múa, len qua các cành cây kẽ lá, rung rinh bóng trên mặt đất, ngả nghiêng y như người say phải không quí vị?

Có nhiều vị leo lên núi cao thì chóng cả mặt cả mày, rồi nôn mửa thì gọi là say núi (mountain sickness) và rất, rất nhiều người đi tầu ngoài biển cũng bị hiện tượng tương tự thì mình nói là họ bị say sóng (sea sickness) đấy quí vị à. Tương tự có người lên xe bị ói mửa gọi là say xe; lên xe mà không ói mửa lại còn phóng ào ào gọi là say tốc độ. Say tốc đô nguy hiểm lắm lắm vì có thể gây tai nạn dẫn đến ngủ say (ngủ dài ngày hay ngủ luôn). Say kiểu này Sao Khuê hổng ham, Sao Khuê chỉ thích:

Đêm qua say tiếng đàn

Đôi chim uyên đến giường báo tin... (Phạm Duy)

hay là như người xưa say trăng. Người xưa quí vị biết rồi; Việt Nam nổi tiếng có Tản Đà và Hàn Mặc Tử, bên Tầu nổi tiếng có Lý Bạch. Hàn Mặc Tử tối ngày chỉ nhắc đến Trăng, Theo Hàn Mặc Tử thì... mới lớn lên trăng đã thẹn thò, thơm như tình ái của ni cô... để thấy... Từ đầu canh một đến canh tư, tôi thấy trăng mờ biến ảo như... hay có lúc Hàn thắc mắc chờ trăng: thuyền ai đậu bến sông trăng đó, có chở trăng về kịp tối nay?...

Hàn Mặc Tử đã thấy trăng nằm sõng soài trên cành liễu, đợi gió đông về để lả lơi...rồi lại còn thấy ô hay bóng nguyệt trần truồng tắm, lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe.

Hàn Mặc Từ quá yêu trăng, yêu quá như vậy gọi là say mê. Ông đòi chiếm trăng làm sở hữu rồi...lúc túng tiền đòi bán cả trăng: Trăng, Trăng, Trăng! Là Trăng, Trăng, Trăng! ai mua trăng tôi bán trăng cho, không bán đoàn viên, ước hẹn hò...

Nhà thơ Lý Bạch bên Tầu cũng mê Trăng, cũng đòi chiếm Trăng làm của riêng cho mình mà với lên trời thì quá xa trong khi trăng đáy nước lại có vẻ thật gần nên ngài đã nhào đại xuống nước mà ôm lấy trăng trong một đêm thật say. Còn quí vị, có bao giờ quí vị ngất ngây vì trăng chưa nhỉ, cũng có rồi phải không, Hằng Nga đẹp thế ai mà không say? Tuy vậy cũng có người không say trăng mà lại say tình. Người say tình thì nhiều lắm lắm quí vị ơi khi đó thì lời nghẹn ngào hồn anh như ngây như say vì đâu... Kim Trọng, trước nàng Kiều thì càng yêu vì nết càng say vì tình vì cô Kiều này có làn thu thủy nét xuân sơn, hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh thuộc loại sắc đành đòi một tài đành họa hai chứ quí vị nhớ coi đâu có ông nào say trước bà Chung Vô Diệm đâu cơ chứ (quí vị nhìn hình Sao Khuê nhắm cũng không say nổi phải không, biết ngay mà...) ; vậy có nghĩa là đàn ông say sắc dù sắc không cao như núi, không ầm ầm như sóng vỗ ngoài biển khơi. Chuyện! ai mà chả biết là sắc bất ba đào dị nịch nhân vơí má đào không thuốc mà say, nước kia muốn đổ thành này muốn nghiêng...

'' Muốn '' gì nữa, không những đổ, chẳng những nghiêng mà còn mất tiêu luôn khi Trụ Vương say mê Đắc Kỷ, Ngô Phù Sai say đắm Tây Thi. Đàn bà thì sáng suốt hơn một tí, chỉ mới ngẩn ngơ thôi..con tằm bối rối vì tơ, anh say vì rượu em ngẩn ngơ vì tình... hay cùng lắm mới nàng say tình mới hồn tôi tơi bời, nhìn hoa cười đón mừng vui duyên nàng...hay... ngày đó có say duyên vượt biển ngoài, trùng dương ơi giữ kín chơ lâu dài tình đôi...Yêu làm cho say, tình làm cho ngất ngây, vậy buồn có làm cho quay lơ không nhỉ? Có hỉ:

Ngày hôm tiễn biệt buồn say đắm

Em vẫn đùa vui uống rượu say

Em có biết đâu đời vắng lặng

Lạnh buồn như ngọn gió heo may (Lưu Trọng Lư)

Quí vị đã thấy tình làm say, cảnh làm say vậy mà đến ăn uống cũng làm say luôn quí vị à. Không tin quí vị thử cứ ngồi bóc nhãn ra ăn cho no, ăn trừ cơm, cỡ..một thùng xem.. khi đó cũng đỏ mặt, lảo đảo rồi ngủ say li bì... nhưng mà các cụ bảo ăn trầu, nhất là trầu thuốc thì dễ say lắm. Thuốc đây là thuốc lào. Quí ông nào đã được học tập cải tạo thì được say hoài, phê hoài vì bụng đói dài dài, rít điếu thuốc lào sáng sớm là dễ say lắm. Ít người say thuốc lá nhưng thuốc phiện và các loại ma túy dễ làm cho người ta say. Vậy thì ăn say, hút say, hít say và uống cũng làm say. Quí vị biết Sao Khuê muốn nói đến uống gì rồi. Uống rượu và say rượu. Đàn ông uống rượu nhiều hơn đàn bà và dĩ nhiên ít khi thấy đàn bà say rượu chứ mấy ông thì thấy hoài hà. Say rượu cũng có nhiều mức độ khác nhau tùy lượng và độ rượu uống vào. Say tí ti cho đời lên hương gọi là say ngà ngà, thêm tí nữa là say mềm, rồi say nhừ, say bí tỉ, say khướt. Quí vị có biết tại sao không?

Chả là hồi xưa xửa xừa xưa có một anh chàng, anh ta muốn cất một vò rượu cho thật ngon. Đặt lò dưới một tàng cây lớn, anh nấu suốt cả một ngày mà chẳng có giọt rượu nào chảy ra. Có người mách là anh phải hạ cái cây ấy xuống, dùng nó mà làm củi đốt lò sẽ có rượu ngon. Anh bèn chặt cây làm củi đốt lò, đâu ngờ cây đó vốn là chỗ trú của bốn con vật: chim sáo, con vẹt, con cọp và con heo rừng; bọn này đi kiếm ăn đến tối mới về ngủ.

Chiều đó sáo sậu về trước thấy mất tổ thì buồn rầu, lại thấy lửa ấm bèn lao vào mà sưởi. Lạ thay, rượu bắt đầu chảy ra. Lát sau con vẹt về và cũng làm y như thế, rượu chảy ra nhiều hơn nữa. Con cọp về, thấy mùi thơm của rượu cũng lao vào lửa khiến rượu ồ ạt tuôn ra. Cuối cùng là chú heo rừng cũng lại tình nguyện làm BBQ khiến rượu tuôn ra xối xả. Anh chàng được vò rượu ngon lại thêm thức nhắm nhưng cũng từ đó tác dụng của rượu thay đổi:

- Uống một chén đầu: người uống thấy vui vẻ, hoạt bát, tự tin, nói lứu lo như sáo (tửu nhập ngôn xuất).

- Uống chén thứ hai: vui nhộn rồi lè nhè, nói lứu cả lưỡi, lập đi lập lại như con vẹt.

- Uống chén thứ ba thì thấy khoẻ như cọp, đâm ra khoác lác, hay khiêu khích gây chiến vì tưởng mình có thể nuốt chửng con mồi.

- Uống chén thứ tư thì thành heo rừng Trư bát Giới đến mất cả tư cách có thể làm chuyện tồi bại như heo.

Bởi vậy, quí vị à, uống tí ti thôi, đủ cho thấy đời vui vẻ, máu huyết lưu thông.. Khốn nỗi khi rượu đã nhập môi thì nhiều người lại cứ..mềm môi chén mãi tít cung thang...

Rồi! quí vị có biết vì sao đàn ông uống rượu nhiều hơn đàn bà không.Ấy, chỉ vì ngày xưa, chỉ có đàn ông mới được đi học, đi học biết chữ rồi biết làm thơ, muốn làm thơ phải mựơn tí rượu để có ''yến sĩ phi lý thuần'' (inspiration) thì mới mong có thơ hay như thơ của Vũ Hoàng Chương hay Lý Bạch vậy vì hai vị này khi say thì thơ rất hay!! Còn các nàng, rõ dại, cứ mơ cái hình ảnh..chàng hai má đỏ hồng, nói với thằng tiểu đồng, mang túi thơ bầu rượu, mai ta vào chùa trong...khiến mấy anh đồ gàn này lại càng được thể, nói khích nhau để uống cho say mềm: nam vô tửu như kỳ vô phong quên rằng: không gió cờ chẳng bay, gió nhiều thì cờ rách, lấy gì bay đây?

Uống rượu để lấy hứng làm thơ nhưng cũng có nhiều người uống cho quên sầu! Một sai lầm to lớn vì Túy tự túy tửu, sầu tự sầu, có ai lấy rượu giải sầu, cái say ngất ngưởng cái sầu nào vơi như Vũ Hoàng Chương đã than thở:

Nhưng em ơi!

Đất trời nghiêng ngả

Mà trước mắt thành sầu không sụp đổ

Đất trời nghiêng ngả

Thành sầu không sụp đổ, em ơi!...

(nhưng người uống sụp đổ là cái chắc)

Uống rượu, uống một mình không thú:

Rượu ngon không có bạn hiền

Không mua không phải không tiền không mua. (Nguyễn Khuyến)

Lý tưởng của cuộc rượu là 4 người vì họ nói 'tửu tứ, trà tam, phiện nhị '. Bốn người nhưng lý tưởng lại là hai ông bạn thân và hai...cô đầu:

Có khi tầng gác cheo leo

Thú vui con hát lựa chiều cầm xang

Cũng có lúc rượu ngon cùng nhấp

Chén quỳnh tương ôm ấp bầu xuân. (Nguyễn Khuyến)

Tại sao bốn người? Để..làm thơ, ngâm thơ, bình thơ và thưởng thức thơ...

Rượu, không những chỉ uống khi làm thơ với bạn bè mà dần dần được uống bất cứ lúc nào và ở đâu:

- ngoài chiến trường: Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi, Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi, Túy ngọa sa trường quân mạc vấn, Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi...

- ngày Tết: cùng nhau nâng chén ta chúc nơi nơi...

- mừng ngày sinh nhật: Nâng cốc rượu chúc mừng bà, Vừa là tình nghĩa vừa là yêu thương, Thủy chung vẹn tấm lòng vàng, Phơ phơ đầu bạc ta càng thương nhau (Trương Tửu mừng sinh nhật vợ 80 tuổi)

- Khi tiễn biệt nhau: Ngày hôm tiễn biệt buồn say đắm, Em vẫn đùa nô uống rượu say..

- Khi vu quy: Rượu hồng em uống cho say, Vui cùng với chị vài giây cuối cùng...

- Khi ở bên nhau: Khi chén rượu khi cuộc cờ, Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên...

nghĩa là...bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu cũng uống rượu được hết!

Người Tây phương thường chỉ uống rượu trước khi dùng bữa hay khi tiếp bạn bè và thường uống rượu xuông. Người mình lại cần chất đưa cay gọi là mồi rượu. Những ''con sâu rượu'' rất kỵ uống rượu với mấy người phá mồi, uống thì ít mà ăn thì nhiều. Mồi là thức nhắm thường là thịt, cá nhưng kẹt quá cũng có thể chỉ là vài trái cóc, trái ổi hay đôi khi chỉ có muối và mấy trái ớt hiểm: Đốt than nướng cá cho vàng, Lấy tiền mua rượu cho chàng uống chơi, Phòng khi có khách đón mời, Cơm ăn rượu uống cho vui lòng chàng... hay Đôi ta như rượu với nem, Đang say ngây ngất ai dèm chớ xa..

Rượu uống vào không những chỉ làm say còn làm nghiền. Nghiền rượu có thễ chữa được:

Một trà một rượu một đàn bà

Ba cái lăng nhăng nó hại ta

Chừa được thứ nào hay thứ ấy (Trần Tế Xương)

Có chăng chừa rượu với chừa trà. chừa được nhưng hiếm người muốn chừa:

Những lúc say sưa chũng muốn chừa

Muốn chừa nhưng tỉnh lại hay ưa

Hay ưa nên nỗi không chừa được

Chừa được nhưng mà cũng chẳng chừa! (Nguyễn Khuyến)

Nên mấy ông cứ tiếp tục mà Say sưa nghĩ cũng hư đời. Hư thời hư vậy, say thời cứ say ngay cả dư biết rằng say sưa làm cho người thân buồn khổ: Ngọc Hoàng ngồi tựa ngai vàng, thấy con uống rượu hai hàng lệ rơi (những người uống rượu là con Ngọc Hoàng)

Lý Bạch bên Tầu, Tản Đà bên Việt đều say sưa tối ngày vì: việc trần ai ai tỉnh ai lo, Say tuý luý nhỏ to đều bất kể.Trơì đất nhỉ! caí say là sướng thế! Vợ khuyên chồng ai dễ đã chừa ngay? Muốn say lại cứ mà say... Đúng vậy cứ say để chuyện cho người tỉnh lo, chả sướng sao được!!

Mà này, rượu là cái gì mà người ta lại thích thế nhỉ? Chà! nói về rượu, e phải vài cuốn sách mới nói hết đượcquí vị ơi! Thôi, nếu muốn tìm hiểu kỹ, quí vị ra thư viện mượn sách về mà đọc hay vào internet mà tìm, ở đây Sao Khuê chỉ nhớ đâu nói đó thôi nhé.

Rượu được Tây xưng tụng là eau de vie có được do sự lên men rượu của:

- các nước trái cây như nho, táo, dâu, lê...

- các loại ngũ cốc nhất là gạo nếp (gạo nếp ngọt do chứa nhiều đường nên dễ lên men)

- houblon (rượu bia)

- mía (rượu rhum)

Rượu được tìm ra từ 4000 năm trước Chúa giáng sinh ở vùng Cận Đông từ nho Vitis vinefera. Rượu nho do nho lên men nhờ lớp men nằm ngay ngoài vỏ trái nho và rượu nho càng để lâu càng ngon:

Rượu ngon rót lấy chín tuần

Lòng em đã quyết mười phân lấy chàng... (Ca Dao)



Nho làm rượu được trồng khắp Âu Châu và đặc biệt nho ở vùng Champagne cất được thứ rượu sủi bọt vừa ngon vừa...bổ (?) nên được đặt tên là rượu Champagne. Ở Mỹ Châu, phải đến thế kỷ thứ XV, Colombus mới mang nho vào trồng để làm rượu. Rượu nho tức rượu vang (vin-wine), quí vị biết rồi, có hai loại là vang trắng và vang đỏ. Vang đỏ, nhớ là đỏ à nghe, uống ngày một ly giúp cho máu lưu thông giúp cho tim mạch (trời đất! ly uống vang chứ ai lại lấy ly cối để uống bia ra mà uống vang thế này, thấy được phép uống là lợi dụng liền! Hư quá!). Mới đây người ta còn thấy vang đỏ có chứa chất resveratrol có tính ngăn sự tổng hợp DNA nên có tác dụng trị herpes, nhưng hổng phải uống vang hết bệnh đâu, mà phải xoa Stil-5 lấy từ vang đỏ ngay khi vừa chớm bị. Đã dặn là uống ít nhưng quí vị có tưởng tượng nổi là dân Ý tà lồ và Tây mũi lõ trung bình hàng năm uống tới 158 lít vang mỗi người không, khiếp chưa?

Người ta cũng dùng các loại ngũ cốc để làm rượu. Thổ sản của Nga la Vodka, của Nhật là Saké và của việt Nam là rượu Đế. Ở Tầu có nhiều thứ rượu và người luôn luôn say tên là Lưu Linh nên sau này người nào sáng say, chiều xỉn, tối sứa đích thị là đệ tử của Lưu Linh.

Rượu làm ra có rượu mạnh, rượu nhẹ, tùy theo độ cồn (do tiếng alcool). Nhẹ nhất là rượu bia (bièrre- beer). Beer nổi tiếng là beer của Đức có dưới 10 độ cồn.

Rượu vang từ10 đến 20 độ. Từ rượu bia hay rượu vang, người ta cất những thứ rượu khác mạnh hơn, từ 20 đến 40 độ (cognac, whisky...)

Rượu có khi ngon khi dở, tùy theo men rượu, cách cất, cách giữ (bảo quản). Men rượu, thời tiết, cách làm có thể làm rượu sủi tăm, thật ngon: Đố ai chừa được rượu tăm, Chừa ăn thuốc chín, chừa nằm chung hơi.

Độ rượu thấp, vị còn chua gọi là rượu nhạt nhưng: Rượu nhạt uống lắm cũng say, Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm khiến cho Rượu ngon trong hũ rót ra, Để lâu cũng nhạt nữa là duyên em thế nên muốn rượu giữ được vị ngon, tăng vị ngon, thì làm rượu xong còn phải ủ rượu. Rượu vang thì được chứa trong các thùng gỗ giữ nằm nghiêng, yên lặng trong các hầm rượu có độ lạnh vừa phải, càng để lâu thì rượu càng ngon. Ở Việt Nam khí hậu nóng nên muốn giữ rượu được lâu và cho ngon người ta chôn rượu dưới đất, dưới ao, dưới giếng. Ai mà ham rẻ do sale hay do ''duty free'' lúc đi du lịch cứ khuân về để dành uống hay để tặng thì nhớ để rượu chỗ mát mẻ, chai rượu phải để nghiêng cho rượu chạm vào nút chai, tránh sự tiếp tục lên men ở phần có không khí gần nút chai có thể làm cho rượu hóa chua do biến thành dấm.

Quí vị biết rồi, rượu uống vào mới đầu làm cho người ta quên sầu (quên thôi chứ cái sầu vẫn còn đó chưa đi đâu hết- ta chỉ tạm quên mà thôi nhé), ít cảm thấy đau đớn, giúp cho tiêu hóa tốt, giúp ngủ say... rồi rượu thấm vào máu làm nở mạch máu, thấm vào phổi (nên cảnh sát đo ruợu bằng hơi thở, mà uống nhiều chỉ cần đứng cạnh là đã thấy nồng nặc mùi rượu), cùng lúc rượu thấm vào mồ hôi, đi vào não bộ; lúc đó thì cử động chậm chạp, ăn nói lè nhè, đứng không vững, đi thì chân nam đá chân siêu, mặt và mắt đỏ ké, môi thâm sì, nhìn không tường, nghe không rõ... rồi có khi làm cho người ta trở thành mạnh bạo tới mức hung dữ hay đôi khi lại làm cho người ta trở nên buồn quá, khóc rưng rức, thật là giống...người say rượu!

Rượu uống hàng ngày- ngày nào cũng uống ấy mà- làm tăng enzyme (enzyme inducer) một diếu tố giúp cho sự biến hóa (métabolisme) của thức ăn và thuốc uống, tức là làm thuốc bị thải ra nhanh hơn nên uống rượu kinh niên làm giảm tác dụng thuốc nhưng nếu quí vị đang uống thuốc (mà hàng ngày không uống rượu) nay tình cờ được mời đi ăn, ghé môi nhấp một ly rượu thì lúc đó tác dụng lại ngược lại, rượu làm giảm enzyme (enzyme inhibitors), thuốc bị thải ra chậm lại, tác dụng thuốc đột nhiên tăng lên nhiều khi quá mức kiểm soát có thể trở thành độc hại. Điều đó có nghĩa là nếu bạn phải uống thuốc thì nhớ khai với bác sĩ và dược sĩ để người ta gia giảm liều thuốc cho phù hợp nhất là khi dùng thuốc trị đông máu (anticoagulant) và những thuốc có tác dụng lên hệ thần kinh. Những người bị bệnh tiểu đường, huyết áp cũng chỉ nên uống nước lọc chứ đừng uống loại eau de vie này, rắc rối lắm...Những vị không phải uống thuốc trị bệnh thì chiều chiều lại nhớ chiều chiều, uống lưng ly rượu (vang Đỏ) cho nhiều máu qua (quí vị cần nhớ chỉ có vang Đỏ mơí giúp cho máu huyết lưu thông mà thôi).

Rượu ngoài việc uống vào bụng còn dùng để xoa. Xứ mình ngày xưa dùng ngay rượu đế để xoa, để xông (giã gừng cho vào điã rượu, đốt lên rồi chùm kín mền mà xông khi bị cảm), để bóp khi đau nhức (rượu thuốc), để tẩy múi hôi của thức ăn (vịt, mực, sứa v...v.. muốn cho bớt hôi thì bóp với rượu trộn chung với gừng giã nhỏ, sau đó đem rửa sạch lại). Xứ mình còn bắt chước người ta, đem ngâm đủ thứ vào rượu để uống: củ sâm, thuốc Bắc, lá cây, rắn rít, rùa,...đôi khi rất là nguy hiểm mà nhiều người vẫn không biết sợ!! Ở xứ Âu Mỹ cũng vậy, rượu để uống và để xoa, để đốt, tuy vậy cần phân biệt là rượu uống được phải là Ethanol, công thức là C2H5OH, tức là alcool éthylique, lên men từ trái cây, ngũ cốc như quí vị đã biết; rượu để xoa bóp là chất tổng hợp tên là alcool isopropylique, rượu để đốt ''đèn cồn'' là alcool de bois, tên hóa học là alcool méthylique CH3OH. Tất nhiên là còn nhiều loại rượu khác dùng trong phòng thí nghiệm; đó là những chất có gốc ''CHOH'' nhưng lưu ý các bợm nhậu là những chất rượu đó có thể gây mù mắt hay chết người khi uống vào dù chúng đều có mùi thơm như nhau!!

Rượu làm say và uống lâu ngày làm ghiền sau đó làm chai cứng gan rồi ung thư gan chưa kể rượu còn gây ra bao nhiêu tai nạn xe cộ đến chết người, gây dổ vỡ bao nhiêu gia đình; con cái của người nghiện rượu sinh ra ít được bình thường, nếu không ngu dốt ngớ ngẩn thì cũng kém thông minh...

Muốn bỏ rượu quá nhưng không bỏ được... Làm sao đây??

Thật ra đâu có gì là khó. Trước hết là...cất hết tiền đi, không có tiền thì lấy gì mua rượu?

sau đó là các trung tâm cai ghiền lúc nào cũng rộng mở để giúp đỡ người lầm đường lạc lối, người lỡ bước sa chân. Để cai rượu, các bác sĩ cho dùng thuốc tên là ''antabuse''. Khi đã uống antabuse mà uống rượu vào thì ói mửa thấy mật xanh mật vàng, lần sau chỉ ngửi thấy mùi rượu là cũng sợ chết khiếp, từ nay xin chừa. Disulfiram, tên hóa học của antabuse ngăn chặn sự biến hóa của rượu, làm cho rượu uống vào thành alcétaldéhyde. Uống antabuse mà uống một chút rượu thôi thì tim đập nhanh, nóng nực, khó thở, bứt rứt mệt mỏi rồi ói mửa tới phát sợ luôn...Những ngươì ghiền có thiện chí cai rượu bằng antabuse, ngoài ý chí nghị lực cũng cần có người thân bên cạnh trông nom giúp đỡ trong những lúc này. Vậy thì uống vào làm gì cho khổ, thôi thì chúng mình những cây sậy yếu đuối nên kính nhi viễn chi trước mấy món gây nghiền này quí vị nghĩ sao??

Có một chuyện vui Sao Khuê kể hầu quí vị: Có một nhóm các cô các cậu trẻ tuổi dự một party. Cảnh sát chờ sẵn ngoài cửa để đo độ rượu, trước hết là để...phạt, sau đó là để tống kên xe đưa về cho đỡ tai nạn lưu thông. Đi ra trước hết có một anh chàng, chân nam đá chân siêu, nghiêng ngửa, anh ta móc túi để lấy chìa khóa xe mà móc mãi mới được, lẩy bẩy mãi mới mở được cửa xe để chui vào, hì hà hì hục mãi mà không đề nổi máy xe. Cảnh sát đến gần, hỏi giấy xe và bắt anh ta thở vào máy để xem anh ta xỉn tới cỡ nào: không có tí hơi rượu nào cả!

- Ơ hay, thế này là thế nào? anh có uống rượu không?

- Không, tôi không uống một giọt nào hết!

- Thế sao anh đi đứng không vững, có vẻ như say lắm?

- Nếu tôi không làm như thế thì đâu có giữ xếp ở đây để mấy thằng bạn say sưa của tôi ra về được. Chúng về hết rồi xếp ơi! Xếp cho tôi về chứ...

Mà này, quí vị có thấy là trong phim Đại Hàn, con trai con gái cứ buồn là vào quán làm hết ly nọ đến ly kia sau đó kẻ nào say khướt lại được cõng về không nhỉ...

Có tin mừng cho quí vị thích rượu là uống nhiều rượu thì không tốt lại còn say nhưng nấu thức ăn với rượu thì...được phép. Quí vị có thể nấu nào là gà, nào là bò, nào là thỏ với rượu. Chưa kể là chim, nghêu, sò... có rượu vào cũng ngon hẳn lên. Dễ ẹc à. Quí vị cứ ướp thịt với gia vị, với rượu vang đỏ (đồ biển thì vang trắng), để tủ lạnh qua một đêm, hôm sau đem chiên sơ thịt với bơ, cho thêm rượu vào mà nấu nhỏ lửa cho chín kế đó quí vị xào hành sắt hạt lựu với bột và bơ cho vàng, bỏ vào nồi thịt trộn đều cho sền sệt là ngon ngay.

Ô!!

Mãi vui rượu sớm cờ trưa

Đào đà phai nhạt sen đà nẩy xanh (Kiều)

Sao Khuê vừa nhâm nhi tí ''ice wine''- một đặc sản của xứ lạnh- làm bằng nho đông đá trong mùa đông, có vị ngọt thật ngon- vừa tản mạn về rượu với quí vị mà trưa rồi đó, thôi hẹn quí vị lần sau...say nhé. À quên, SAY, tiếng Tầu là TÚY nên mới có chữ là say túy lúy. Túy Nga là Hằng Nga say, Túy Vân là mây say ; nhiều vị hay đặt tên lót cho con gái là Túy, không biết mấy ''cô con gái rượu'' này có say như bố không nhỉ??

Sao Khuê



SAY- Đan Nguyên & Quốc Khanh



Nguyễn Hưng - Say



Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Sun Dec 18, 2022 1:40 am    Tiêu đề: Quỳnh Hoa

"Quỳnh Hoa" của thi sĩ Sao Khuê
Hồng Vân diễn ngâm



Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Wed Dec 21, 2022 10:09 pm    Tiêu đề: TUYẾT RƠI - Sao Khuê


Tuyết Rơi

Mai Hữu Thọ chọn ảnh minh họa


Tuyết Rơi

Tuyết rơi thì mặc tuyết rơi

Ngồi bên cửa sổ, ngắm thôi, ấm lòng

Mênh mông tuyết trắng mênh mông

Cành khô trĩu tuyết chùm bông trắng oà

Thương cho những kẻ không nhà

Đói ăn, thiếu mặc thật là trầm luân

Cầu cho người bớt phong trần

Có ăn có mặc bớt phần gian nan

Sao Khuê



Tombe la neige Salvatore Adamo




Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Fri Dec 30, 2022 10:37 pm    Tiêu đề: Mộng Với Hoa

Mộng Với Hoa -Thơ Sao Khuê- Diễn Ngâm Hồng Vân



Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Thu Jan 19, 2023 1:54 pm    Tiêu đề: SAO BĂNG


SAO BĂNG

Mai Hữu Thọ chọn ảnh minh họa


SAO BĂNG

Khi xưa nhỏ xíu chốn quê nhà

Trăng sáng ngày rằm, chiếu trải ra

Êm ái lòng bà, nghe kể chuyện

Viên thành ước nguyện, thấy sao sa.

Ngàn sao phó hội sáng đêm trăng

Lấp lánh lung linh toả hoa đăng

Trên giải ngân hà muôn tinh tú

Dưới trần có kẻ ngóng sao băng

Thương tình có vì sao đổi ngôi

Băng qua nơi cô bé đang ngồi

Khốn nỗi sao đi nhanh nhanh quá

Nguyện ước chưa cầu, đọng trên môi

Chớp mắt sao băng đã vút qua

Và rồi biến mất, giải ngân hà

Bé buồn, giọt long lanh khoé mắt

Nũng nịu: Bà ơi, bắt đền bà!

Sao Khuê

Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Tue Feb 14, 2023 5:02 pm    Tiêu đề: Tặng chữ Tâm

XIN GỬI ANH THỌ VÀ NHÓM DUY TÂN

Tặng chữ Tâm (nhân ngày Valentine)

Ngày lễ Tình Thương tặng chữ Tâm
Tâm bình, tĩnh lặng, nở hoa xuân
Tình thương tỏa khắp nơi trần thế
Vạn biến không màng, Hỷ- Lạc -An

Sao Khuê
Về Đầu Trang
MAI THO



Ngày tham gia: 20 Apr 2011
Số bài: 7284

Bài gửiGửi: Sun Feb 19, 2023 11:12 pm    Tiêu đề: Ghé Thăm Trung Học Duy Tân


Ghé Thăm Trung Học Duy Tân


Ghé Thăm Trung Học Duy Tân

Vần thơ xướng hoạ có phần xôn xao

Nhạc hay ảnh đẹp đón chào

Cõi văn hoa nở ươm vào lòng ta

Cảm ơn tâm chủ bao la

Đêm ngày chẳng quản miễn là cùng vui

Sao Khuê

Về Đầu Trang
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    TRUNG HỌC DUY TÂN - PHAN RANG -> Tuyển chọn THƠ của MAI THỌ Thời gian được tính theo giờ GMT - 4 giờ
Chuyển đến trang 1, 2  Trang kế
Trang 1 trong tổng số 2 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn

    
Powered by phpBB © 2001, 2005 phpBB Group
Diễn Đàn Trung Học Duy Tân