Thầy Thiện Giải với môn giáo lý
Tặng QuangBĐ cùng các cựu HS trường Bồ Đề
Tôi không là học sinh trường Bồ Đề nhưng duyên may đưa đến được diện kiến với thầy khi học lớp đệ Thất (lớp 6 bây giờ). Bạn tôi, Trần Đình Quế, sĩ quan phi công trực thăng thời VNCH - đã thất lộc ở Hoa Kỳ cách đây 2, 3 năm, có chia buồn trên trang web duy tân - niên khóa 1959-1960 học Bồ Đề, còn tôi học ở Nguyễn Công Trứ (vì tôi trọ học nhà người Dì ở đường Thống Nhất Phan Rang).
Năm học 1959-1960 trường Bồ Đề có hai lớp đệ Thất: đệ Thất 1 (Pháp văn) và đệ Thất 2 (Anh văn). Hồi đó hình như trường chưa mở lớp đệ Tứ. Trần Đình Quế ở Tháp Chàm nên đi học trường Bồ Đề gần hơn. Quế học đệ Thất 2. Tôi hay đến thăm Quế ở trường Bồ Đề là vì trường Bồ Đề hai lớp đệ Thất học buổi chiều, nhưng trường Nguyễn Công Trứ thì hai lớp đệ Thất (cũng đệ Thất 1, Pháp văn và đệ Thất 2, Anh văn) cùng với lớp đệ Tứ, học buổi sáng.
Sau này tôi hiểu ra vì sao trường NCT đệ Thất và đệ Tứ lại học buổi sáng. Lúc đó thầy Nguyễn Quảng Tuân là đương kim hiệu trưởng của hai trường NCT và Duy Tân, có lẽ thầy hiểu được tâm lý của học sinh chăng: đệ Tứ phải thi Trung học đệ nhất cấp còn đệ Thất có thể thi lại vào đệ Thất trường công (tức trường Duy Tân) nên để cho các học sinh thoải mái về sức khỏe và tâm lý. Có lẽ đúng, vì ở trường DT các lớp học buổi sáng đều dành cho các lớp đi thi: đệ Tứ (thi Trung học đệ nhất cấp), đệ Nhị (thi Tú tài phần I) và đệ Nhất (Tú tài phần II).
Vì học buổi sáng nên thỉnh thoảng buổi xế trưa tôi đến trường BĐ để thăm Quế trước giờ vào lớp hoặc giờ ra chơi. Duyên may đưa đến cho tôi, hôm ấy Quế nói với tôi ”Mày nếu rảnh thì qua chùa chơi đi, đợi hết giờ ra chơi vô lớp tao ngồi, bữa nay hết giờ ra chơi vào là giờ Giáo Lý của Thầy Thiện Giải. ” Tôi hỏi lại “Văn phòng điểm danh làm sao? ” Quế đáp “Điểm danh một lần lúc vào học đầu giờ thôi. ”. Tôi biết Bà Nội và ba má của Quế là những Phật tử nhiệt thành, cùng với mẹ tôi hay đi chùa, Quế cũng vậy nên không ngạc nhiên gì khi Quế ngỏ lời với tôi.
Đúng giờ, thầy dạy môn Giáo lý bước vào, cả lớp đứng dậy. Thầy tươi cười và ra hiệu cho học trò ngồi xuống. Thầy đẹp người vừa tầm không cao, độ chừng trên dưới 30 tuổi trong áo tu sĩ màu lam (thầy không mặc áo màu nâu như các vị tu sĩ thời đó), nước da trắng, mắt sáng ngời, nói giọng Huế. Hôm ấy tôi nhớ mãi đến bây giờ - có lẽ tuổi ấu thơ rất dễ dàng ghi vào tâm trí các ấn tượng khó quên – thầy dạy bài: Thái tử Tất-đạt-đa lìa bỏ cung vàng điện ngọc và gia đình, để vào rừng tầm đạo.
Tôi vẫn còn nhớ mãi cho đến bây giờ. Giọng của thầy trầm bổng vừa đủ nghe, thầy nói rất nhịp nhàng và du dương, đánh thức trí tò mò của các học sinh nhỏ tuổi như chúng tôi từ lúc này đến lúc khác theo diễn tiến của thời gian trong bài dạy của thầy. Và sau cùng thầy kết thúc bài giảng trong sự ngậm ngùi của bọn học trò nhỏ - (thiếu điều là chảy nước mắt thôi!). Giờ Giáo lý chỉ một tiết (khoảng 50 phút, mỗi tuần) nhưng chúng tôi thấy sao mà nhanh quá so với các môn khác! Hết giờ Giáo lý, tôi lẻn ra khỏi lớp đi sau thầy. Lúc này khoảng 4 giờ chiều. Tôi đi phía sau thầy về phía chùa (gọi là chùa Tỉnh hội). Bất chợt thầy dừng lại nghiêm nét mặt và hỏi tôi “Sao không học tiếp mà bỏ ra? ”. Nhìn tôi một chập thầy nói: “À, sao thầy không thấy em mấy lần học trước? ” rồi thầy tiếp: “Thôi, vào học tiếp đi, còn một giờ nữa thôi. Có gì sau giờ học đến gặp thầy. ”. Thầy bỏ đi vài bước rồi quay lại vẫn thấy tôi còn đứng một chỗ, thầy tiến tới: “Sao em bỏ học, sách vở đâu? ”. Tôi chấp hai tay (như một Phât tử vẫn thường đảnh lễ các vị tu sĩ Phật giáo): [i]” Thưa thầy, con không phải học lớp đó, con chỉ tới nghe thầy dạy giáo lý thôi. ”
Không ngờ thầy bảo tôi theo thầy về đến phòng thầy ở mé sau chính điện chùa Tỉnh hội; lúc này thầy là trụ trì chùa, còn Ban Trị sự Tỉnh hội là do cụ Bùi Dương làm trưởng ban. Thầy ân cần tiếp đãi tôi như một người em, người cháu; thầy lấy cam, kẹo và nước ngọt con cọp BGI (trong phòng thầy không thấy có tủ lạnh) ra ngồi đối diện với tôi, ân cần thăm hỏi từ gia cảnh đến học hành. Thầy hỏi tôi có thích học giáo lý không, rồi thầy tiếp “còn nhỏ, em phải ươm cái mầm tốt lời Phật dạy, rồi càng ngày cái mầm đó nở lớn ra đến lúc trong tâm em sẽ không còn thấy hận thù mà chỉ thấy toàn yêu thương thôi. ” Và trước khi rời khỏi phòng thầy, thầy còn dặn nếu tôi thích học môn giáo lý cứ đến không sao cả vì có thầy.
Sau đó, tôi đến trường thường lệ mỗi tuần nhưng được vài tháng tôi không đến nữa (vì lý do giờ giấc không thuận tiện cho tôi) nhưng thỉnh thoảng buổi chiều tôi có lên chùa để thăm thầy. Tôi có rủ thêm năm ba người bạn cùng lớp, thầy vẫn ân cần tiếp đãi chúng tôi; nếu bữa nào đông thì thầy kéo ra ngoài sân. Tôi nhận thấy rất nhiều học sinh lớn hơn tôi dù không học ở Bồ Đề cũng đến với thầy, nhất là ngày chủ nhật. Hồi đó đã có Gia đình Phật tử rồi (y phục và nón giống như các hướng đạo sinh (boyscout), chỉ khác là không có dao và dây thôi! Thầy khuyên chúng tôi nên vào gia đình Phật tử, thầy nói: giáo lý là trí huệ còn giúp đời là từ bi; có vào gia đình Phật tử mới có dịp thể hiện được tấm lòng.
Rất tiếc sau đó thầy được giáo hội trung ương đổi đi (luân chuyển), lúc ấy nhỏ quá mà để ý làm gì (Ăn chưa no lo chưa tới mà!)
Nhưng mãi đến bây giờ vẫn còn ăn sâu vào não trí tôi hai câu sau của Thầy:
1- “còn nhỏ, em phải ươm cái mầm tốt lời Phật dạy, rồi càng ngày cái mầm đó nở lớn ra đến lúc trong tâm em sẽ không còn thấy hận thù mà chỉ thấy toàn yêu thương thôi. ”
2- giáo lý là trí huệ còn giúp đời là từ bi; có vào gia đình Phật tử mới có dịp thể hiện được tấm lòng.
Tuổi thơ như manh giấy trắng, khi vẽ hay viết mực vào đó khó mà tẩy hết vết xóa, nó vẫn hằn lại.
Vì vậy tuổi thơ mà được quí thầy như Thầy Thiện Giải, một người chỉ chuyên tâm ươm mầm cho những thiếu niên mới vào năm đầu của trung học, thì thật may mắn cho thế hệ. Mới chừng tuổi đó mà thầy đã có những suy nghĩ và mong mỏi cho các thế hệ sau như thế, đủ thấy tầm vóc cùng khối óc và trái tim của Thầy to lớn biết chừng nào.
Tây đô, chiều mưa không lớn lắm
(July 08th 2015)
ĐKP |