TÌM THOÁNG HƯƠNG XƯA
(DS Năng sưu tầm)
Phạm Duy: Ai sẽ là người nhỏ lệ lên trái tim Văn Cao?
Bài viết sau đây của nhạc sĩ Phạm Duy viết năm 1987, nhận định, phân tích về nhạc tình ca
Bài viết sau đây của nhạc sĩ Phạm Duy viết năm 1987, nhận định, phân tích về nhạc tình ca Văn Cao, những ca khúc bất tử mang giá trị nghệ thuật cao và đã được công chúng yêu thích suốt 80 năm qua, như Bến Xuân, Suối Mơ, Cung Đàn Xưa, đặc biệt là Thiên Thai, Trương Chi. Đây có thể xem là bài viết hay nhất về âm nhạc Văn Cao – một thiên tài của tân nhạc Việt Nam thưở sơ khai.
***
Thuở còn nhỏ, tôi rất yêu một bài thơ Pháp, thường được người đời gọi là Sonnet d’Arvers. Tôi chỉ còn nhớ hai câu tiếng Pháp như sau:
Mon coeur a son secret ma vie a ses mystères
Toujours à ses côtés et pourtant solitaire...
Nhà văn Khái Hưng đã dịch bài thơ đó một cách tuyệt vời:
Lòng ta chôn một khối tình
Tình trong giây phút mà thành thiên thâu
Tình tuyệt vọng nỗi thảm sầu
Mà người gieo thảm như hầu không hay
Hỡi ơi người đó ta đây!
Sao ta thui thủi đêm ngày chiếc thân
Dẫu ta đi trọn đường trần
Chuyện riêng không dễ một lần hé môi
Người dù ngọc thốt hoa cười
Nhìn ta như thể nhìn người không quen
Đường đời lặng lẽ bước tiên
Ngờ đâu chân đạp lên trên mối tình
Một niềm tiết liệt đoan trinh
Xem thơ nào biết có mình ở trong
Lạnh lùng lòng lại hỏi lòng
Người đâu tả ở mấy dòng thơ đây?
Thi sĩ d’Arvers yêu một người đẹp mà tuy gặp gỡ hàng ngày nhưng không bao giờ chàng dám tỏ tình với người mình yêu cả! Chàng giữ kín mối tình câm đó suốt đời mình, và nghĩ rằng sẽ có một ngày, người đẹp đó đọc bài thơ này, rồi bâng khuâng tự hỏi: Ai là người đã được mô tả trong mấy dòng thơ đây? Vào những năm đầu của thập niên bốn mươi, cũng như một số các nhạc sĩ trẻ khác, vừa bước vào con đường nhạc tình, tôi đã bị ảnh hưởng “Bài Thơ Tình Câm Lặng” của thi sĩ d’Arvers đó cho nên tôi đã có vài bài tình ca ấp úng như bài Cô Hải Mơ, trong đó tôi mang số phận của Nguyễn Bính để tỏ tình với người đẹp mà chẳng được cô ta trả lời chúng tôi lấy một lời! Hoặc như bài Cây Đàn Bỏ Quên, trong đó, cũng giống như anh Trương Chi/Văn Cao sau này, tôi bâng khuâng tự hỏi người đẹp yêu tôi hay chỉ yêu tiếng đàn của tôi mà thôi? Nhưng nếu thi sĩ d’Arvers còn có một người đẹp để yêu vụng nhớ thầm và làm thơ, thì lũ nhạc sĩ trẻ nhát gái như chúng tôi lại chẳng có ai để mà soạn nhạc tình dâng hiến! Chúng tôi toàn soạn nhạc tình cho người tình tưởng tượng! Tôi không biết các ông tổ sư của loại nhạc tình trong Tân Nhạc Việt Nam như Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh hay Lê Thương... khi soạn ra những bản tình ca bất hủ mà ai nấy đều biết, đều hát thì có một người yêu bằng xương bằng thịt nào ở bên cạnh quý vị đó hay không? Duy có điều tôi biết rất ư chắc chắn là: Vào năm 1945, khi soạn hai bài nhạc tình Suối Mơ và Bến Xuân thì Văn Cao đã tưởng tượng ra những cảnh:
Từng hẹn mùa xưa cùng xây nhà bên suối...
Nghe suối róc rách trôi, hoa lừng hương gió mát
Đàn nai đùa trong khóm lá vàng tươi...
Nhà tôi bên chiếc cầu soi nước
Em đến tôi một lần Bao lũ chim rừng họp đàn trên khắp bến xuân...
Thực ra thì chẳng có em nào cả! Tuy rằng người tình tưởng tượng có đôi mắt như dáng thuyền soi nước... với tà áo em rung theo gió nhẹ thẹn thùng... cũng cho nhạc tình Việt Nam một vài cảnh đẹp như liễu dương hơ tóc vàng trong nắng... khiến cho du khách, sau khi gột áo phong sương trở về bến cũ, nhớ người tình xưa... còn ngại ngùng nhìn bến xuân. Chao ôi là tưởng tượng! Nếu có dịp nào chúng ta đi tìm nhạc tình trong lịch sử thi ca và âm nhạc cổ truyền Việt Nam, chúng ta sẽ ngạc nhiên vì hiếm thấy có những bài thơ hay những bài hát nói đến tình yêu trai gái. Có lẽ trong dĩ vãng có ông cụ họ Khổng đã kê sẵn một cái bàn trong con tim và khối óc các tình nhân cổ xưa để kiểm duyệt nhạc tình một cách hơi khắt khe chăng? Trữ tình đến như hát quan họ thì cũng chỉ dám nói đến chuyện nắm cổ tay không cho người yêu ra về! Hoặc vui mừng như trong hát giao duyên thì cũng vẫn chỉ là:
Gặp nhau đây
Nắm tay cho chặt
Anh hỏi nàng
Có thật yêu không?
Hay buồn rầu như trong hát ví, vì không nắm được cổ tay:
Cổ tay em trắng như ngà
Đôi mắt em sắc như là dao cau
Đôi ta dan díu bấy lâu
Biết rằng có lấy được nhau mà chờ?
Phải đợi cho tới khi Tân Nhạc ra đời vào những năm cuối ba mươi và đầu bốn mươi, chúng ta mới có được một loại nhạc tình lãng mạn đầu tiên của người Việt Nam, do các người tình tiền phong của thời đại như Dương Thiệu Tước, Thẩm Oánh, Lê Thương, Văn Chung, Lê Yên, Dzoãn Mẫn... tung ra! Tất cả những bản nhạc tình đó, cũng giống như nền Thơ Mới của Việt Nam lúc bấy giờ, đã có phần nào bị ảnh hưởng văn chương và thi ca lãng mạn Pháp. Cụ thể mà nói thì những bài thơ như Sonnet d’Arvers đã ảnh hưởng tới lũ chúng tôi, những người viết nhạc tình đầu tiên của Việt Nam theo lãng mạn tính của cá nhân chủ nghĩa trong thi văn Pháp. Tuy nhiên, loại nhạc tình lãnh mạn đó chỉ có thể được gọi là đạt tới độ hoàn mỹ khi nó được xuất phát ra từ một con người tài hoa bậc nhất của giới nghệ sĩ trẻ lúc bấy giờ. Người đó là Văn Cao! Chẳng khác chi lớp nghệ sĩ trẻ tuổi và lãng mạn vào lúc đó, Văn Cao cũng bị mùa Thu ám ảnh! Những bản nhạc tình lãng mạn đầu tiên của ông đều nói tới mùa Thu. Những bài như Thu Cô Liêu, Buồn Tàn Thu lại còn pha trộn thêm cái buồn Đông Phương. Lời ca nghe như một câu thơ Đường:
Thu cô liêu tịch liêu,
Cô thôn chiều.. Ta yêu Thu yêu Thu yêu mùa Thu!
Tuy chỉ là một bài hát ngắn, nhưng Văn Cao cũng chia Cung Đàn Xưa ra bốn đoạn rõ ràng. Đoạn đầu nói tới cung đàn năm xưa với một âm giai sol trưởng và một nhịp valse như trong bài Thu Cô Liêu:
Hồn cầm phong hương
Hình bóng xuân tàn
Ngày dần buông trôi
Sầu vắng cung đàn.
Lời đàn năm xưa
Xe kết đôi lòng
Lời đàn năm nay
Chia rẽ đôi lòng.
Đoạn 2 nói tới cung Thương, cung Nam nghĩa là những cung đàn ai oán trong âm nhạc cổ xưa, những chủ đề mà Lê Thương, Phạm Duy cũng đều có nói tới qua những bài như Tiếng Đàn Xuân, Khối Tình Trương Chi:
Cung Thương là tiếng đàn
Cung Nam là tiếng người
Ai oán khúc ca cầm châu rơi
Tình duyên lãng đãng nhớ thương dần pha phôi!
Sau khi đã đổi nhịp trong đoạn 2, với đoạn 3, Văn Cao chuyển qua một nhịp điệu khác, nói tới sự buồn rầu trong cung đàn xưa:
Cung đàn ngân
Buồn xa vắng trong tiếng thầm
Buồn tê tái trong tiếng ngân
Buồn như lúc xuân sắp tàn
Ôi đàn xưa!
Còn vang nhắc chỉ đến người?
Lòng ta tắt bao thắm tươi
U hoài duyên đưa...
Thì ra tất cả ba đoạn nói tới một Cung Đàn Xưa đó chỉ muốn nhắc tới một người mà Văn Cao diễn tả một cách tuyệt mỹ, một người tình tưởng tượng có đỗi mắt giữ lại mùa xuân, có đôi chân đi tới đâu hoa nở tới đó, có thân hình thơm hương, có tiếng nói khơi dậy yêu thương... khiến cho hiện thân của anh Trương Chi là Văn Cao đó, bây giờ đã phải cất lên tiếng đàn giao hoan và dệt nên không biết bao nhiêu là mộng mị:
Chiều năm xưa Gót hài khai hoa
Mắt huyền lưu Xuân
Dảng hồng thơm hương...
Chiều năm nay
Tiếng người khơi thương
Tiếng đàn giao hoan
Giấc mộng chàng Trương!
Bài hát sẽ trở lại đoạn đầu để hết...
Sau hai bài Thu Cô Liêu và Cung Đàn Xưa mà ít người biết tới, Văn Cao soạn Suối Mơ và Bến Xuân. Nếu đem so sánh với những bản nhạc tình của thời đó, thì hai bài Suối Mơ và Bến Xuân là cực điểm của lãng mạn tính trong ca nhạc. Lúc đó, các nhạc sĩ khác còn đang luẩn quẩn tìm cách xếp đặt chữ nghĩa trong ca khúc thì Văn Cao đã viết hẳn ra một Bài Thơ Bên Suối:
Suối mơ Bên rừng thu vắng
Dòng nước trôi lững lờ ngoài nắng
Ngày chưa đi sao gió vương?
Bờ xanh ngắt bóng đôi cây thùy dương...
Sau này người ta gọi nó là Suối Mơ, nhưng thực sự nó mang cái tên là Bài Thơ Bên Suối. Trong lúc tình ca Thẩm Oánh, Dương Thiệu Tước, Lê Thương còn vướng víu nhiều hình tượng cổ điển thì Văn Cao đã đưa ra những hình ảnh mới trong nhạc tình:
Suối ơi!
Ôi nguồn yêu mến
Còn ghi khi bóng ai tìm đến!
Đàn ai nắn buông lưu luyến
Suối hát theo đôi chim quyên...
Cái mới trong hình ảnh, cái mới trong tương quan giữa cảnh và người đưa ra trong nội dung, cái mới cả trong nhạc điệu... Sau hai lần mô tả con suối dẹp trong rừng thu với nhạc đề một, Văn Cao chuyển qua nhạc đề hai để hẹn hò với người yêu cùng xây nhà bên suối, cùng nghe suối róc rách trôi, cùng ngửi mùi hoa lừng hương gió ngát... và cũng không quên cái cảnh đàn nai đùa trong khóm lá vàng rơi! Bài hát ăm ắp hình tượng mùa Thu yêu đương!
Inline image
Rồi ca khúc chuyển nhẹ qua giọng majieure để nhắc nhở tới chuyện xa nhau giữa hai người tình: Tơ đàn chùng theo với tháng năm Rừng còn nhớ tới người Trong chiều nào giữa chốn đây Hồn cầm lắng tiếng đời... Cuối cùng, nhạc đề một trở lại với kết luận là con suối trong rừng Thu sẽ buồn muôn thuở là vì còn lưu luyến hương vị tình yêu của chúng ta:
Suối ơi! Nghe rừng heo hút...
Dòng êm đưa lá khô già trút
Còn như lưu hương yêu dấu
Với suối xưa trôi nơi đâu?
Cũng với nhạc thuật tương tự, Văn Cao đưa ra bài Bến Xuân. Cũng cảnh mô tả xây nhà với người yêu nhưng ở đây không còn là nhà bên suối trong rừng mùa Thu, mà là nhà bên cạnh một bến nước trong một mùa Xuân... Cũng có chim đùa giỡn với hai người tình, nhưng ở đây loài chim còn có cả một vùng chân trời góc biển cao rộng, để tung cánh bay đi thành đàn chim Việt. Người tình trong Bến Xuân rõ nét hơn. Mối tình nơi bến nước lâu dài hơn. Suối Mơ là một khung cảnh Bến Xuân là một câu chuyện:
Tới đây chân bước cùng ngập ngừng
Mắt em như dáng thuyền soi nước..
Tới đây mây núi đồi chập chùng
Liễu dương hơ tóc vàng trong nắng.
Dù cả hai bài tình ca này đều được xây dựng trên hệ thống âm giai Tây Phương nhưng nó đều có những âm hình rất Việt Nam, ví dụ nét nhạc si la sol la re trong đoạn nhạc trích dẫn kể trên, nghe như một nét nhạc Việt diệu Nam hơi oán... Trong cả hai bài nhạc tình về mùa Thu và mùa Xuân này, bao giờ nét nhạc mineure mở đầu cũng rất là lâng lâng rồi cũng sẽ chuyển qua một nét nhạc majeure ngắn để diễn tả một niềm vui thoáng qua. Hình ảnh người tình trong cả hai bài hát này đều rất là lộng lẫy, cao sang... Tình cảm của cả hai bài nhạc tình đều không tìm con người vào cõi u tối, trái lại làm cho người nghe thấy nguôi ngoai, sảng khoái... Suốt hơn ba mươi năm, bây giờ nhìn vào bản nhạc này, tôi vẫn thấy như mình còn đang đứng ở trên một bến nước nào đó của tuổi Xuân xa xưa... nhìn những cánh buồn nâu trên sóng và nghe những tiếng chim ca lưu luyến cuộc tình vừa qua của một đôi lứa...
Sương mênh mông che lấp kín non xanh
Ôi cánh buồm nâu còn trên lớp sóng xuân!
Ai tha hương nghe ríu rít oanh ca
Cánh nhạn vào mây thiết tha
Lưu luyến tình vừa qua...
Inline image
Văn Cao tài hoa như thế mà tiếc thay, ông chỉ soạn có năm hay sáu bản nhạc tình trong đó có hai bài hát vĩ đại là Thiên Thai và Trương Chi. Bài Buồn Tàn Thu thì không có giá trị nghệ thuật cao như những bài tôi vừa kể, nhưng vì nó được hát lên rất nhiều lần trên sân khấu gánh hát rong và trên đài phát thanh Sài Gòn trong những năm 44-45 là lúc Tân Nhạc còn mới phôi thai, cho nên nó được nhiều người biết tới. Nhưng những bài tình ca nhỏ nhặt đó sẽ bị mờ đi khi Thiên Thai và Trương Chi ra đời. Với tài năng đã đến độ chín mùi, Văn Cao sẽ dắt chúng ta lên tới đỉnh cao nhất của ái tình cũng như sẽ đưa ta vào cõi sâu thẳm nhất của khổ đau với hai câu chuyện cổ dân gian biến thành hai bản tình ca muôn thuở. Tôi đã có dịp nói tới không khí Đường Thi trong nhạc Văn Cao, nghĩa là nói tới chất thơ trong sáng, cô dọng ngay từ trong những bản nhạc đầu tiên của ông. Ta thấy những bài Thu Cô Liêu, Buồn Tàn Thu như có vẻ vừa thoát ra từ khung cảnh Thu Hứng của Đỗ Phủ.
Nghe câu hát trong bài Cung Đàn Xưa: “Chiều năm xưa gót hài khai hoa, mắt huyền lưu xuân, dáng nồng thơm hương”... thì ta nghe như một câu thơ Thôi Hiệu... Nhưng trong thời kỳ hình thành và phát triển của Tân Nhạc, Văn Cao cũng không là chàng nhạc sĩ trẻ tuổi độc nhất đã bị ảnh hưởng của thơ Đường. Nhạc sĩ đàn anh Lê Thương mà đã chẳng biết dùng khung cảnh Trăng Quan San của Lý Bạch để soạn ra câu hát: "Qua Thiên San kia ai tiễn rượu vừa tàn". khiến cho ba bản Hòn Vọng Phu của ông trở thành bất diệt đó à? Có lẽ cũng cảm thấy ma lực của Đường Thi trong Tân Nhạc cho nên về sau này tôi cũng mượn không khí của Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự – Dạ bán chung thinh đảo khách thuyền của Trương Kế để soạn ra câu hát trên sông Lô:
Thuyền tôi đậu bến sông Lô
Nửa đêm nghe tiếng quân thù thở than...
Nếu chúng ta đi xa thêm vào dĩ vãng, ta lại còn thấy trong truyền thống Hát Ả Đào, những bài thơ như Tương Tiến Tửu, Tiền Hậu Xích Bích... của thơ Đường đã trở thành những điệu hát hoàn toàn Việt Nam. Còn trong sân khấu Cải Lương Miền Nam, thì cũng lại có hẳn một diệu hát được gọi tên là Dạ Bán Chung Thinh. Ai cũng bị ảnh hưởng Đường Thi mà chẳng nói ra hay chưa có dịp nói ra.
Nhưng với bài Thiên Thai ra đời vào năm 1944 thì Văn Cao đã không ngần ngại để viết mấy câu tựa như sau:...
Ảnh hưởng sông nước khúc Thiên Thai cổ trong khung cảnh huyền diệu của Đường Thi với hai truyện Thiên Thai và Đào Nguyên. Người Sông Ngự đã lạc cảm xúc rồi!