Thiền sư Vạn Hạnh, là một tu sĩ Phật giáo thời kỳ Nhà nước Đại Cồ Việt.
Ông là một trong những trí thức Phật giáo làm cố vấn cho vua Lê Đại Hành, đồng thời là người thầy của Lý Công Uẩn. Thiền sư được xem là người có tài tiên đoán,đã vận dụng khả năng này để đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, mở ra triều Hậu Lý, triều đại lâu dài và nổi bật nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Thiền sư họ Nguyễn. Không ai rõ tên ông là gì, chỉ biết ông họ Nguyễn, còn Vạn Hạnh là pháp hiệu của ông (cũng có nguồn tư liệu cho rằng, ông tên là Nguyễn Văn Hạnh). Ông quê ở hương Cổ Pháp (nay thuộc huyện Thuận Thành,tỉnh Bắc Ninh). Tương truyền, ông sinh ra trong một gia đình đã mấy đời thờ Phật.
Ngay từ thuở ấu thơ, ông đã tỏ ra là một người cực kỳ dĩnh ngộ, học một hiểu mười. Sách Thiền uyển tập anh (TUTA) đã viết: “Thuở nhỏ thông minh khác thường, học thông ba giáo (Nho, Lão, Phật) và nghiên cứu hàng trăm bộ luận Phật giáo, nhưng coi khinh công danh phú quý... ”. Năm 21 tuổi Vạn Hạnh xuất gia, đi tu học với bạn là Thiền sư Ðịnh Tuệ dưới sự chỉ dẫn của Thiền sư Thiền Ông tại chùa Lục Tổ (Từ Sơn- Bắc Ninh). Vạn Hạnh là người rất chăm chỉ đèn sách,“học hỏi không biết mệt”. Sau khi Thiền Ông mất, ông đã chuyên tâm tu về các loại thiền, đặc biệt là tập kinh Tổng Trì Tam Ma Ðịa, lấy đó làm sự nghiệp và ông đã sớm đạt được độ thượng thừa trong dòng Thiền của mình. Chính vì thế nên sau này hễ ông nói lời gì đều được thiên hạ cho là phù sấm.
Vua Lê Ðại Hành rất tôn kính ông. Mặc dù là người tu hành nhưng Vạn Hạnh không xao lãng việc nước và mỗi khi cần đều có những cao kiến giúp cho triều đình. Cụ thể, vào mùa thu năm Canh Thìn 980, hoàng đế Đại Tống sai tướng Hầu Nhân Bảo mang quân sang đóng ở núi Cương Giáp Lãng định xâm chiếm nước Đại Cồ Việt, vua Lê Đại Hành triệu ông vào hỏi nếu đánh thì thắng hay bại.
Ông đáp “Chỉ trong ba, bảy ngày giặc tất phải lui... ”. Lời này sau ứng nghiệm.
Năm Nhâm Ngọ 982, khi Vua Lê Đại Hành cử Từ Mục, Ngô Tử Anh đi sứ
Chiêm Thành, bị Vua Chiêm bắt giữ, nhà vua rất tức giận muốn cất quân sang đánh Chiêm Thành, vì Chiêm Thành không thần phục, nhưng còn do dự chưa cất quân. Khi xin ý kiến sư Vạn Hạnh, Ngài trả lời: "Nên xuất quân sang đánh, nếu không sẽ bỏ lỡ cơ hội và không kịp thời nữa". Quả thật, trận ấy quân đội của vua Lê Đại Hành đã đại thắng. Nhà nước Chiêm Thành đã thần phục và triều cống nhà
Lê, giữ vững bờ cõi Phương Nam một thời gian, dân chúng an cư lạc nghiệp, thiên hạ thái bình, thịnh trị.
2
Những thao tác siêu dị trong phép đoán định những điều tưởng như bí ẩn còn giúp cho Thiền sư bảo vệ chính bản thân mình. Như thời bấy giờ có người tên Đỗ Ngân muốn ám hại thiền sư; việc chưa xảy ra thì thiền sư đã biết trước, gửi cho Đỗ Ngân bài kệ rằng:
Thổ mộc tương sinh cấn bạn câm,
Vi hà mưu ngã uấn linh khâm.
Đương thời ngũ khẩu thu tâm tuyệt,
Chân chí vị lai bất hận tâm.
(Thổ mộc sinh ra cẩn cạnh căm,
Thù ta toan định sẵn mưu ngầm,
Tăng này biết chuyện lòng buồn dứt,
Cả đến mai sau chẳng oán thầm!).
Bài kệ nói rõ mưu đồ của Đỗ Ngân. Chính vậy Đỗ Ngân sợ, không dám tiếp tục mưu hại ông nữa...
Năm Tân Tị 981, Thiền sư Vạn Hạnh đã được người bạn là sư Lý Khánh
Vân, trụ trì tại chùa Cổ Pháp, gửi gắm người con nuôi lúc đó mới lên 7 tuổi là Lý Công Uẩn. Vạn Hạnh đã sớm nhìn ra trong đứa trẻ này mầm mống của một danh nhân, mai sau tất làm chúa cả nước. Chính nhờ sự giúp đỡ của ông mà Lý Công Uẩn khi lớn lên đã vào kinh đô Hoa Lư làm quan cho nhà Tiền Lê, lên tới chức Điện tiền quân.
Vào cuối Triều Lê, khi vua Lê Đại Hành băng hà năm 1005, con là Lê Trung Tông lên kế vị được 3 ngày thì bị Lê Long Đỉnh giết và chiếm ngôi. Trong cảnh tang thương, đa phần đám bầy tôi đều ai chạy đường nấy, duy chỉ có Điện tiền quân Lý Công Uẩn ôm xác vua mà khóc. Long Đĩnh chứng kiến cảnh này, cho rằng Lý Công Uẩn là người trung nghĩa nên khi lên ngôi, đã cho Lý Công Uẩn làm Tứ sương quân Phó chỉ huy sứ...
Vua Long Đĩnh dù tuổi còn rất trẻ nhưng đã tỏ ra rất bạo ngược, hoang dâm,lại cướp ngôi nên lòng người chán ghét, nhiều địa phương nổi lên chống đối triều đình. Cũng đúng giai đoạn đó tại nhiều nơi đã xuất hiện những điềm lạ lùng.
Thiền sư Vạn Hạnh khi ấy mới nói với Thân vệ Lý Công Uẩn rằng: “Gần đây tôi thấy nhiều lời sấm lạ báo hiệu nhà Lê phải mất mà nhà Lý tất phải lên thay.
Người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai khoan từ nhân đức bằng ông, đương nắm binh quyền trong tay lại được lòng dân chúng. Người đứng đầu muôn dân chẳng phải Thân vệ còn ai đương nổi. Tôi đã hơn 70 tuổi rồi, mong được thư thả hãy chết để xem đức hóa của ông ra thế nào. Tôi chỉ ân hận không kịp thấy đời thịnh trị mà thôi...”.
3
Có lẽ chính câu nói này của Thiền sư đã khiến cho Lý Công Uẩn nhận thức được rõ hơn vai trò đích thực của mình.
Thiền sư Vạn Hạnh rất biết sức mạnh của lòng dân trong chính sự nên đã đưa ra nhiều câu sấm truyền vận động tâm lý giúp cho Lý Công Uẩn đạt cơ hội đế vương của mình vào năm 1009.
Thiền sư Vạn Hạnh còn là người có công thuyết phục vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về Đại La, khai sinh ra kinh thành Thăng Long (Hà Nội ngày nay) với một truyền thuyết đầy lãng mạn về sức vươn lên như rồng thiêng của đất nước.
Ông cũng là người thảo ra lời chiếu dời đô hào sáng, nhấn mạnh rằng, đất Đại La “ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa Nam, Bắc, Đông,Tây, tiện nghi núi sông sau trước, vùng đất ấy rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ vì thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tốt tươi và
phồn thịnh! ”
Vua Lý Thái Tổ rất sùng mộ Thiền sư Vạn Hạnh và phong ông làm Quốc sư. Tuy nhiên, ngày thường, ông vẫn ở trong chùa. Chỉ những khi quốc gia hữu sự có lời vua mời thì ông mới vào triều giúp ý kiến cho vua rồi trở về chùa.
Ngày 15/5 năm Mậu Ngọ 1018, Thiền sư không bệnh nhưng đã linh cảm
trước được kết cục đang gần, đã gọi các đệ tử đến và đọc cho nghe bài kệ:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
(dịch:
Thân mình, có lại thành không,
Xuân cây tươi thắm, sang đông não nề.
Đã tu muôn sự vô vi,
Như sương trên cỏ, thịnh suy tĩnh lòng...)
Thấy các đệ tử thương khóc, Thiền sư bảo rằng: “Các con muốn ta đi về đâu? Ta không lấy chỗ trụ để trụ và cũng không nương vào chỗ không trụ để trụ”.
Sau khi Thiền sư qua đời, vua Lý Thái Tổ và tất cả triều thần nhà Lý đến làm Lễ Trà tỳ, thỉnh xá lợi của ông về thờ tại chùa Tiêu Sơn (chùa Lục Tổ).
Ngày nay, để tưởng nhớ vị thiền sư đã ghi lại nhiều dấu ấn trong lịch sử dân tộc và Phật giáo Việt Nam. Nhiều thành phố có tên đường Sư Vạn Hạnh
4
Viện Phật học Vạn Hạnh, bệnh viện Sư Vạn Hạnh,... Quả thực: “Hoa đời, Hoa đạo đua nhau nở. Mãi mãi ngàn sau vẫn ngát hương”./.